TU CÓ CHUYỂN ĐƯỢC NHÂN QUẢ KHÔNG
?
Từ lâu, chúng ta thường nghe nói gây nhân nào
thì chịu quả nấy, tức là ai tạo nhân gì thì phải thọ quả báo đúng như vậy,
không sai. Song, trong kinh Phật có dạy như vậy không ? Đây là điều mà chúng
ta phải tìm hiểu cho tường tận, vì đa số người mới tu đều nghĩ rằng : Xưa
kia làm điều tội ác, ngày nay tu hành là mong giảm bớt khổ đau. Nhưng, nếu
trước đã gây nhân nào sau phải chịu quả nấy thì tu để làm gì ? Tu cốt cho
hết khổ, mà nếu gây nhân nào phải thọ nhận quả nấy thì tu đâu có hết khổ ?
Nếu chúng ta hiểu theo nghĩa nông cạn đơn giản là tác nhân nào thọ quả nấy,
thì sẽ thối tâm không tu được. Lý nhân quả của đạo Phật không cố định là tác
nhân nào thọ quả nấy, mà cũng không phải tác nhân mà không thọ quả, nó rất
phức tạp.
Kinh A-hàm Phật có dạy : Người gây nhân bất
thiện, trước hoặc sau họ biết tu thân, tu giới, tu tâm thì quả sẽ đổi thay.
Nếu người gây nhân bất thiện mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm thì gây
nhân nào sẽ thọ quả nấy, đó là nhân nào quả nấy. Và gây nhân mà biết chuyển
nghiệp thì quả cũng đổi thay. Phật ví dụ một nắm muối nếu hòa tan trong tô
nước lạnh thì tô nước ấy mặn không uống được. Cũng nắm muối đó, nếu hòa tan
trong lu nước lớn dung lượng độ vài ba trăm lít nước trong lu sẽ uống được,
nhưng vị nước hơi mẳn mẳn. Và nếu nắm muối đó hòa tan trong một hồ nước dung
tích bốn năm ngàn lít nước không còn mặn, dùng xài bình thường. Nhân bất
thiện dụ cho vị mặn của nắm muối hòa tan trong tô nước thì quả cũng mặn,
không giải khát được. Nhân mặn của nắm muối nếu hòa tan trong lu nước thì
quả mặn loãng ra, nước có thể tạm giải khát được. Nếu nhân mặn của nắm muối
hòa tan trong hồ nước lớn, thì quả mặn không thấm vào đâu, nước dùng xài
bình thường. Cũng vậy, người mà không biết tu thân, tu giới, tu tâm, tạo
nhân ác thì trả quả ác nguyên vẹn, dụ như nắm muối tan trong tô nước, không
giải khát được. Nếu người biết tu thân, tu giới dụ như nắm muối tan trong lu
nước tuy vị nước mặn nhưng cũng tạm dùng được. Còn người biết tu thân, tu
giới, tu tâm dụ như nắm muối tan trong hồ nước to, vị nước không mặn, dùng
xài bình thường. Nếu tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả sẽ chuyển không
thọ đúng như khi gây nhân. Như vậy, nếu gây nhân ác mà không biết tu, không
chuyển nghiệp thì tác nhân nào thọ quả nấy không sai chạy. Nếu gây
nhân ác biết tu thân, tu giới là có chuyển nghiệp thọ quả báo nhẹ hơn. Còn
nếu gây nhân ác biết tu thân tu giới tu tâm gần như nghiệp chuyển hoàn toàn.
Cho nên tu là chuyển đau khổ được an vui.
Kiểm lại, mỗi người chúng ta từ nhỏ cho đến
già, không ai là người hoàn toàn thiện, cũng có khi người nầy làm người kia
khóc than, cũng có lúc người kia làm người nọ oán hận. Như vậy, là đã tạo
nhân xấu, nếu hiện tại tu mà vẫn trả quả xấu như cũ thì tu được lợi ích gì ?
Thế nên phải biết, tu là chuyển quả xấu, tùy theo sức huân tu nhiều hay ít
mà quả tùy theo đó chuyển đổi.
Sau đây Phật dạy : Có một gia chủ chăn nuôi
một bầy dê, một hôm có người thường dân đến trộm dê, bị gia chủ bắt được
đánh, đưa ra pháp luật bỏ tù. Lần khác, kẻ trộm dê là người của quan lớn,
gia chủ chỉ bực tức nói nặng đôi câu, chớ không đối xử thậm tệ như người
thường dân trước. Kế tiếp, kẻ trộm dê là lính của vua, thì gia chủ không dám
nói nặng nhẹ và chỉ van xin, năn nỉ đừng bắt dê. Trong ba trường hợp trên dụ
cho : Người không biết tu thân, tu giới, tu tâm gây nhân bao nhiêu thì phải
trả quả bấy nhiêu. Vì vậy mà nói nhân nào quả nấy, đó là dụ người thường dân
trộm dê không thế lực. Trường hợp người trộm dê là lính của quan thì
chỉ bị trách móc nặng nhẹ. Đó là du cho người biết tu thân tu giới, tuy có
thọ nhận quả ác nhưng quả báo nhẹ hơn. Trường hợp người trộm dê là lính của
vua, thì không bị đánh đập, không bị nói nặng nhẹ. Đó là dụ cho người tuy có
tạo nhân ác, nhưng biết tu thân, tu giới, tu tâm thì nghiệp quả được hóa
giải.
Như vậy để thấy cùng tạo nhân ác, tùy theo khả
năng tu tập cao thấp mà thọ quả có sai khác. Nếu biết tu thì quả liền
chuyển, không cố định như người không biết tu. Khi biết rõ người có tu thân,
tu giới, tu tâm thì sẽ giải thoát được những nghiệp quả đã gây trước kia;
tuy nói thoát mà không phải hết hoàn toàn. Nghĩa là nắm muối vẫn hòa tan
trong hồ nước, song vì nước trong hồ quá nhiều nên không thấy mặn. Cũng như
chú lính của nhà vua trộm dê, tuy chủ dê không đánh đập không nói nặng nhẹ,
nhưng trong lòng chủ nhà không vui, không cảm tình. Đó là nhân quả sai biệt
theo khả năng tu tập.
Thế nào là tu thân, tu giới, tu
tâm ?
Tu thân là nơi thân này không làm diều ác, tất
cả mọi điều ác dù lớn hay nhỏ đều phải tránh, còn mọi điều thiện phải cố
gắng làm, luôn luôn nhớ và làm, đó là biết tu thân.
Tu giới là người Phật tử tại gia, sau khi quy
y rồi, Phật dạy phải giữ năm giới :
1.- Không sát sanh : Là không giết người, vật.
Vì ai cũng muốn sống thì mạng sống phải được tôn trọng không nên giết mạng
sống của người. Nếu giết mạng sống của người thì bị luật pháp trừng trị. Vì
tôn trọng mạng sống của mình, nên phải tôn trọng mạng sống của người. Đó là
lẽ công bằng, trái với lẽ công bằng là tội lỗi. Ngoài ra, đối với những con
vật lớn như trâu, bò, heo, chó... tránh được bao nhiêu là tốt bấy nhiêu. Chủ
yếu là không giết người. Một là tự tay mình giết, ví dụ mình oán thù ai thì
tự mình đến giết người đó chết. Hai là sai bảo người khác giết, ví dụ mình
oán thù người nào, mình khôg trực tiếp giết được bèn xúi bảo hay mướn người
khác giết. Ba là hoan hỷ khi nghe thấy giết, ví dụ mình oán thù người đó, tự
mình không giết được, khi thấy hay nghe người đó bị giết, mình vui mừng
thícg thú. Như thế là phạm tộ sát sanh. Vì tự tay giết là thân tạo nghiệp
ác, sai bảo người giết là miệng tạo nghiệp ác, nghe thấy người giết sanh tâm
vui mừng là ý tạo nghiệp ác, nên Phật cấm không cho Phật tử làm.
2.- Không được trộm cướp : Phàm của cải của
người khác, chẳng được không cho mà lấy từ một cây kim, một ngọn cỏ cũng
vậy, tất cả các vật chẳng được không cho mà lấy. Hoặc trộm lấy, hoặc
giựt, hoặc lừa gạt mà lấy, cho đến trốn xâu lậu thuế cũng đều gọi là
trộm cướp.
3.- Không tà dâm : Người Phật tử sau khi lập
gia đình có đôi bạn rồi, mà còn đi ngoại tình với người khác là phạm tội tà
dâm. Vì đó là duyên cớ làm cho gia đình mất hạnh phúc, làm cho gia đình tan
vỡ, là cái nhân gây đau khổ cho mình cho người, vì vậy mà Phật cấm.
4.- Không nói dối : Nói dối có bốn trường hợp
phạm tội.
a. Chuyện có nói không, chuyện không nói có,
cốt lừa gạt để lấy tiền lấy của người.
b. Nổi giận, nói lời hung dữ thô ác, mắng
chửi người, vu oan người.
c. Dùng lời hoa mỹ văn chương thêu dệt để lừa
gạt người.
d. Nói lời đâm thọc làm cho đôi bên bất hòa
thù oán nhau.
Đó là những trường hợp nói dối thì phạm tội.
Nếu nói dối để trấn an người bịnh người khổ, hoặc để cứu mạng người thì
không phạm.
5.- Không uống rượu : Nói đơn giản là rượu,
ngoài ra các thứ như á phiện, xì ke, ma túy đều không được dùng. Vì nó là
cái nhân sinh ra bịnh hoạn, làm cho tiêu tán tài sản, mất hết trí tuệ.
Nhưng, nếu vì lý do đau bệnh, cần phải uống rượu để trị bệnh thì được phép
uống.
Phật dạy giữ năm giới là vì lòng từ bi, sợ
chúng sanh vi phạm thì bị đau khổ. Nếu gìn giữ không phạm thì được
an vui. Đó là tu giới.
Tu tâm, có nhiều người nói tôi lo tu tâm thôi,
đi chùa cũng vậy, lạy Phật để làm gì ? Vậy, tu tâm là tu thế nào?
Tâm cần phải tu là tâm tham, tâm sân, tâm
si... Tu tâm là bỏ được lòng tham lam, tánh sân hận, đố kỵ, si mê... Tham
thì ai cũng có, và có nhiều loại như tham danh, tham lợi, tham tài, tham
sắc, tham ăn, tham ngủ... Ở đây tôi đề cập tham ăn và tham ngủ, được mọi
người coi là nhỏ mọn, song muốn bỏ không phải dễ. Ăn nếu dở quá thì không
vui; nếu không no thì cũng không được; ăn thì muốn cho ngon cho no đủ. Ngủ
thì phải ngủ cho đủ giấc, nếu bắt dậy sớm thì không vui. Vì vậy, chúng ta
lúc nào cũng bị kẹt trong tham muốn, mà đó là cái bịnh chung của mọi người,
không ai là không có. Tu là dẹp bỏ lòng tham, còn sân và si luôn luôn đi
chung, hễ có sân là có si.
Thuở xưa có một gia đình gồm ba người, con đi
làm ngoài đồng, ông nội và cháu ở nhà. Ông đưa cho cháu hai cái tô và hai
đồng, bảo :
- Cháu hãy đi mua một đồng tương và một đồng
chao.
- Đứa cháu cầm tô và tiền đi một lúc trở về
hỏi ;
- Thưa ông nội, đồng nào mua tương đồng nào
mua chao ?
Ông rầy nó một hồi, rồi bảo :
-Đồng nào mua cũng được.
Nó liền chạy đi, đi một lúc lâu trở về hỏi :
- Thưa ông nội, hai cái tô, cái nào đựng
tương, cái nào đựng chao ?
Ông giận quá tát cho nó mấy tát tay, nó khóc
lu bù. Ngay khi đó, người con đi cày về, tay cầm roi đánh trâu, thấy con
mình bị ông già đánh, nó la khóc, nên nổi giận nói :
- Ông đánh con tôi, tôi đánh con ông cho ông
biết.
Người con liền cầm roi tự quất lên mình túi
bụi, ông già nóng ruột quá nói :
- Mầy đánh con tao, tao treo cổ cha mầy cho
mầy biết.
Ông kiền làm vòng, đút đầu vô treo cổ.
Kết luận câu chuyện, quí vị thấy gia đình đó
si mê ở mức độ nào ? Nếu nói ngu thì gia đình đó ngu không ai bằng, đứa cháu
nội đã ngu, người cha càng ngu hơn, đến ông nội lại quá ngu ! Ngu là do nổi
giận mà ra vậy. Nên có sân là có si, làm mà không biết sai không biết hại.
Xét lại xem, chúng ta có làm những chuyện na ná như vậy không ? Tưởng chừng
như không, nhưng có khi làm mà không hay. Chẳng hạn lúc nào đó, con làm trái
ý, cha mẹ nổi giận chửi “Mầy là đồ trâu, đồ chó...”. Nếu có người hỏi : “Nó
là trâu, là cho, vậy cha mẹnó là gì ?”. Làm cha mẹ chửi con như vậy có khôn
không ? Thế mà có lắm người chửi như vậy ! Nên biết hễ nổi sân là liền ngu,
không biết phải quấy. Tưởng nói cho đỡ bực, nhưng không ngờ tự ngầm nhận
mình là trâu là cho. Vì con là trâu chó, cha mẹ đương nhiên phải là trâu chó
mới sinh con trâu chó. Hoặc có người khi giận con thì chửi ông cố nội, ông
cố ngoại nó... ông cố nội ông cố ngoại nó là ai ? Là ông nội ông ngoại mình.
Mình chửi con, không ngờ chửi ông bà mình. Vậy mà khi thì người ta cứ nói cứ
làm. Chẳng khác gì người kia đánh con ông già để cho ổng tức, nhưng tự đánh
mình thì mình đau. Rồi ông già treo cổ cha nó, cho nó hoảng sợ, nhưng rồi
chính ông chết !
Vì sân mà chúng ta không nhận biết điều phải
lẽ trái, cứ làm bậy, nói bậy, khiến cho thiên hạ chê cười. Nên ca dao Việt
Nam có câu :
Sân si nghiệp chướng kông chừa,
Bo bo mà giữ tương dưa làm gì ?
Tu mà không chịu bỏ tham, bỏ sân, bỏ si mà cứ
khoe “Tôi ăn chay một tháng mười ngày, mười lăm ngày v.v...” Ăn chay, ăn
tương dưa là để chừa tham sân si. Có chừa bỏ được tham sân si thì tâm mới
sáng suốt, tâm sáng suốt thì không nói bậy làm bậy, không nói bậy làm bậy
thì nghiệp chướng tội lỗi theo đó mà giảm. Nếu không chừa bỏ tham sân si thì
nghiệp chướng tội lỗi khó mà hết được.
Tuy nói tu thân, tu giới, tu tâm, nhưng chủ
yếu là tu tâm. nếu tu tâm mà được viên mãn thì mọi nghiệp chướng không còn,
mọi họa khổ sẽ hết, không phải trả nặng nề như lúc gây tạo. Nói nhân nào quả
nấy là chưa chính xác, chưa tột lý nhân quả, vì chỉ đúng có một trường hợp
là người không biết tu, còn đối với người biết tu thì không đúng.
Nếu người tạo nghiệp ác nhiều, vì yếu đuối
không có gắng làm lành, chắc rằng nghiệp ác khó mà chuyển nổi. Ví dụ có
nhiều người lỡ nghiện rượu đều được bác sĩ và các bạn tốt khuyên nên bỏ
rượu, vì uống rượu hại sức khỏe, tinh thần không minh mẫn, tốn kém tiền bạc,
vợ con khốn khổ, gia đình không hạnh phúc. Nghe lời khuyên, họ hiểu, thấy rõ
uống rượu là tai hại. Nhưng có người không bỏ được, vì tâm hồn họ yếu
đuối bạc nhược. Lại có người ý chí mạnh mẽ biết uống rượu có hại dứt khoát
bỏ ngay. Vậy, nghiệp cũng có thể chuyển được, tùy theo ý chí mạnh hay yếu
của mỗi người.
Có nhiều Phật tử lấy làm thắc mắc hoặc nuối
tiếc về những người tu xuất gia. Vì họ cho rằng các thầy, các cô có rất
nhiều duyên phước mới được xuất gia tu hành. Tại sao có nhiều người tu mười
mấy hai mươi năm, học hành tưng đối cũng thông, bỗng dưng cởi áo tu hoàn
tục. Họ hỏi :
- Thầy tu ở trong đạo an ổn quá, tại sao hoàn
tục cho phiền lụy ?
Các thầy trả lời chung chung :
Tại nghiệp của tôi nó lôi.
Quí vị nghĩ sao ? Ai tu có nghiệp cũng bị
nghiệp lôi hoàn tục hết, hay có người bị lôi có người chuyển đổi nghiệp ?
Nếu ai tu cũng bị nghiệp lôi hoàn tục, thì chắc chắn không có người tu tới
nơi tới chốn. Chúng ta sinh ra trong đời này đều có liên hệ với quá khứ, kẻ
có nghiệp này người có nghiệp khác. Song, tùy theo ý chí của mỗi người yếu
hay mạnh mà chuyển được nghiệp hay không. Đừng đổ thừa nghiệp, để rồi tu gặp
cảnh nghịch lòng, trái ý liền bỏ đạo về đời, lại nói do nghiệp lôi. Người
như thế là người không ý chí, không gan dạ, tinh thần cầu tiến quá thấp. Tuy
nhiên, chúng ta đừng khinh những người tu hoàn tục. Khi Phật còn tại thế,
Tỳ-kheo-ni Liên Hoa Sắc chứng quả A-la-hán, trên đường đi giáo hóa, bà gặp
các cô gái trẻ, bà rủ :
Các con nên xuất gia đi tu.
Các cô thưa :
- Các con còn nhỏ dại, ham ăn ham ngủ tu không
được.
Bà nói :
Không sao, cứ đi tu đi.
Các cô nói :
- Đi tu làm Tỳ-kheo-ni, lỡ tụi con phạm giới
đọa địa ngục thì sao ?
- Không sao, lỡ đọa địa ngục, hết quả báo trở
lên tu tiếp.
Theo Tỳ-kheo ni Liên Hoa Sắc thì nếu tu phạm
giới bị đọa, hết quả báo thì trở lại tu nữa, vì chủng tử tu hành vẫn còn,
gặp duyên thì nhớ lại. Nếu người chưa tu lỡ tạo nghiệp ác bị đọa, hết quả
báo không có chủng tử cũ thì biết bao giờ mới tu được. Bây giờ tuy người tu
phạm giới bị đọa có thua kém những người tu khác, nhưng với người chưa tu
vẫn có phần hơn, vì họ còn chủng tử cũ, đủ duyên họ phát tâm tu trở lại.
Tới đây, tôi đi xa hơn một chút là trình bày
lý nhân quả theo tinh thần Thiền tông. Trong “Chứng đạo ca” của
thiền sư Huyền Giác có hai câu:
Liễu, tức nghiệp chướng bổn lai
không,
Vị liễu, ưng tu hoàn túc trái.
Nếu liễu ngộ thì nghiệp chướng xưa nay là
không, còn nếu chưa liễu ngộ thì phải đền nợ trước. Những nhân ác những
nghiệp bất thiện đã gây tạo từ trước, nếu tu hành không liễu ngộ thì phải
trả đủ. Còn nếu tu mà liễu ngộ được thì nghiệp chướng cũ theo đó mà hóa giải
không còn.
Sau có một thiền khách tên Hạo Nguyệt đến
thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm hỏi rằng :
- Cổ Đức nói : “Liễu, tức nghiệp chướng bổn
lai không; vị liễu, ưng tu hoàn túc trái”. Như Tổ Sư Tử và Tổ Huệ Khả vì sao
lại đền nợ trước?
Trường Sa bảo :
- Đại đức chẳng biết bổn lai không.
Hạo Nguyệt hỏi :
- Thế nào là bổn lai không ?
- Nghiệp chướng.
- Thế nào là nghiệp chướng ?
- Bổn lai không.
Tại sao nói nghiệp chướng bổn lai không ?
Theo Phật giáo thì nghiệp là động lực chi phối
đời sống của con người, từ đời trước cho tới đời này và mãi về sau. Nếu con
người còn tạo nghiệp thì còn trôi lăn trong vòng luân hồi sanh tử. Song,
dùng trí quán sát cho kỹ thì nghiệp không thật. Ví dụ ông A nói lời hung ác
(khẩu nghiệp) làm cho ông B buồn giận, sau ông A hối hận ăn năn xin lỗi ông
B, ông B vui vẻ tha thứ. Khẩu nghiệp của ông A trước làm ông B buồn giận,
sau hối hận xin lỗi thì ông B hết buồn giận. Nếu nghiệp ác là thật thì không
đổi được, vì nó không thật nên chuyển được. Nghiệp còn là khi tâm chúng ta
mê, nếu biết thức tỉnh chuyển nó thì nó hết, nên nói nghiệp vốn không thật.
Tuy không thật, nhưng nếu chúng ta mê thì nó kéo đi mãi trong vòng luân hồi
sinh tử không dừng.
Đã nói “Nghiệp chướng bổn lai không” tại sao
Tổ Sư Tử bị hành hình, Tổ Huệ Khả chết trong tù ? -Trong kinh, Phật nói có
nhân là có quả, nhưng quả đến còn tùy theo sức tu cao thấp mà chuyển. Tổ Sư
Tử khi tới nước Kế Tân giáo hóa, bị ngoại đạo sàm tấu Ngài truyền bá tà đạo.
Nên vua tức giận đích thân cầm gươm đến chỗ Ngài hỏi :
- Thầy được không tướng chưa ?
- Đã được.
Đã được thì còn sợ chết chăng ?
- Đã lìa sống chết thì đâu có sợ.
- Chẳng sợ thì có thể cho trẫm cái
đầu chăng?
- Thân chẳng phải cái của ta, huống nữa là cái
đầu.
Vua liền chặt đầu Ngài rơi xuống đất.
Với con mắt phàm phu thì thấy Ngài bị trả quả
chặt đầu. Nhưng dưới con mắt liễu ngộ của Ngài thì thấy thân năm uẩn là
không thật, năm uẩn còn mất là trò chơi, nên Ngài không tiếc cái đầu thì có
gì gọi là trả ? Sở dĩ chúng ta thấy Ngài trả nghiệp, là vì chúng ta chưa
liễu ngộ còn thấy thân năm uẩn thật.
Tổ Huệ Khả cũng vậy, khi Ngài ngộ đạo ở Tổ
Bồ-đề-đạt-ma, sau Ngài truyền tâm ấn cho Tổ Tăng Xán. Ngài nói : “Ta còn
chút duyên để đi trong nhân gian”. Rồi Ngài đến giáo hóa ở một vùng nọ, cũng
bị người sàm tấu Ngài là người truyền đạo không đúng chánh pháp, quan địa
phương bắt giam Ngài. Khi bị giam trong khám. Ngài chỉ cười mà không buồn.
Ngài nói duyên ta hết ở đây, rồi Ngài tịch ở trong khám. Đối với chúng ta
khi bị nhốt trong khám, thấy đó là một hình phạt rất khổ đau, nhưng đối với
Ngài. Ngài không thấy có những sự kiện bực bội, đớn đau, nên Ngài cười.Như
vậy, ở tù mà không thấy ở tù, chết trong khám mà không thấy chết trong khám,
đó là do Ngài liễu đạo. Cái quả mà chúng ta Ngài trả, nhưng đối với Ngài thì
không có trả.
Tôi lấy một ví dụ thực tế cho dễ hiểu : Ông
Tần thuở xưa chửi bới làm cho ông Tấn tức giận. Nhưng vì ông Tấn yếu thế nên
ôm hận không dám trả thù. Sau ông Tấn có cơ hội trả thù ông Tần, ông Tần đã
biết tu và ngộ đạo, khi bị ông Tấn chửi, ông Tần chỉ cười mà không giận. Hồi
xưa ông Tần chửi ông Tấn giận, nay ông Tấn chửi thì ông Tần cười. Vậy, ông
Tần có trả quả không ? Người không tu thấy ông Tần bị chửi, cho là ông Tần
trả quả, nhưng với ông Tần là người liễu đạo, nghe tiếng chửi như gió thoảng
ngoài tai, qua rồi thì mất, nên cười không buồn. Vậy, dù cho nghiệp chướng
xảy ra, người đời thấy kinh hoàng khủng khiếp nên thấy có trả. Nhưng đối với
người liễu đạo thì không có giá trị, nên thấy không có trả.
Thế nên, chư Tổ không thấy trả nghiệp mà người
phàm tục thì thấy có trả nghiệp. Để thấy, chúng ta tu từ thấp là giữ năm
giới, thân không làm ác là đã chuyển được bao nhiêu thứ đau khổ rồi. Nếu tu
tiến hơn nữa là bỏ tham lam, sân giận, si mê; tham sân si càng ít, tâm càng
trong sáng, càng thanh thoát, do đó mà được an vui. Và, nếu tu tới chỗ viên
mãn thì mọi nghiệp chướng đối với mình coi như không có. Không bị
nghiệp chi phối làm cho đau khổ thì không giải thoát là gì ?
Hiện nay có một số Phật tử mê tín quan niệm
sai lầm, cho rằng tụng kinh Kim Cang, tụng kinh Pháp Hoa đổ nghiệp, do tu,
do tụng kinh nên xảy ra nhiều tai nạn. Vậy, nghiệp đổ bằng cách nào? Do tụng
kinh nghiệp nó tràn ra, hay do xưa kia tạo nhiều nghiệp ác bây giờ đổ bớt đi
? Đã là Phật tử, tại sao không tìm hiểu nghiệp đổ bằng cách nào, mà chỉ nghe
nói đổ nghiệp là không dám tụng kinh nữa ? Học đạo như vậy quá sai lầm, tu
là để chuyển nghiệp, giảm nghiệp, chuyển và giảm không có nghĩa là thêm, là
đổ ra.
Nếu xưa kia tạo nghiệp ác, đáng lý trả bằng sự
đánh đập, hoặc trả bằng tai nạn mất thân mạng. Nhưng nhờ biết tu nên chỉ bị
mắng chửi hay bị trộm cắp mất tiền của. khi bị mắng chửi hay mất tiền của
nên quán xét : Có thể nghiệp chướng của mình phải trả bằng tai nạn nặng nề
khổ đau hơn nhiều, nhờ biết tụng kinh nên được chuyển nghiệp chỉ bị mắng
chửi mất tiền của thì quá tốt. Xét như vậy, thì sự tu học mới tiến bộ, ngược
lại, nghe nói đổ nghiệp cứ tin suông rồi hoảng sợ không tu nữa, là sai lầm.
Lại có những Phật tử quan niệm rằng : Đi chùa
qui y biết tu rồi thì kể từ đây về sau, cuộc sống sẽ bình an không có
gì trở ngại. Tu là phải hanh thông mọi việc, nếu có trục trặc thì thối chí
nản lòng không tu. Chúng ta nhớ, tu là bỏ ác làm lành; một khi đã nguyện bỏ
ác làm lành, thì ở trong đời nếu có tai nạn xảy ra, biết đó là nghiệp quá
khứ còn rơi rớt lại, không sợ hãi, không thối chí, vững lòng tin mà tiến tu
không thối chuyển. Đừng nghĩ tu là mọi nghiệp xấu sạch hết, mọi việc xảy ra
đều như ý.
Chính đức Phật là người tu hành công đức viên
mãn, thế mà Ngài còn gặp những cái khó khăn nguy hiểm. Có lần Ngài đi giáo
hóa ở một làng Bà la môn, gia đình nọ giỏi về tướng số, sinh được một người
con gái rất đẹp. Ông Bà la môn này muốn gả con gái ông cho người có đủ ba
mươi hai tướng tốt, nhưng tìm mãi chưa được. Bỗng một hôm ông tình cờ gặp
Phật đang đi giáo hóa, ông mừng quá chạy về nhà kêu vợ ra xem. Bà ra thấy
Phật, bà rất hài lòng, đúng là người có đủ ba mươi hai tướng tốt, bà bèn ngỏ
ý gả con gái cho Ngài. Phật nói : Đối với bà thì con gái bà đẹp, song đối
với Ngài thì đó là một đãi da hôi thối, tất cả trong thân nàng đều là bất
tịnh. Nghe Phật nói vậy, bà buồn trở về nhà thuật lại câu chuyện cho con gái
nghe. Cô ta tự ái nổi giận, ôm lòng thù oán và thề rằng sẽ trả thù Phật.
sau, cô được làm hoàng hậu của một nước, bấy giờ Phật đến giáo hóa ở xứ
đó, hoàng hậu bèn tập họp du đãng chặn đường Phật để mắng chửi. Tôn giả
A-nan đi theo Phật, thấy du đãng vây chửi thậm tệ, Ngài không chịu nổi mới
nói :
- Bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn nên đi nước khác
giáo hóa.
Phật hỏi :
- Đi dâu ?
A-nan thưa :
- Thế Tôn đi nước nào cũng được, vì ở nước này
cứ bị người vây chửi, con không kham chịu được.
Phật hỏi :
- Giả sử đi tới chỗ khác bị người chửi nữa thì
A-nan tính sao ?
A-nan thưa :
- Nếu tới đó mà bị chửi nữa thì chúng ta về
nước Xá-vệ, Ma-kiệt-đà... chỗ mà Thế Tôn có nhiều đệ tử, ở đó giáo hóa.
Phật hỏi :
-Nếu là thầy thuốc giỏi, A-nan có nên để bảng
: Tôi chỉ trị những bệnh nhẹ, không trị những bệnh nặng chăng ?
A-nan thưa :
- Bạch Thế Tôn, không được, thầy thuốc giỏi
phải trị bệnh nặng mới cứu được nhiều người.
Phật nói :
- Cũng vậy, dân ở đây họ nhiều mê muội là
người bệnh nặng, nên gặp ta họ chửi. Thôi, thong thả, để ta giáo hóa họ, vì
họ cần ta.
Du đãng vẫn tiếp tục chửi Phật.
A-nan nói :
- Họ chửi Thế Tôn hoài, làm sao giáo hóa được
?
- Chừng nào họ không nghe lời nói của ta thì
ta đi.
Nghe Phật trả lời với A-nan như vậy, du đãng
nói :
- Thôi, Cù-đàm ở đây giáo hóa, chúng tôi sẽ
nghe lời Ngài dạy.
Từ đó Phật nói pháp giáo hóa họ.
Quí vị thấy, Phật mà còn bị người chửi mắng
huống là chúng ta. Nhưng điều quan trọng là Tôn giả A-nan cũng như chúng ta
còn tâm phàm, nên nghe chửi không kham chịu được. Còn Phật đã giác ngộ,
tiếng chửi đối với Ngài như gió thoảng ngoài tai. Ngài không động tâm,
thương họ là những người mê muội bệnh nặng, nên nói pháp cứu chữa.
Cũng vậy, chúng ta khi phát tâm tu, nếu gặp
người làm khó không nên buồn giận, mà phải quán khởi lòng thương và cảm hóa
họ. Nhứt là những Phật tử có gia đình mà biết tu, hoặc bị chồng ahy vợ, hay
con làm khó dễ, đó là cơ hội tốt để mình tu, chớ buồn giận và đừng cho rằng
bạn mình, con mình phá rối không cho mình tu. Mà nên xét nghĩ thương bạn,
thương con, vì chưa hiểu đạo, còn mờ còn tối, cần sự cảm hóa của mình. Thế
nên, tất cả mọi khó khăn, những lời xúc não, nếu chúng ta biết tu, tâm sáng
suốt hóa giải tất cả thì được an vui.
Một lần khác, Phật đi giáo hóa vùng Bà la môn,
các tu sĩ Bà la môn thấy đệ tử của mình theo Phật nhiều quá, nên ra đón
đường Phật chửi. Phật vẫn thong thả đi, họ đi theo sau chửi. Thấy Phật thản
nhiên làm thinh, họ tức, chặn Phật lại hỏi :
- Cù-đàm, có điếc không ?
- Ta không điếc.
- Ngài Không điếc tại sao không nghe tôi chửi
?
- Này Bà la môn, nếu nhà ông có đám tiệc, thân
nhân tới dự, mãn tiệc họ ra về, ông lấy quà tặng, họ không nhận thì quà ấy
về ai ?
- Quà ấy về tôi chứ ai.
- Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì
thôi.
Người kêu tên Phật chửi mà ngài không nhận.
Còn chúng ta, những lời nói bóng, nói gió ở đâu đâu cũng lắng tai nghe, để
buồn để giận. Như vậy, mới thấy những lờ cuồng dại của chúng sanh Ngài không
chấp không buồn. Còn chúng ta do si mê, chỉ một lời nói nặng, nói hơn, ôm ấp
mãi trong lòng, vì vậy mà khổ đau triền miên. Chúng ta tu là tập theo gương
của Phật, mọi tật xấu của mình phải bỏ, những hành động lời nói không tốt
của người đừng quan tâm, như thế mới được an vui.
Trong kinh Phật ví dụ người ác mắng chửi người
thiện, người thiện không nhận lời mắng chửi đó. Người ác giống như người
ngửa mặt lên trời phun nước bọt, nước bọt không tới trời mà rơi xuống ngay
mặt người phun. thế nên, có thọ nhận mới dính mắc khổ đau, không thọ nhận
thì an vui hạnh phúc. Từ đây về sau, quí vị có nghe ai nói gì về mình dù tốt
hay xấu, chớ nên thọ nhận thì sẽ được an vui. Đa số chúng ta có cái tật nghe
người nói không tốt về mình qua miệng người thứ hai, thứ ba, thì tìm phăng
cho ra manh mối để thọ nhận rồi nổi sân si phiền não, đó là kẻ khờ không
phải người trí. Tuy có chướng duyên bên ngoài mà chúng ta biết giải, không
thọ nhận, đó là tu. Không phải tu là cầu an suông, mà phải có người thử
thách để có dịp coi lại mình đã làm chủ được mình chưa. Nếu còn buồn giận vì
một vài lý do bất như ý bên ngoài, đó là tu chưa tiến.
Tinh thần nhân quả của đạo Phật không phải gây
nhân nào chịu quả nấy trọn vẹn, ngoại trừ người không biết tu thì nhân quả
không sai khác. Còn với người biết tu thì nhân quả biến chuyển theo công phu
tu hành cao thấp mà có sai khác. Tu là chuyển nghiệp giảm hết phiền não khổ
đau để được an vui hạnh phúc; đó là tu đúng theo lời Phật dạy. Nếu tu sai
thì không chuyển được nghiệp nên phiền lụy cứ dai dẳng khổ đau không dứt
trừ, lại còn thối chí tu tập, không được lợi ích gì cả. Tôi mong rằng quí
Phật tử sau khi nghe pháp, nên nghiệm xét ứng dụng tu hành để trên đường tu
mỗi ngày mỗi tiến cho hết khổ được vui.
] |