HOA VÔ ƯU
(Tập IV)
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]
THIỀN TÔNG LÀ CỘI GỐC Giảng tại Thiền đường Ḥa thượng Thánh Nghiêm Hoa Kỳ tháng 11 2000
Đề tài chúng tôi nói chuyện hôm nay Thiền tông là cội gốc của đạo Phật. Chúng tôi là những người tu thiền ở Việt Nam, nhưng thời chúng tôi không được sự kế thừa của các vị Tổ trong Ngũ Gia Tông Phái ở Trung Quốc. Song tôi quyết tâm tu thiền nên dồn hết sức ḿnh vào việc nghiên cứu tu Thiền. Điều đáng tiếc là Thiền tông Việt Nam đă vắng bóng gần một thế kỷ, nên chúng tôi phải tự tra cứu, học hỏi trong kinh sách và lịch sử để t́m ra một lối tu. Riêng tôi, trước hết tôi tu Lục Diệu Pháp Môn, là phương pháp của Thiền sư Trí Khải ở Trung Hoa, lấy đó làm cương lĩnh ban đầu. Lục Diệu Pháp Môn gồm có sáu pháp: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán, Hoàn, Tịnh. Khi đi sâu vào tu hành, chúng tôi cũng có tiến bộ đôi chút. Dù vậy, tôi rất băn khoăn, muốn thấu hiểu được đường lối tu thiền của các Tổ để ứng dụng tu, đồng thời kế thừa sự nghiệp của những bậc Tôn túc thời trước. Nhưng khi nghiên cứu thiền của chư Tổ chúng tôi thấy rất khó, đọc tác phẩm của các ngài không hiểu ǵ cả. Như câu chuyện Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa, ngồi xoay mặt vào vách chín năm. Sau đó có một người tên Thần Quang đến xin tu tập và được Tổ nhận cho làm đệ tử đổi tên thành Huệ Khả, luôn theo hầu Tổ. Một hôm, ngài Huệ Khả bạch với Tổ Đạt-ma: "Bạch Ḥa thượng, tâm con không an, xin Ḥa thượng dạy con pháp an tâm. " Tổ Đạt-ma bảo: "Đem tâm ra ta an cho. " Ngài Huệ Khả t́m lại tâm ḿnh, t́m măi không được, bèn thưa: "Bạch Ḥa thượng, con t́m tâm không được. " Tổ bảo: "Ta đă an tâm cho ngươi rồi! " Câu chuyện đối đáp giữa hai thầy tṛ, chúng tôi ṃ mẫm măi không ra. Thời gian sau, đủ duyên nhập thất tu, tôi cũng đọc đi đọc lại câu chuyện đó, bỗng dưng thấy được lối vào của Tổ Huệ Khả. Từ đó chúng tôi thay đổi, không tu theo Lục Diệu Pháp Môn nữa, mà đi thẳng vào đường lối tu Thiền. Như vậy, chúng tôi không theo hệ thống của Ngũ Gia Tông Phái, mà trực tiếp theo hướng tu của Tổ Huệ Khả, nên không theo hệ thống truyền bá Thiền tông như trước đây. Tu Thiền tông theo Tổ Đạt-ma là cốt quay lại t́m xem cái tâm nghĩ suy lăng xăng đó ở đâu, thật hay giả. Phương pháp này danh từ chuyên môn gọi là "Phản quan tự kỷ". Bởi v́ chúng ta mê lầm tâm hư dối bóng dáng là tâm ḿnh, nên lâu nay bị nó dẫn chạy ngược chạy xuôi. Giờ đây, nh́n kỹ lại nó tan biến. Đó là lối tu của Tổ Đạt-ma dạy, không có trong kinh điển. V́ vậy được gọi là "Giáo ngoại biệt truyền", tức truyền ngoài giáo lư. Đây chính là chân tinh thần của Thiền tông. Chúng tôi lănh hội được yếu chỉ đó, nên ứng dụng tu và dạy Tăng Ni Phật tử ở Việt Nam tu thiền như thế. Nghĩa là phải nh́n tường tận những tâm niệm vừa dấy khởi, liền biết nó là vọng tưởng hư dối, không theo th́ nó tự lặng. Khi nào nó mạnh, làm ồn th́ chúng ta phản quan lại, xem nó xuất phát từ đâu, khi đó nó mất tăm mất dạng. Tổ Huệ Khả nhận được yếu chỉ đó rồi, Ngài tu một thời gian và tŕnh với Tổ Đạt-ma: "Hiện con đă dứt hết các duyên. " Tổ Đạt-ma bảo: "Coi chừng rơi vào không. " Ngài Huệ Khả thưa: "Rơ ràng thường biết, làm sao không được. " Tổ Đạt-ma liền ấn chứng cho Huệ Khả. Chúng ta thấy đường lối tu của Thiền tông là phải làm sao dứt bặt tâm duyên theo ngoại cảnh. Tâm đó lặng hết, th́ cái rơ ràng thường biết hiện tiền, đó là gốc của tu thiền. Sau này, Lục tổ Huệ Năng nhân nghe Ngũ Tổ dạy kinh Kim Cang, đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm", nghĩa là không có chỗ trụ mà sanh tâm kia, Ngài bừng sáng liền tỉnh ngộ, thốt lên rằng: "Đâu ngờ tâm ḿnh xưa nay thanh tịnh. Đâu ngờ tâm ḿnh xưa nay trùm khắp. Đâu ngờ tâm ḿnh xưa nay hay sanh muôn pháp"… Nghe thế Ngũ Tổ biết Ngài đă triệt ngộ liền truyền tâm ấn và trao y bát cho, rồi dạy Ngài về phương Nam giáo hóa. Khi sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư tiếp xúc với sáu trần bên ngoài là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà không dính không nhiễm, lúc đó chúng ta được an tâm, được tiến tới quả Vô thượng Bồ-đề. Sau này, trên đường Tổ trở về phương Nam, có một đoàn người đuổi theo để giành lại y bát, trong đó có Thượng tọa Minh đuổi theo kịp. Thấy vậy, Tổ Huệ Năng liền để y bát trên một tảng đá, rồi chui vào bụi cây trốn. Thượng tọa Minh tới thấy y bát mừng quá liền ôm lên, nhưng ôm không nổi, buộc ḷng kêu lên: "Hành giả! Hành giả! Tôi đến đây v́ pháp chớ không phải v́ y bát. " Nghe vậy, Tổ từ trong bụi cây chui ra, bảo: "Nếu ông đến đây v́ cầu pháp, th́ hăy đứng yên lặng, ta sẽ nói cho. " Thượng tọa Minh đứng yên lặng giây lâu, Tổ bảo: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái ǵ là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh? " Ngay câu nói đó, Thượng tọa Minh liền lănh hội được. Lục Tổ nhân nghe kinh biết rơ khi tâm không chạy theo, không dính mắc với sáu trần th́ tâm ấy an nhiên, thanh tịnh, trong sáng, hằng hữu nơi chúng ta, nhưng lâu nay ḿnh quên. Giờ đây, không dính với sáu trần nữa, th́ nó hiển lộ ra. Tâm không dính với sáu trần tức là không c̣n chạy theo cảnh bên ngoài, không khởi nghĩ suy về cảnh, về người v. v… Nếu tâm không dấy khởi, không chạy ra ngoài th́ nó trở về thể thanh tịnh sẵn có xưa nay. Cho nên Tổ Huệ Năng nghe Ngũ Tổ giảng đến chỗ tâm không trụ, Ngài liền nhận được Tâm thể sẵn có của ḿnh. Tâm thể đó chưa từng sanh, chưa từng diệt, trùm khắp, không bị giới hạn trong phạm vi của thân này. V́ vậy Ngài mới thốt lời: "Đâu ngờ tâm ḿnh xưa nay trùm khắp…" Chúng ta tu làm sao cho tâm đừng chạy theo cảnh, tức được yên lặng. Mà yên lặng chính là chỗ chân thật hiển bày. V́ vậy khi Thượng tọa Minh yêu cầu Lục Tổ nói pháp th́ bài pháp đầu tiên của Ngài là "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái ǵ là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh? " Bởi v́ tâm vừa nghĩ lành, vừa nghĩ dữ là đă loạn rồi, là tâm vọng tưởng. Một khi khởi nghĩ th́ luôn luôn là đối đăi, mà đối đăi là sanh diệt. Không c̣n mắc kẹt trong đối đăi nữa th́ khuôn mặt thật muôn đời sẵn có của ḿnh hiện bày. Cho nên Thiền sư Vô Nghiệp, khi có người hỏi bất cứ câu ǵ, Ngài chỉ trả lời: "Chớ vọng tưởng!" Tinh thần Thiền này truyền măi đến Việt Nam vào thế kỷ thứ mười ba. Vua Trần Nhân Tông, khi đi tu Ngài lên núi Yên Tử, lập một hệ phái tên là Trúc Lâm Yên Tử. Ngài có làm bài phú "Cư Trần Lạc Đạo". Trong đó, câu chót thế này "Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền". Nghĩa là đối với cảnh mà không có tâm dính mắc th́ đừng hỏi thiền chi nữa, v́ ngay đó là thiền rồi. Đối với cảnh mà tâm không dính mắc tức là chỗ kinh Kim Cang bảo sáu căn đừng dính với sáu trần. Do không dính mắc với sáu trần nên tâm an định. Đó là Thiền. Như vậy, Thiền của Thiền tông là cốt không cho tâm dính mắc với sáu trần. Đó là gốc, là đường lối căn bản của nhà Thiền. Trước khi xuất gia, vua Trần Nhân Tông đă được học với ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ. Khi sắp trở về lên ngôi Thái tử, Ngài hỏi Tuệ Trung chủ đích của thiền là ǵ? Tuệ Trung đáp thế này: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc", nghĩa là nh́n lại ḿnh là phận sự chính, đừng chạy t́m bên ngoài. Quay lại ngay nơi tâm ḿnh đó là bổn phận chính của người tu thiền, không thể hướng bên ngoài mà được. Ngay câu đó, nhà Vua lănh hội được yếu chỉ thiền. Phương hướng tu hành của Thiền tông không phải lấy kinh điển làm trọng yếu, mà phải biết xoay lại nơi ḿnh để nh́n thẳng nội tâm, biết cái ǵ hư dối buông xả, cái ǵ chân thật nhận lại, chớ không có ǵ xa lạ hết. Tại sao tôi nói Thiền là cội gốc của đạo Phật? Bởi v́ trong kinh A-hàm, đức Phật dạy người tu thiền phải quán Tứ niệm xứ. Quán Tứ niệm xứ là quán thân bất tịnh, quán thọ là khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngă. Bốn pháp quán ấy đều xoay lại ḿnh, để thấy cho tường tận. Như vậy tu thiền theo giáo lư Nguyên thủy cũng phải phản quan. C̣n nếu tu thiền theo kinh Kim Cang th́ không cho sáu căn dính mắc với sáu trần. Rơ ràng kinh Phật từ hệ Nguyên thủy cho đến hệ Bắc tông đều dạy phải xoay lại, tự quán chiếu chính ḿnh và tự ǵn giữ, đừng để tâm phóng theo sáu trần. Cho đến kinh Lăng Nghiêm thuộc Bắc truyền, có một đoạn kể lại ngài A-nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, cái ǵ là cội gốc của sanh tử luân hồi? Cái ǵ là cội gốc của Bồ-đề Niết-bàn? " Đức Phật im lặng. Lúc đó mười phương chư Phật đồng thanh bảo rằng: "Cội gốc luân hồi sanh tử là sáu căn của ông. Cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn của ông. " Như vậy, từ kinh Phật cho đến đường lối Thiền tông rất phù hợp, rất thích ứng với nhau. V́ vậy chúng tôi mới quả quyết Thiền tông là cội gốc của đạo Phật. Có một Thiền khách đến gặp vị Thiền sư trưởng lăo, hỏi: - Bạch Ngài, thế nào là Phật tánh? Vị trưởng lăo đáp: - Như một con khỉ được nhốt trong lồng có sáu cửa. Bên ngoài một con khỉ khác đứng kêu "Chéo! Chéo! " để đáp lại con khỉ trong lồng cũng kêu "Chéo! Chéo! " Nghe tới đó, vị Thiền khách hỏi: - Nếu con khỉ bên trong ngủ th́ sao? Ngay lúc ấy, Thiền sư liền nắm vai, nói: - Chúng ta đă thấy nhau rồi! Đó là câu trả lời cho câu hỏi thế nào là Phật tánh. Bởi tâm chúng ta như con khỉ chuyền nhảy lăng xăng không dừng, cho nên gặp cảnh ngoài th́ dính với cảnh ngoài. Bao giờ nó dừng lặng tức con khỉ bên trong ngủ, th́ con khỉ ở ngoài dù có kêu mấy nó cũng yên lặng, không trả lời. Đó là Phật tánh hiển lộ. Trong nhà Thiền thường dùng câu "Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành Phật", nghĩa là chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật. Tại sao? V́ bao nhiêu kiếp rồi, chúng ta cứ cho cái nghĩ suy phân biệt là tâm, mà quên rằng khi nghĩ suy phân biệt dừng, tâm chân thật tự đầy đủ hiện tiền. Như chúng ta ngồi chơi, không có nghĩ suy ǵ hết, lúc đó vẫn thấy, vẫn nghe, các thứ xúc chạm đều biết một cách rơ ràng. Nếu nghĩ suy là tâm th́ khi không nghĩ suy, tâm cũng mất luôn. Nhưng thật ra lúc đó ḿnh vẫn biết. Như vậy, mới thấy chúng ta có cái biết luôn sẵn ở đây, nhưng v́ vọng tưởng phủ che, nên cái biết đó không hiện bày rơ ràng. Khi vọng tưởng lặng xuống th́ nó hiện bày rơ ràng. Đó là Tổ chỉ cho chúng ta thấy cái không sanh không diệt, sẵn nơi ḿnh mà chúng ta quên, cứ chạy theo cái sanh diệt, rồi mê lầm chịu luân hồi sanh tử măi. Chúng tôi dạy tu thiền là thể theo tinh thần đó, vừa khởi nghĩ liền buông, không cho tâm chạy theo cảnh. Nhờ vậy lần lần tâm được yên lặng. Tâm yên lặng th́ sáu căn trong sạch, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư được trong sạch. Đó là trở về với tánh giác của ḿnh chớ không có ǵ khác. Như vậy chúng tôi lấy tinh thần Thiền tông từ Tổ Huệ Khả đến Tổ Huệ Năng truyền dạy rơ ràng. Đường lối này cũng được các vị Tổ Việt Nam như Tuệ Trung Thượng Sĩ, vua Trần Nhân Tông lập cước theo đó mà tu, đồng thời lập ra Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, là một Thiền phái hoàn toàn Việt Nam. Đường lối này vừa chỉ thẳng, vừa khế hợp với kinh Phật dạy. Ngày nay chúng tôi cũng căn cứ theo đó tu và hướng dẫn Phật tử hâm mộ tu thiền cùng tu. Do tính khế hợp từ đức Phật cho đến chư vị Tổ sư nên tôi nói "Thiền là cội gốc của đạo Phật". Mong tất cả ghi nhận và hiểu đúng điều này. Được vậy, chúng ta sẽ vững niềm tin hơn trong pháp tu thiền của ḿnh. ]
|
[mucluc][loidausach][p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]