[Trang chu] [Kinh sach]

33 VỊ TỔ ẤN HOA

[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]


4.- Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa (Upagupta)

Cuối thế kỷ thứ nhất sau Phật Niết-bàn

 

Ngài ḍng Thủ-Đà-La ở nước Sất-Lợi, cha tên Thiện-Ư. Trước khi sanh Ngài, thân phụ nằm mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà. Thưở bé Ngài mặt mũi khôi ngô, tánh t́nh thuần hậu, trí huệ minh mẫn

Khoảng 12 tuổi, Ngài được gặp Tổ Thương-Na-Ḥa-Tu đến tận nhà và dạy cho Ngài phương pháp buộc niệm. Nghĩa là mỗi khi khởi nghĩ ác liền bỏ một ḥn sỏi đen vào hũ, khi khởi nghĩ lành liền bỏ một ḥn sỏi trắng vào hũ. Mỗi tháng đem ra xem xét coi đen nhiều hay trắng nhiều ; nếu đen nhiều phải cố gắng sửa đổi. Ngài vâng làm như vậy, ban đầu sỏi đen nhiều, dần dần bằng nhau và sau nầy trắng nhiều.

Năm 17 tuổi, Ngài xin Tổ Thương-Na-Ḥa-Tu xuất gia. Tổ hỏi : - Ngươi được bao nhiêu tuổi ?

Ngài thưa : - Bạch thầy, con được 17 tuổi. - Thân ngươi 17 tuổi hay tánh ngươi 17 tuổi ?

Ngài hỏi lại : - Đầu thầy tóc bạc, vậy tóc thầy bạc hay tâm thầy bạc ?

Tổ bảo : - Tóc ta bạc không phải tâm ta bạc - Con cũng thế, thân con được 17 tuổi, không phải tánh con 17 tuổi Tổ bèn hoan-hỉ nhận cho xuất gia làm thị giả. Đến 20 tuổi, Ngài thọ giới cụ túc và ngộ đạo. Tổ bảo:

Xưa Đức Thế-Tôn đem chánh pháp vô thượng truyền cho Tổ Ca-Diếp. Tổ Ca-Diếp truyền lại cho thầy của thầy ta là Đức A-Nan, thầy ta truyền cho ta và nay ta truyền lại cho ngươi chánh pháp nầy. Ngươi cố gắng hộ tŕ đừng để đoạn dứt. Hảy nghe bài kệ đây :

Phi pháp diệc phi tâm, Vô tâm diệc vô pháp. Thuyết thị tâm pháp thời, Thị pháp phi tâm pháp

Dịch : Phi pháp cũng phi tâm, không tâm cũng không pháp , Khi nói tâm pháp ấy, Pháp ấy phi tâm pháp.

Khi, Ngài đến nước Ma-Đột-La, Ngài cảm hóa rất đông dân chúng qui hướng Phật pháp, có nhiều người đă chứng đạo quả. Có những khi Ngài thuyết pháp, chư thiên rải hoa, quả đất rúng động, khiến cung ma cũng bị chấn động. Vua ma-ba-tuần sợ e Phật-giáo thạnh hành th́ bè đảng của chúng bị tiêu diệt, nên quyết dùng hết thần lực phá hoại Phật-pháp. Ma bèn hiện các ngọc nữ đến làm nhiễu loạn tâm thính giả. Ngài liền nhập định để quán sát nguyên do, Được cơ hội thuận tiện, ma đem ṿng chuỗi anh-lạc quàng vào cổ Ngài. Xuất định, Ngài dùng thần lực biến ba thây chết -người, chó, rắn – thành một tràng hoa đẹp. Ngài dùng lời diệu ngọt bảo ma :

Ngươi sẵn ḷng tốt đem chuỗi anh-lạc rất quí tặng ta, giờ ta biếu lại ngươi tràng hoa đẹp nầy, gọi là thù tạc nhau.

Vua ma nghe rất mừng, đưa cổ nhận tràng hoa. Tràng hoa tṛng vào cổ giây lát hóa thành thây thúi, gịi tửa ghê tởm. Vua ma kinh sợ gớm chán, muốn cởi ra mà cởi không được, dùng hết thần lực cũng không cởi nổi. Túng thế, vua ma chạy lên cơi trời Dục cầu cứu với vua Trời, rốt cuộc không kết quả. Lần lượt vua ma cầu cứu đến Trời Phạm. Vua các Trời đều bảo : - Pháp ấy là do đệ tử Phật biến hóa ra, chúng ta c̣n phàm lậu làm sao trừ được.

Vua ma nghe phán như vậy lại hỏi : - Thế th́ làm thế nào gỡ ra ? Vua Trời nói kệ :

Nhược nhơn địa đảo, Hoàn nhơn địa khởi. Ly địa cầu khởi, Chung vô kỳ lư.

Dịch : Nếu nhơn đất ngă, Phải nhờ đất dậy. ĺa đất muốn dậy, Trọn không lư ấy.

Vua ma nhận lời dạy, rời khỏi cung Trời trở về chỗ Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa chí thành lễ tạ sám hối. Ngài bảo: -Thánh trước dạy ta hàng phục ngươi. Tuy vậy, nếu ngươi biết cải thiện là được thờ phụng Phật, khỏi sa vào đường dữ. Vua ma nghe dạy vui vẻ thưa: - Tôn-giả v́ con làm lợi ích lớn, cúi xin Tôn-giả cởi ṿng thây thúi dùm con .- Ngài dạy:- Vậy ngươi phải quỳ gối chấp tay tự xướng ba lần quy-y tam bảo đi. Vua ma quỳ gối chấp tay xướng ba lần quy-y tam bảo xong, th́ ṿng thây thúi biến mất. Vua ma vui mừng nhảy nhót đảnh lễ Ngài nói kệ:

Khể thủ tam muội tôn, Thập lực đại từ túc. Ngă kim nguyện hồi hướng, Vật linh hữu liệt nhược.

Dịch : Cúi lạy chánh-định tột, Đủ mười lực đại từ. Nay con xin hồi hướng, Chớ c̣n tánh yếu hèn.

Sau khi quy-y tam bảo xong, Ngài bảo vua ma: - Xưa ngươi thường thấy Như-Lai, giờ đây hiện thử cho ta xem.

Vua ma thưa: - Hiện việc xưa không khó, chỉ xin Tôn-giả trông thấy đừng lễ. Vua ma liền vào rừng ẩn mất. Chốc lát bỗng thấy Phật từ mé rừng đi ra oai nghi nghiêm chỉnh, theo sau đoàn Tỳ-kheo 1250 vị. Ngài vừa trông thấy, bất giác cúi ḿnh đảnh lễ. Ma hoảng kinh biến mất. Lúc hóa đạo, mỗi khi giáo hóa một người thâm ngộ Phật-pháp Ngài để vào thất đá một thẻ tre. Ngôi thất ấy bề dài 18 thước tay bề ngang 12 thước tay. Thế mà một thời gian thẻ tre đầy khắp cả thất. Sau cùng, Ngài độ ông Hương-Chúng con một vị trưởng giả và truyền chánh pháp lại cho ông nầy. Nhơn thân phụ ông Hương-Chúng mộng thấy mặt trời vàng xuất hiện trong nhà, nên Ngài đổi hiệu là Đề-Đa -Ca. Đă có người kế thế và nhơn duyên hóa đạo đă xong. Ngài từ biệt đại chúng, Ngồi kiết già thị-tịch. Đề-Đa-Ca và môn đệ mở cửa thất đá lấy thẻ tre làm vật liệu thiêu Ngài., thiêu xong lượm xá-lợi xây tháp cúng dường .

 


[Mucluc][1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

[16][17][18][19][20][21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33]

[Trang chu] [Kinh sach]