[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


KHOÁ XII: KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Bài Thứ 4 

PHẦN CHÁNH TÔN

 

13. Phật nói công đức tŕ kinh, nhiều hơn bố thí thất bảo.
14. Bốn quả Thinh văn, không nên chấp ḿnh có chứng quả.
15. Phật phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp".
16. Phật phá cái chấp "Bồ Tát thật có làm trang nghiêm cơi Phật".
17. Phật dạy:"Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào".
18. Phật phá cái chấp "Thân Phật cao lớn như núi Tu Di".

13. PHẬT NÓI CÔNG ĐỨC TR̀ KINH NÀY NHIỀU HƠN BỐ THÍ THẤT BẢO [^]

Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu có người đựng đầy bảy báu trong đại thế giới (một ngh́n triệu thế giới nhỏ) đem bố thí (tài thí), th́ phước đức nhiều không?". Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm".

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu có người thọ tŕ đọc tụng kinh này, hoặc v́ người giảng nói trọn quyển hoặc nửa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, th́ công đức (pháp thí) của người này nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? V́ tất cả Phật và Pháp đều từ kinh này mà ra".

Phật dạy tiếp:" Tu Bồ Đề ! Gọi là "Phật, Pháp", thực ra cũng không phải "Phật, Pháp", chỉ tạm gọi là "Phật, Pháp".

LƯỢC GIẢI

Đây là lần thứ hai, Phật nói về công đức thọ tŕ đọc tụng kinh này, nhiều hơn người bố thí thất bảo.

Đoạn nầy nên chia làm ba phần để giải thích.

1. So sánh phước đức giữa tài thí và pháp thí

Ngọc ngà châu báu là vật rất quư, đă ít có và khó kiếm, nên không ai có nhiều được. Nhưng nếu người nào có nhiều châu báu, đựng đầy một ngh́n triệu thế giới nhỏ (đại thế giới) đem ra bố thí, tất nhiên phước đức nhiều lắm.

Nhưng, nếu có người thọ tŕ kinh này hoặc giảng nói cho người nghe, từ một quyển, nửa quyển, hoặc một tờ cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, th́ công đức của người sau, lại nhiều hơn người trước. Tại sao vậy? V́ bố thí tiền tài, dù có nhiều bao nhiêu cũng chỉ giúp về phần vật chất, làm cho người giàu có sung sướng nhứt thời mà thôi. C̣n bố thí về giáo pháp là giúp về phần tinh thần, làm cho người hiểu biết giáo lư tu hành, thoát ly sanh tử luân hồi, kiến tánh thành Phật, rồi trở lại độ chúng sanh đều được giải thoát. Bởi thế nên bố thí pháp (tinh thần) tuy ít, nhưng phước đức nhiều hơn bố thí tài (vật chất).

2. Phật và Pháp đều từ kinh này sanh.

Kinh này là kinh "Kim Cang Bát Nhă", tức là kinh nói về "Trí huệ Phật". Trí huệ này phá núi vô minh phiền năo, nhưng không bị hư hoại, nên gọi là "Kim Cang".

Nhờ Trí huệ Kim Cang Bát Nhă phá hết vô minh, nên mới minh tâm kiến tánh thành Phật, nên nói:"Kinh này sanh ra chư Phật". Và sau khi thành Phật rồi, cũng nhờ có Trí huệ Bát Nhă mới nói ra giáo pháp, nên nói "kinh này sanh ra Pháp".

3. Phá cái chấp "thật có Phật, Pháp".

Đúng theo "tánh Bát Nhă Chơn không", th́ nói năng không trúng, suy nghĩ chẳng nhằm, nên không có thể kêu gọi là ǵ được cả. Nhưng sở dĩ gọi "Phật, Pháp", là một danh từ, đặt ra để gọi tạm mà thôi; thật ra cũng không phải là "Phật, Pháp". Nếu c̣n chấp "thật có Phật, Pháp" th́ không đúng với "Tánh Bát Nhă chơn không", nên Phật dạy:" Gọi là Phật Pháp, thực ra cũng không phải Phật Pháp, chỉ tạm gọi là Phật Pháp".

GIẢI DANH TỪ

Bảy món báu: Vàng, bạc, ngọc lưu ly, ngọc xà cừ, ngọc mă năo, ngọc san hô và ngọc hổ phách.

Đại thế giới: Tức là Đại thiên thế giới. Thế giới chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; 1.000 thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới"; 1.000 Tiểu thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; 1.000 Trung thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới". Một Đại thiên thế giới là một ngh́n triệu thế giới nhỏ. Thế giới Ta bà là một Đại thiên thế giới.

Kệ: Một bài kệ là 4 câu, hoặc nhiều câu, như thơ tứ cú, bát cú v.v...ở nước ta.

Thọ tŕ: Lănh thọ và hành tŕ.

***

14. BỐN QUẢ THINH VĂN, KHÔNG NÊN CHẤP M̀NH CÓ CHỨNG QUẢ. [^]

Phật hỏi:"Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tu đà hoàn tự nghĩ rằng:"Tôi đă đặng quả Tu đà hoàn", nghĩ như thế có được không?"

Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tu đà hoàn, phải không c̣n có thấy ḿnh có chứng quả Tu đà hoàn (Tàu dịch Nhập lưu), thế mới thật là chứng quả Tu đà hoàn".

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị Tư đà hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đă đặng quả Tư đà hàm"; nghĩ như thế có được không?".

Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị Tư đà hàm, phải không c̣n có thấy ḿnh có chứng quả Tư đà hàm (Tàu dịch Nhứt lai), thế mới thật là chứng quả Tư đà hàm".

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A na hàm tự nghĩ rằng:"Tôi đă đặng quả A na hàm"; nghĩ như thế có đặng không?".

Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A na hàm, phải không c̣n có thấy ḿnh có chứng quả A na hàm (Tàu dịch là Bất lai), thế mới thật là chứng quả A na hàm".

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Nếu vị A la hán tự nghĩ rằng:"Tôi đă đặng quả A la hán"; nghĩ như vậy có đặng không?".

Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? _ Vị A la hán, phải không c̣n có thấy ḿnh có chứng quả A la hán, thế mới thật là chứng quả A la hán. Nếu c̣n thấy ḿnh chứng quả A la hán tức là c̣n trụ chấp (dính mắc) về bốn tướng:ngă, nhơn, chúng sanh và tu hành giả, th́ không phải thật chứng A la hán.

Bạch Thế Tôn ! Cũng như con đây, v́ con không c̣n chấp ḿnh có tu chứng, nên mới được Như Lai chứng nhận:"Tu Bồ Đề đă đặng pháp Tam muội vô tránh; Tu Bồ Đề là người ưa tu hạnh tịch tịnh (A lan na); Tu Bồ Đề là vị A la hán ly dục thứ nhứt. Trong chúng, Tu Bồ Đề là hơn hết".

Bạch Thế Tôn ! Nếu con nghĩ (châp rằng:"Con đă đặng quả A la hán, con l;à vị A_la hán ly dục thứ nhứt v.v...th́ Đức Như Lai không chứng nhận và không khen ngợi con như vậy".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă, phá trừ cái chấp của bốn quả Thinh văn, tự thấy ḿnh có chứng quả.

Trong kinh Tứ thập nhị chương có chép:

"Tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng v.v..."

Nghĩa là: Tu mà không c̣n chấp ḿnh tu, thế mới thật là tu. Chứng quả, mà không chấp ḿnh chứng quả, thế mới thật là chứng quả v.v....

Nếu người tu chứng, đúng theo tinh thần của "Kim Cang Bát Nhă", nghĩa là không c̣n các vọng chấp ngă và pháp hay bốn tướng, th́ mới thật tu và thật chứng.

Trái lại, nếu c̣n chấp ngă, pháp hay bốn tướng (ngă, nhơn v.v..) tức là không nhập được "Kim Cang Bát Nhă", th́ không phải thật tu và thật chứng.

Bởi thế nên bốn quả Thinh văn, nếu c̣n tự thấy ḿnh có chứng quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, tức là c̣n chấp ngă (ta chứng đặng) và chấp pháp (quả vị để chứng) th́ không nhập được "Kim Cang Bát Nhă", nên không phải là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán.

Ông Tu Bồ Đề, tự đem ḿnh ra làm thí dụ điển h́nh. Đại ư ông nói: Nếu ông chấp rằng:"Tôi đă đặng pháp Tam muội và đặng quả A la hán v.v..." tức nhiên ông c̣n chấp ngă (quả A la hán) chấp pháp ( Tam muội), chưa nhập được Kim Cang Bát Nhă, th́ Phật đâu có ấn chứng cho ông là vị A la hán ly dục thứ nhứt v.v....

Ngài Phó Đại sĩ nói bài tụng giải thích rằng:

Nguyên văn (dịch âm):

Vô sanh tức vô diệt

Vô ngă phục vô nhơn

Vĩnh trừ phiền năo chướng

Trường từ hậu hữu thân

Cảnh vong tâm diệc diệt

Vô phục khởi tham sân

Vô bi không hữu trí

Hốt nhiên độc nhậm chơn.

Dịch nghĩa:

Không sanh cũng không diệt

Không ngă cũng không nhơn

Dứt trừ phiền năo chướng

Không c̣n có thân sau

Tâm cảnh đều vắng lặng

Do đâu khởi tham sân

Không bi cũng không trí

Thế mới nhập Chơn như.

ĐẠI Ư

Nếu không c̣n các vọng chấp nhơn, ngă, sanh, diệt v.v...th́ các phiền năo không do đâu mà sanh ra. Phiền năo không sanh, tức không tạo nghiệp, nên không bị sanh tử luân hồi. V́ tâm và cảnh đă vắng lặng th́ do đâu khởi tâm, sân, si. Cho đến bi và trí cũng không chấp, nên chơn tâm hay chơn như tự hiện bày.

Tóm lại, v́ không c̣n các vô minh vọng chấp: nhơn, ngă, tâm, cảnh, sanh, diệt v.v...nên mới chứng đặng chơn tâm thanh tịnh. Như thế mới thật tu và thật chứng.

GIẢI DANH TỪ

Tu đà hoàn: trong bốn quả Thanh văn của Tiểu thừa, Tu đà hoàn là quả Thánh nhỏ nhứt. Tu đà hoàn là dịch âm tiếng Phạn, Trung hoa dịch là "Dự lưu" hoặc "Nhập lưu", nghĩa là mới dự vào ḍng Thánh nhơn.

Tu đà hàm: Quả Thánh thứ hai trong bốn quả Thinh văn. Trung hoa dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Nhứt văng lai"; nghĩa là c̣n một lần qua cơi nhơn, thiên để tu hành đoạn hoặc, rồi mới chứng đặng quả A la hán.

A na hàm: Quả Thánh thứ ba trong bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa "Bất lai"; nghĩa là không c̣n trở lại thọ sanh trong Dục giới nữa.

A la hán: Quả Thánh thứ tư trong bốn quả. Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nếu dịch nghĩa, có ba:

a. Vô sanh: Không c̣n sanh trở lại ba cơi

b. Sát tặc: Đă giết hết các giặc phiền năo.

c. Ứng cúng: Xứng đáng cho nhơn thiên cúng dường.

Do tu nhơn Tỳ kheo có 3 nghĩa, nên chứng quả A la hán cũng có 3 nghĩa:

Nhơn Phá ác ..... Vô sanh Quả

Tỳ kheo Bố ma ... Sát tặc A la hán

Khất sĩ .... Ứng cúng

TAM MUỘI: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, dịch nghĩa là "Chánh định".

TAM MUỘI VÔ TRÁNH: Pháp chánh định hơn hết.

A LAN NA: Trung hoa dịch âm tiếng Phạn, nghĩa là không ồn ào náo nhiệt, vắng vẻ thanh tịnh, giải thoát không bị trần luî.

***

15. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐẮC PHÁP". [^]

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Về quá khứ đối với trước Phật Nhiên Đăng, ta có đắc pháp không?".

Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Đức Như Lai thật không có "đắc pháp" ǵ cả".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá trừ cái chấp "Như Lai thật có đắc pháp".

Kinh chép:"Về quá khứ, vô lượng, vô số kiếp về trước, Đức Thích Ca đối trước Phật Nhiên Đăng, được Ngài truyền chánh pháp và thọ kư, tương lai sẽ được thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni".

Nhưng, nếu Như Lai c̣n chấp ḿnh có "đắc pháp và được thọ kư" tức là Như Lai c̣n chấp ngă (ta được) chấp pháp (đắc pháp) th́ không phải là Như Lai. Bởi thế nên ông Tu Bồ Đề thưa:"Bạch Thế Tôn ! Như Lai không có đắc pháp ǵ cả".

V́ Như Lai không chấp ḿnh có "đắc pháp" và "thọ kư", nên không mắc vào bốn tướng ngă, nhơn v.v...được nhập Kim Cang Bát Nhă. Như thế mới thật là "đắc pháp" và "được thọ kư".

***

16. PHẬT PHÁ CHẤP "BỔ TÁT THẬT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CƠI PHẬT". [^]

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Bồ Tát có làm trang nghiêm cơi Phật không?"

Tu Bồ Đề thưa:" Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát không làm trang nghiêm cơi Phật. Tại sao vậy? Bồ Tát làm trang nghiêm cơi Phật, mà không thấy (chấp) ḿnh có trang nghiêm cơi Phật, như thế mới thật là trang nghiêm cơi Phật".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá trừ cái chấp "Bồ Tát có làm trang nghiêm cơi Phật"

Bồ Tát làm các Phật sự, giáo hoá chúng sanh, đó là trang nghiêm cơi Phật. Nhưng, nếu Bồ Tát c̣n chấp ḿnh có làm Phật sự, giáo hoá chúng sanh, th́ Bồ Tát c̣n tâm nhiễm ô vọng chấp ngă (ta giáo hoá) nhơn (người được giáo hoá). Đem tâm nhiễm ô vọng chấp mà làm "trang nghiêm cơi Phật", th́ cơi Phật thành nhiễm ô, không thể "trang nghiêm cơi Phật thanh tịnh" được.

Trái lại, phải dùng tâm thanh tịnh (không c̣n các nhiễm ô vọng chấp, chấp ngă, chấp pháp v.v...) mà trang nghiêm cơi Phật, th́ cơi Phật mới thanh tịnh trang nghiêm được.

Ngài Xuyên Thiền sư dạy:

Nguyên văn (dịch âm):

Chánh nhơn thuyết tà pháp, tà pháp tất qui chánh

Tà nhơn thuyết Chánh pháp, chánh pháp tất qui tà

Giang Bắc thành chỉ, Giang Nam quít.

Xuân lai đô phóng nhứt ban hoa.

Dịch nghĩa:

Người chánh nói pháp tà, tà pháp trở về chánh

Người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà.

Cũng một cây, nhưng ở Giang bắc th́ cây chỉ xát, Giang nam th́ thành cây quít.

Xuân về đều trổ một thứ hoa.

ĐẠI Ư

Người đem tâm đời (danh, lợi, sân, si v.v...) mà làm việc Đạo (làm các phật sự) th́ việc Đạo biến thành việc đời. Trái lại, người đem tâm Đạo (từ bi, hỷ xả v.v...)mà làm việc đời (tiếp xúc làm việc với chúng sanh) th́ việc đời trở thành việc Đạo (tứ nhiếp pháp, ngũ minh v.v...) cũng như một thứ cây, nhưng nếu ở đất Giang Bắc th́ thành cây chỉ xát, trái đặc ruột và chua, ăn không được; c̣n ở đất Giang Nam th́ thành cây quít, trái ngọt.

Dù việc chánh hay tà, việc đời hay đạo, đều có nhơn và có quả, chẳng qua tốt hay xấu mà thôi. Cũng như cây chỉ xát hay cây quít, Xuân về đều trổ một thứ hoa và một thứ trái; nhưng trái quít th́ ngọt, mà chỉ xát lại chua.

***

17. PHẬT DẠY: "ĐỪNG SANH VỌNG TÂM TRỤ CHẤP MỘT NƠI NÀO" [^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Các vị Đại Bồ Tát phải giữ tâm thanh tịnh, chớ nên sanh vọng tâm trụ chấp nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần. Tóm lại, Bồ Tát đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả" (Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm).

LƯỢC GIẢI

Hai đoạn trên phá cái chấp "Như Lai có đắc pháp" và "Bồ Tát có làm trang nghiêm cơi Phật". Đoạn này tóm lại, Bồ Tát phải giữ tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào cả.

Tất cả sự vật trong vũ trụ, tuy vô cùng vô tận, nhưng không ngoài 18 giớilà 6 căn, 6 trần và 6 thức; căn và trần thuộc về vật chất, c̣n thức thuộc về tinh thần.

Phật dạy các vị Bồ Tát, phải giữ tâm thanh tịnh, không nên sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) nơi sắc trần, thinh trần, hương trần, vị trần, xúc trần và pháp trần v.v...

Tóm lại, chỉ trong một câu, Phật dạy: "Đừng sanh vọng tâm dính mắc (trụ chấp) một nơi nào".

Thuở xưa, ngài Huệ Năng vừa nghe phú ông tụng kinh Kim Cang Bát Nhă vừa đến câu:

"Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm"

Đừng khởi vọng tâm trụ chấp một nơi nào).

Ngài liền tỏ ngộ lư Kim Cang Bát Nhă !...Ngài hân hoan ca ngợi: "Hay quá ! kinh Kim Cang Bát Nhă hay quá !"(1)

"Đừng sanh vọng tâm trụ chấp một nơi nào", tức là "đừng sanh vọng tâm chấp ngă, chấp pháp v.v..." không chấp ngă, pháp th́ phiền năo không sanh. Phiền năo không sanh th́ tâm dược thanh tịnh, không tạo nghiệp sanh tử luân hồi. Đó là phương pháp tu của Đại thừa Đốn giáo, rất giản di và mau chóng, để hàng phục vọng tâm và an trụ chơn tâm.

Sau khi đại ngộ lư kinh Bát Nhă, Tổ Huệ năng đă minh tâm kiến tánh, nên Ngài có dạy rằng:

Nguyên văn (dịch âm):

Hà kỳ tự tánh bổn tự thanh tịnh

Hà kỳ tự tánh bổn bất sanh diệt 

Hà kỳ tự tánh bổn tự cụ túc

Hà kỳ tự tánh bổn vô diêu động

Hà kỳ tự tánh năng sanh vạn pháp

Dịch nghĩa:

Ai ngờ tâm ḿnh vốn tự thanh tịnh 

Ai ngờ tâm ḿnh vốn không sanh diệt 

Ai ngờ tâm ḿnh vốn tự đầy đủ 

Ai ngờ tâm ḿnh vốn không diêu động 

Ai ngờ tâm ḿnh hay sanh muôn pháp

Đức Ngũ Tổ đến lúc tuổi già, muốn chọn người để truyền Tổ vị, nên Ngài truyền dạy trong chúng, mỗi người phải làm một bài kệ, để tŕnh bày sự tu chứng của ḿnh, nếu người nào tỏ ngộ được lư Đạo, ngài sẽ truyền Tổ vị, làm Tổ thứ Sáu.

Ngài Thần Tú là bực Thượng toạ, tài đức siêu quần, làm kệ rất hay, nhưng v́ chưa tỏ ngộ được lư Kim Cang Bát Nhă, c̣n trụ chấp các tướng, có tu, có chứng v.v...nên bị Tổ Huệ Năng quở rằng: "C̣n đứng ngoài hàng rào".

Bài kệ của Ngài Thần Tú:

Nguyên văn (dịch nghĩa):

Thân thị Bồ Đề thọ

Tâm như minh cảnh đài

Thời thời thường phất thức

Vật sử nhá trần ai.

Dịch nghĩa:

Thân là cây Bồ Đề (có tướng)

Tâm như đài gương sáng (có tướng)

Mỗi giờ thường lau quét (có tu)

Chớ cho dính bụi trần (có chứng)

Tổ Huệ Năng, đă ngộ được lư Kim Cang Bát Nhă, không trụ chấp các tướng, nên được đức Ngũ Tổ truyền trao y bát và làm vị Tổ thứ sáu.

Bài kệ của Tổ Huệ Năng:

Nguyên văn (dịch nghĩa):

Bồ Đề bổn vô thọ

Tâm phi minh cảnh dài

Bổn lai vô nhứt vật

Hà xá nhá trần ai.

Dịch nghĩa:

Bồ Đề không phải cây (vô tướng)

Chơn tâm không phải đài (vô tướng)

Xưa nay không một vật (vô tướng)

Chỗ nào dính bụi trần (vô tướng)

***

18. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THÂN PHẬT CAO LỚN NHƯ NÚI TU DI" [^]

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề !báo thân của Phật như núi Tu di. Vậy Báo thân của Phật có cao lớn không?".

Ông Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Lớn lắm. Nhưng, Phật nói: "Không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă, phá trừ cái chấp "Báo thân Phật cao lớn".

Từ trước đến đây, đă nhiều lần hỏi và đáp. V́ muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhă chơn không", cho nên Phật hỏi. Và cũng v́ muốn phá các vọng chấp, để nhập với "Tánh Bát Nhă chơn không" cho nên ông tu Bồ Đề đáp. Nếu chúng sanh chấp có, th́ Ngài nói không; chúng sanh chấp không, th́ Ngài nói có v.v...Dù nói có, nói không, nói lớn, nói nhỏ v.v...đều để phá các chấp của chúng sanh, đem về "Tánh Bát Nhă chơn không".

Phật hỏi ông tu Bồ Đề: "Báo thân cùa Phật có cao lớn không?".

Tu Bồ Đề đáp: "Báo thân của Phật cao lớn lắm".

Nhưng sợ chúng sanh chấp "thân Phật cao lớn", nên ông Tu Bồ Đề liền dẫn lời Phật nói để phá chấp: "Phật nói không chấp thân cao lớn, mới thật là cao lớn". Nghĩa là: Phàm cái ǵ c̣n thấy nghe và suy nhgĩ được, th́ cái đó không phải tuyệt đối; phải siiêu thoát ra ngoài sự thấy nghe và suy nghĩ, mới là tuyệt đối.

Đức Lăo tử nói: "Đạo mà có thể nói được, th́ không pghải là Đạo".

Tóm lại, nếu c̣n "chấp thân cao lớn", tất nhiên c̣n chấp ngă và chấp pháp, th́ không nhập được Kim Cang Bát Nhă, nên chưa phải thân cao lớn.

GIẢI DANH TỪ

BÁO THÂN: Phật có 3 thân:

1. Pháp thân: tức là Pháp tánh hay chơn tâm, không có h́nh tướng

2. Báo thân: Thân do phước báo tu hành, trải qua 3 vô số kiếp mới được. Kinh chép: Báo thân của Phật lớn bằng núi Tu di; duy có bực Bồ Tát mới thấy được.

3. Ứng thân hay Hoá thân: Phật tuỳ các loại chúng sanh mà ứng hiện hay hoá hiện ra mỗi thân, để tế độ


[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]