[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


KHOÁ XII: KINH ĐẠI BÁT NHĂ TOÁT YẾU

Ngài Tam tạng Pháp sư CƯU MA LA THẬP, dịch chữ Phạn ra chữ hán
Sa môn THÍCH THIỆN HOA dịch lại chữ Việt và lược giải
 

LƯỢC GIẢI

 

Nguyên đề mục kinh nà có mười chữ:

"Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa tâm kinh"; gọi tắt là:Tâm kinh"

MA HA:Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Maha", dịch nghĩa là "Đại" (lớn), Đa (nhiều) và "thắng" (hơn).

BÁT NHĂ:Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Prajnà"; v́ không có chữ dịch cho cân xứng, nên chỉ dịch nguyên âm (Bát Nhă).

Bát Nhă có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sáu nghĩa:

1. Viễn ly: Xa ĺa các vô minh phiền năo vọng chấp

2. Minh: Sáng, không mờ tối

3. Trí: Thông suốt

4. Huệ: Sáng tỏ

5. Trí huệ: Sáng tỏ thông suốt

6. thanh tịnh: Trong sạch không nhiễm ô.

Bát Nhă có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa th́ không được đúng lắm, nẹ6n các dịch giả chỉ để nguyên âm chữ Phạn.

Tuy nhiên, trong sáu nghĩa trên đây, nếu đem so sánh và cân nhắc, th́ có thể dùng tạm nghĩa "Trí huệ", v́ nghĩa Trí huệ có phần rơ ràng vá xác đáng hơn hết.

Nhưng, cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ các loại Trí huệ sau đây, mới đúng với nghĩa của chữ "Bát Nhă".

1. Trí huệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng thấy xa, thông minh lanh lợi khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương diện, thiên hạ gọi là người "Trí huệ". Nhưng Trí huệ đó là Trí huệ của thể tục phàm phu, không phải là "Trí huệ Bát Nhă".

2. Trí huệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định lâu ngày cũng có Trí huệ (xem bài Thiền tôn trong Bộ Bản đồ tu Phật ) biết được việc quá khứ hiện tại và vị lai, thần thông biến hoá vô cùng, nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng Trí huệ đó là tà Trí huệ, không phải "Trí huệ Bát Nhă".

3. Trí huệ Nhị thừa: Hàng Thinh văn và Duyên giác do tu pháp Tứ đế và Thập nhị nhơn duyên mà đặng đạo quả. Các vị nàyđă khỏi sanh tử luân hồi, thần thông tự tại và có Trí huệ biết được việc quá khứ hiện tại và vị lai.

Nhưng Trí huệ đó thuộc về Trí huệ Tiểu thừa, chỉ thấy về "ngă không chơn như" (thiên không), chớ chưa thấy được "pháp không chơn như", nên cũng không phải "Trí huệ Bát Nhă".

Trừ ba loại Trí huệ trên, duy có Trí huệ của Phật hay của Đại thừa Bồ Tát, mới phải là "Trí huệ Bát Nhă".

Công dụng của Trí huệ Bát Nhă, như mặt trời chiếu phá các mây mù vô minh vọng chấp (ngă, pháp). Bởi thế nên Trí huệ Bát Nhă chiếu soi các pháp, th́ pháp nào cũng đều bỏ h́nh giả dối, mà hoàn lại tướng chơn thật. Tướng chơn thật của các pháp đă hiện, tức là chơn như hay chơn lư của vũ trụ hiện ra vậy.

Trí huệ Bát Nhă saün có trong mổi chúng sanh từ vô thỉ đến nay, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mà thành. Dù ở địa vị phàm phu, nó cũng không giảm, dù chứng quả thánh, nó cũng không tăng. Nó không bị các vô minh phiền năo phá hoại, trái lại c̣n phá tiêu tất cả vô minh phiền năo từ vô thỉ đến nay. Nó phá một cách dễ dàng và rốt ráo, như gió thổi mây bay, như mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là "Bát Nhă Ba La Mật Đa" (Trí huệ rốt ráo).

Trí huệ Bát Nhă có công năng như chiếc thuyền, đưa chúng sanh từ bên này bờ mê muôi triền phược của phàm phu, đến bên kia bớ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên Cổ nhơn cũng gọi là "thuyền Bát Nhă".

Muốn giản biệt Trí huệ Bát Nhă, để khỏi lầm lộn với Trí huệ của phàm phu, ngoại đạo và Tiểu thừa, chúng tôi dịch nghĩa chữ "Bát Nhă" như sau:

1. Trí huệ Phật (Trí huệ của Phật tánh hay chơn tâm)

2. Trí huệ Bát Nhă (dùng cả chữ Phạn và chữ Hán)

3. Trí huệ rốt ráo (Bát Nhă Ba la mật)

Bát Nhă có ba loại:

  • a. Văn tự Bát Nhă: tức là "học Bát Nhă". Hành giả nhờ học văn tự nghĩa lư kinh Bát Nhă mới ngộ được Lư tánh Bát Nhă cũa ḿnh.

  • b. Quán chiếu Bát Nhă: Tức là "tu Bát Nhă". Sau khi đă ngộ được Lư tánh Bát Nhă, hành giả phải tu tập; nghĩa là quán sát chiếu soi các pháp đều "không"

  • c. Thật tướng Bát Nhă: Tức là "Chứng Bát Nhă". Sau khi tu tập, đến lúc công viên quả măn rồi, hành giả chứng được tướng chơn thật của Bát Nhă.

  • Tu chứng Bát Nhă có ba giai đoạn:

    1. Gia hạnh Bát Nhă: Tăng gia công hạnh tu Bát Nhă. Nghĩa là sau khi hạ thủ công phu tu tập, hành giả phải tăng gia công hạnh, mới đặng Trí huệ Bát Nhă.

    2. Căn bản Bát Nhă: Tức là thể tánh Bát Nhă, tuy saün có trong mỗi chúng sanh, nhưng phải nhờ có tu hành mới được hiển lộ.

    3. Hậu đắc Bát Nhă: Tức là diệu dụng Bát Nhă, do hành giả sau khi chứng đặng "căn bản Bát Nhă" rồi mới được diệu dụng này.

    ***

    BA LA MẬT ĐA: Trung Hoa dịch âm chữ Phạn "Paramita", có hai nghĩa:

    1. Đáo bỉ ngạn: đến bờ bên kia. Trí huệ Bát Nhă có công năng đưa chúng sanh từ bờ mê muội triền phược của phàm phu bên này, qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là "Bát Nhă Ba La Mật Đa"

    2. Cứu cánh viên măn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ Ấn Độ, phàm làm việc ǵ khi đă hoàn toàn viên măn, th́ gọi là "Ba La Mật Đa". Trí huệ Bát Nhă là loại Trí huệ đă rốt ráo viên măn, nên gọi là "Bát Nhă Ba La Mật Đa".

    TÂM:Chữ "Tâm" có nhiều nghĩa:

    1. Tâm: Quả tim, như "tâm can tỳ phế thận";

    2. Tâm: Chứa nhóm và sanh khởi, như "tập khởi tâm";

    3. Tâm: Chứa nhóm, như "Tập tích tâm";

    4. Tâm: Sanh diệt không gián đoạn, như "đẳng vô gián tâm";

    5. Tâm: Nhớ nghĩ lo lường, như "tư lương tâm";

    6. Tâm: Rơ ràng phân biệt, như "minh liễu phân biệt tâm";

    7. Vọng Tâm: Tâm hư vọng sanh diệt ;

    8. Chơn Tâm: Tâm chơn thật, như "bản thể chơn tâm";

    9. Tâm: Toát yếu hay tinh yếu, như chữ "trọng tâm".

    Tóm lại, chữ "tâm" tuỳ ở trong đề mục kinh này, th́ nên dùng nghĩa "tinh yế", "toát yếu" hay "trong tâm" mới là chính xác. V́ Phật nói kinh Đại Bát Nhă đến 600 quyển, trải qua thời gian 22 năm mới rồi (nhị thập nhị niên Bát Nhă đàm); kinh này (chỉ có 260 chữ) là trong tâm hoặc toát yếu hay tinh yếu của kinh Đại Bát Nhă, nên gọi là "Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa tâm kinh".

    ***

    KINH: kinh điển hay giáo lư, do Phật hoặc Bồ Tát nói ra. Chữ "kinh" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại cóp ba nghĩa như sau:

    1. Thường: Không thay đổi. Chơn lư của Phật không thay đổi, dù Phật quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều nói chơn lư như vậy.

    2. Dường canh: Đường chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi, xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. C̣n kinh là sự tổng hợp ghi chép các lời nói của Phật hoặc Thánh hiền.

    3. Hợp (khế): Kinh Phật hợp với "chơn lư của vũ trụ" và hợp với "căn cơ tŕnh độ của chúng sanh". Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo tŕnh độ của mỗi người jẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ cao thấp không đồng, nhưng y theo kinh tu hành, đều được khỏi khổ sanh tử luân hồi, không sót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như vậy, nên gọi là "khế kinh".

    Tóm lại, "Ma Ha Bát Nhă Ba La Mật Đa tâm kinh" là "Kinh toát yếu kinh Đại Bát Nhă".

    Nói về danh, Tướng, Thể, Dụng của kinh này:

    Danh: tên kinh này dùng pháp "Bát Nhă" làm tên

    Tướng: Kinh này lấy "Đại thừa" làm giáo tướng.

    Thể: Kinh này lấy "Thật tướng" làm thể

    Dụng: Kinh này lấy "độ thoát khổ ách" làm dụng

    Tôn chỉ: Kinh này lấy "quán chiếu" làm tôn chỉ

    ***

    Tên của dịch giả: Ngài Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang.

    TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam tạng là ba kho tàng; v́ có công năng trùm chứa văn nghĩa của Phật pháp, nên gọi là "Tạng".

    1. Kinh tạng chép những lời Phật dạy hay những lời của các vị Bồ Tát nói ra.

    2. Luật tạng chép những giới và luật của 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Sa Di, Sa Di Ni, Thức xoa và Ưu bà tắc, Ưu bà di)

    3. Luận tạng chép những nghị luận chánh tà, phân biệt chơn vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ.

    Thầy giảng Kinh th́ gọi là "Pháp sư"

    Thầy giảng Luật th́ gọi là "Luật sư"

    Thầy giảng Luận th́ gọi là "Luận sư"

    Ngài Huyền trang thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật, Luận nên gọi Ngài là "Tam Tạng Pháp sư" (vị Pháp sư thông suốt ba tạng).

    HUYỀN TRANG: Ngài họ Trầøn tên Vĩ ở đất Yên sư, tỉnh Lạc Dương. Ngài rất thông minh, xuất gia khi 13 tuổi, học đủ kinh điển. Đến năm Trinh Quán thứ ba, Ngài phát tâm qua Ấn Độ học Phật pháp đén 15 năm, rất thông về "pháp tướng Duy thức học". Ngài học được 657 bộ kinh. Đến năm Trinh Quán thứ 19, Ngài về Trung Hoa. Vua Đường Thái Tôn rất mừng, thỉnh Ngài ở lại chùa Hoàng Phước dịch kinh. Ngài dịch được 75 bộ, cộng là 1335 quyển. Ngài hưởng thọ 75 tuổi. Vua Cao Tôn dựng tháp Ngài thao kiều Ấn Độ tại chủa Từ Ân, công đức của Ngài thật là vô tận. (xem bộ Huyền Trang do Vơ đ́nh Cường soạn, Hương Đạo xuất bản)

    Kinh này có năm nhà dịch từ chữ Phạn ra chữ Trung Hoa, nhưng bản dịch của Ngài Huyền Trang truyền bá được thạnh hành hơn hết.

    ***

    PHẦN DUYÊN KHỞI

    CHÁNH VĂN

    Ngài Quán Tự tại Bồ Tát, sau khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhă rồi, thấy năm uẩn đều "không" (Bát Nhă), nên không c̣n các khổ.

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn thứ nhứt, nói: Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhă, thấy các pháp đều không (Bát Nhă) nên không c̣n các khổ.

    Tất cả chúng sanh v́ mê bản thể chơn tâm thanh tịnh của ḿnh, nên vọng hiện ra có thế giới và chúng sanh.cũng như ngưới mê ngủ chiêm bao, nên thấy có các cảnh vật.

    Chúng sanh chấp các cảnh vật đó là thật, nên khởi ra tham, sân, si tạo đủ các nghiệp, rồi sanh tử luân hồi chịu đủ kiểu khổ sở. Cũng như người dương chiêm bao, v́ chấp cảnh vật trrong chiêm bao là thật, nên sanh ra vui buồn đủ chuyện.

    Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhă, thấy rơ các pháp (thế giới, chúng sanh) đều không, do vô minh vọng tưởng hiện ra, nên Bồ Tát không c̣n bị các khổ bởi vô minh vọng tưởng. Cũng như người đă thức giấc chiêm bao, thấy rơ cá cảnh vật trong chiêm bao đều không có, nên không c̣ bị khổ vui bởi cảnh chiêm bao.

    Tóm lại, chúng sanh v́ chấp năm uẩn thật có, nên mới chịu các hkhổ sở. Bồ Tát dùng Trí huệ Bát Nhă thấy năm uẩn đều không, nên không c̣n bị các khổ.

    GIẢI DANH TỪ

    QUÁN TỰ TẠI BỔ TÁT: NGÀI Huyền Trang Pháp sư dịch là "Quán Tự Tại Bồ Tát"; Cựu dịch: "Quán Thế Âm Bồ Tát"

    Quán Tự Tại, có hai nghĩa: 1. Quán rơ các pháp đều do tâm biến hiện, nên chúng sanh được quả tự tại, 2. Quán biết căn cơ của chúng sanh, nên sự giáo hoá được tự tại.

    BỔ TÁT: Trung Hoa dịch tắt chữ "Bồ Đề Tát Đoả". "Bồ Đề" dịch là "Giác"; "Tát đoả" dịch là "Hữu t́nh"; nghĩa là chúng hữu t́nh đă được giác ngộ. Có ba nghĩa:

    1. Phần tự lợi:Tức là "Hữu t́nh giác", nghĩa là chúng hữu t́nh đă giác ngộ, nhưng chưa được hoàn toàn như Phật. V́ c̣ vi tế sở tri ngu, nên giác mà c̣n hữu t́nh.

    2. Phần lợi tha: Tức là "Giác hữu t́nh"; nghĩa là phần minh đă giác ngộ, rồi giác ngộ cho chúng sanh.

    3. Phần tự lợi, tự tha: Tức là "Tự giac, giác tha"; nghĩa là trên cầu đạo Phật để giác ngộ cho ḿnh, dưới giáo hoá chúng sanh.

    Nghĩa thứ nhứt, túc là "Trí", nghĩa thứ hai tức là "Bi", nghĩa thứ ba cả Bi và Trí. Bồ Tát "Bi, Trí" gồm đủ. "Lư, Sự" vô ngại, nên gọi là "Quán Tự Tại Bồ Tát".

    ĐI SÂU VÀO TRÍ HUỆ BÁT NHĂ:Tức là Bồ Tát đă thâm nhập Trí huệ Bát Nhă.

    NĂM UẨN ĐỀU KHÔNG: Hàng Nhị thừa phá cái chấp ngă; nhưng c̣ chấp pháp; nghĩa là thấy không có "ngă", nhưng c̣n năm uẩn. Hàng Đại thừa Bồ Tát, th́ ngă pháp đều phá; nghĩa là ngă đă không mà năm uẩn cũng không.

    Năm uẩn là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Ngài Huyền Trang dịch là "ngũ uẩn". Chữ "uẩn" là "chứa nhón"; nghĩa là năm món này tích tụ chứa nhóm làm thân và làm tâm.

    Cựu dịch là "ngũ ấm". Chữ "Ấm" là che đậy; nghĩa là năm món này che đậy chơn tâm thanh tịnh, như mây che mặt nhựt.

    Tóm lại, tất cả sự vật trong vũ trụ, không ngoài thế giới và chúng sanh. Thế giới chúng sanh không ngoài Sắc (vật chất) và Tâm (tinh thần).

    Sắc tức là sắc uẩn: tâm tức là tâm uẩn: thọ, tưởng, hành, thức. Bởi thế nên nói "năm uẩn đều không", tức là nói "thế giới và chúng sanh hay tất cả sự vật trong vũ trụ đều không".

    KHỒ: các khổ vô biên nhưng tóm lại có ba món khổ: khổ khổ, hoại khổ và hành khổ; hay tám món khổ là: sanh khổ, lăo khổ, bịnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ, cầu bất đắc khổ (xem Khổ đế trong quyển Tứ Diệu Đế, do hương Dạo xuất bản).

    ***

    PHẦN CHÁNH TÔN

    CHÁNH VĂN

    Ngài gọi ông Xá Lợi Tử dạy rằng: "Này Xá Lợi Tử ! năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) chẳng khác với "không" (Bát Nhă), "không" chẳng khác với năm uẩn tức là "không" (Bát Nhă), "không" tức là năm uẩn.

    LƯỢC GIẢI

    Đại ư đoạn này nói: Năm uẩn tức là: "không" (Bát Nhă), "không"tức là năm uẩn.

    Nói năm uẩn tức là nói tất cả các pháp. Tất cả các pháp có hai phần: Tánh và Tướng. Tánh của các pháp th́ không có h́nh tướng. Kinh gopị là "không tướng" (thị chư phàp không tướng). Bởi "không tướng" nên không sai khác, không sanh diệt, không hư hoại v.v...cũng gọi là thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn không, chơn như hay chơn tâm v.v...

    Tướng của các pháp th́ có h́nh tướng, như năm uẩn hay các pháp sai khác, có sanh diệt, hư dối không thật, rốt cuộc hoàn không. Kinh chép: "Ngũ uẩn giai không".

    Thí dụ như ṿng, kiềng, xoa, xuyến là "tướng" của vàng; băng, tuyết, mù sương, nước đá là "tướng" của nước, đều có sanh diệt, hư giả không thật, rốt cuộc đều trở về không. C̣n "tánh" của vàng hay "tánh" của nước th́ không có các tướng:dài, ngắn, vuông, tṛn v.v...(dụ cho không tướng). V́ "không tướng" nên không sanh diệt hư hoại; dụ như thật tướng, chơn tướng hay chơn không v.v...(Đây chỉ là thí dụ cho dễ hiểu, chứ không phải "vàng" hay "nước" là thật tướng hay chơn tướng v.v...).

    Đoạn kinh này có hai từng đạo lư, cạn và sâu khác nhau. Từng đạo lư thứ nhất, dùng hai chữ "chẳng khác":

    Năm uẩn "chẳng khác" với không

    Không "chẳng khác" với năm uẩn.

    Nghĩa là đem "năm uẩn" với "chơn không" để so sánh nhau: Lấy "năm uẩn" so sánh với "chơn không" không khác; và lấy "chơn không" để so sánh với:năm uẩn"cũng không khác. Tuy không khác, nhưng có người hiểu: vẫn c̣n một bên "năm uẩn" và một bên "chơn không". Cũng như nói "sóng và nước không khác", nhưng vẫn c̣n chấp; sóng và nước hai thứ riềng biệt.

    Đến từng đạo lư thứ hai, có phần sâu hơn, lại dùng hai chữ "tức là":

    Năm uẩn "tức là" không

    Không "tức là" năm uẩn.

    Nghĩa là: "năm uẩn" tức là "chơn không", "chơn không" tức là "năm uẩn". Năm uẩn với chơn không, không c̣n hai phần riêng biệt nữa. Cũng như nói: sóng tức là nước, nước tức là sóng, không có riêng khác.

    Từng đạo lư thứ nhứt nói: Năm uẩn "chẳng khác" với Không, Không "chẳng khác" với Năm uẩn, tức là nói:

    Tướng của các pháp "chẳng khác" với tánh của các pháp. Tánh của các pháp "chẳng khác" với Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) "không khác" với đường (tánh); Đường "không khác" với kẹo.

    Từng đạo lư thứ hai nói: Năm uẩn "tức là" Không. Không "tức là" Năm uẩn; tức là nói:

    Tướng của các pháp "tức là" Tánh của các pháp. Tánh của các pháp "tức là" Tướng của các pháp. Cũng như nói: Kẹo (tướng) "tức là" Đường (tánh); Đường "tức là" kẹo.

    Muốn rơ thêm đoạn kinh này, chúng tôi xin thí dụ như sau: Như người mê ngủ chiêm bao (dụ chúng sanh mê muội) thấy các cảnh vật khô vui v.v...V́ mê mộng nên họ chấp các cảnh vật ấy là thật, rồi cũng vui buồn cười khóc v.v...

    Trái lại, người thức (dụ Bồ Tát tu Trí huệ Bát Nhă) thấy các cảnh chiêm bao kia đều không (ngũ uẩn giai không) nên không bị cănh chiêm bao làm cho họ khổ sở (độ nhứt thế khổ ách).

    Người thức kia (dụ Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát) biết rằng: V́ tâm chiêm bao hiện ra các cảnh chiêm bao, nên nói:

    "Cảnh chiêm bao (sắc) "không khác" với tâm chiêm bao (không), Tâm chiêm bao "không khác" với cảnh chiêm bao; cảnh chiêm bao "tức là" Tâm chiêm bao, Tâm chiêm bao "tức là" cảnh chiêm bao.

    Lên một từng nữa, Phật day:

    Chúng sanh v́ mê bản thể chơn tâm thanh tịnh của ḿnh (chơn không) nân vọng hiện ra thế giới và chúng sanh, tức là cảnh giới của chúng ta sống đây (trong kinh cũng gọi là cảnh đại mộng). Rồi chúng sanh vọng chấp cho là cảnh thật, nên cũng mừng giận khổ vui v.v...cũng như người chiêm bao (tiểu mộng) không khác, nên gọi là "mộng tưởng diên đảo).

    Bồ Tát đă giác ngộ (như người thức tỉnh) dùng Trí huệ Bát Nhă (như trí của người thức) thấy cảnh giới của chúng ta đang sống đây là cảnh đại mộng, đều do tâm hiện ra, nên Bồ Tát dạy: "các pháp đều không" (ngũ uẩn giai không), do tâm hiện ra, nên các pháp chẳng khác với tâm (không), tâm chẳng khác với các pháp; các pháp tức là tâm, tâm tức là các pháp".

    Tóm lại, đồng một bản thể chơn tâm thanh tịnh không khác, nhưng chúng sanh v́ vô minh vọng tưởng điên đảo, nên thấy có năm uẩn hay thế giới chúng sanh, rồi theo cảnh đại mộng này mà thọ khổ.

    Trái lại, Bồ Tát đă giác ngộ (người đă thức giấc đại mộng) dùng Trí huệ Bát Nhă thấy cảnh đại mộng này (5 uẩn hay các pháp) đều không, chỉ do tâm hiện ra, nên không c̣n bị các khổ của cảnh đại mộng nữa (độ nhứt thế khổ ách).

    V́ chúng sanh mê, từ "tánh không" hiện ra "có sắc", nên nói:"sắc, chẳng khác với không", nên nói: " không, chẳng khác sắc", hay không tức là "sắc" 
     

    GIẢI DANH TỪ

    XÁ LỢI TỬ: Có nhà dịch "Xá Lợi Phất" hay "Xá Lợi Phất Đa La". Chữ "phất" đồng nghĩa với chữ "Tử"(con). Ông Xá Lợi Tử là bực đại đệ tử của Phật, Trí huệ thứ nhứt.

    Bà mẹ ông tên Xá Lợi, thông minh xuất chúng, biện luận nổi danh trong xứ, nhứt là trong khi có mang ông.

    Theo phong tục Ấn Độ, thường lấy tên mẹ đặt tên con, nên gọi ông là Xá Lợi Tử (hay Phất); nghĩa là con bà Xá Lợi.

    Theo bản dịch của Ngài Thi Hộ chép: "Trong khi Đức ThếTôn ở non Linh Thứu nhập định Thậm thâm quang minh, nói chánh pháp Tam ma đề, th́ ông Xá Lợi Phất bạch với Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát rắng: "Nếu có người muốn tu pháp môn thậm thâm Bát Nhă, th́ phải tu như thế nào? Nhơn đó ngài Quán Tự Tại gọi ông Xá Lợi Phất mà giảng nói kinh này".

    SẮC, tức là "sắc uẩn": Các vật chất chứa nhóm lại thành ra những h́nh tướng, như thân thể và cảnh vật, gọi là "sắc uẩn".

    Sắc uẩn gồm 11 món: Năm căn và sáu trần.

    Năm căn là:

    1. Nhăn căn: Con mắt

    2. Nhỉ căn: Lỗ tai

    3. Tỹ căn: Lỗ mũi

    4. Thiệt căn: Cái lưỡi

    5. Thân căn: thân thể

    Sáu trần là:

    1. Sắc trần: Cảng bị thấy của mắt

    2. Thanh trần: Tiếng bị nghe của tai

    3. Hương trần: Mùi bị ngửi của mũi

    4. Vị trần: Vị bị nếm của lưỡi

    5. Xúc trần: Cảnh bị xúc của thân

    6. Pháp trần: Cảnh bị biết của ư thức; tức là "vô biểu sắc". Sắc này không tiêu biểu ra ngoài, nhưng đối với nội tâm (ư thức) chúng ta có thể thấy rơ ràng.

    THỌ, tức là "thọ uẩn". Thọ là lănh thọ. Sau khi tiếp xúc với cảnh rồi, sanh lănh thọ. Sự lănh thọ có năm: 1. Thọ khổ, 2. Thô vui, 3. Thọ buồn, 4. Thọ mừng, 5. Thọ không vui buồn.

    TƯỞNG, tức là "Tưởng uẩn". Tưởng là tưởng nhớ h́nh tượng của các cảnh. Do sau khi tiếp xúc và lănh thọ các cảnh khô vui rồi, sanh ra tưởng nhớ.

    HÀNH, tức là "Hành uẩn". Hành là sự thay đổi biến chuyển của tâm niệm. Trong 51 món Tâm sở, trừ Thọ và Tưởng ra, c̣n 49 món Tâm sở và 24 món Tâm Bất tương ưng, đều thuộc về Hành uẩn.

    THỨC, thức là "Thức uẩn". Thức nghĩa là hiểu biết phân biệt; có khả năng biến hiện ra các cảnh và phân biệt các cảnh. Thức, chia ra làm tám loại:

    1. Nhăn thức: Cái biết của mắt, phân biệt các cảnh sắc.

    2. Nhĩ thức: Cái biết của tai, phân biệt các tiếng tăm.

    3. Tỹ thức: Cái biết của mũi, phân biệt các mùi.

    4. Thiệt thức: Cái biết của lưỡi, phân biệt các vị trần.

    5. Thân thức: Cái biết của thân, phân biệt xúc trần.

    6. Ư thức: Cái biết của ư, phân biệt các pháp trần (cảnh nội tâm).

    7. Mạt na thức: Cái biết thứ 7, chấp thức thứ 8 làm ngă.

    8. A lại da thức: Cái biết thứ 8, chứa chủng tử các pháp

    Vật chất Sắc Sắc pháp II

    Thọ Tâm sở 51 món 91 pháp

    5 UẨN Tưởng Tâm bất hữu vi

    Tinh thần Hành tương ưng 24

    Thức Tâm Vương 8

    KHÔNG, tức đoạn sau nói "Không tướng". Cái "không" đây, không phải hư không, ngoan không hay cái "không" đối với cái có; cũng không phải thủ tiêu hết các vật hữu h́nh mà nói là không; và cũng không phải cái"không" của Tiểu thừa (Thiên không).

    Cái "không" đây, tức là bản tánh thanh tịnh không có các h́nh tướng, nên gọi là "không tướng" (tướng không). V́ nó không sanh diệt, không hư dối, nên cũng gọi là "chơn không" hay thật tướng, chơn tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như v.v...

    Tóm lại, kinh này nói "năm uẩn" tức là bên Duy thức nói "94 pháp hữu vi". Kinh này nói "không" hay "không tướng", tức là bên Duy thức nói "sáu pháp vô vi".

    Kinh này nói: "Sắc chẳng khác với không" hay nói: "Sắc tức là không", là nói"Pháp hữu vi tức là pháp vô vi".

    ***

    CHÁNH VĂN

    Này Xá Lơ Tử ! "Tướng không" (Bát Nhă) của các pháp đây, nó không sanh không diệt, không nhơ không sạch, không thêm không bớt.

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói: Tánh (Bát Nhă) của các pháp, không sanh không diệt, không cấu tịnh v.v...

    Đoạn thứ nhứt nói:" Năm uẩn đều không", đoạn thứ hai nói:" Sắc chẳng khác với không", hay " sắc tức là không v.v...", đoạn này nói:? tướng không của các pháp"; chữ "Không" ở trong ba đoạn này đều chỉ cho "Trí huệ Bát Nhă", tức là "Tánh" của các pháp.

    "Tánh" của các pháp không có h́nh tướng: không có tướng sanh, không có tướng diệt, không có tướng cấu nhiễm của phàm phu, không có tướng thanh tịnh của chư Phật. Khi ngộ nó không thêm, lúc mê nó cũng không bớt. Bởi thế nên cũng gọi là "không tướng" (tướng không), chơn tướng, thật tướng, chơn tánh, chơn tâm, chơn như, chơn không hay thật tướng Bát Nhă v.v...

    Tóm lại, "Tánh" của các pháp là "chơn tâm thanh tịnh sáng suốt", không có các h́nh tướng, nên gọi là "không tướng" hay "Bát Nhă chơn không".

    GIẢI DANH TỪ

    Pháp: Chỉ chung cho tất cả sự vật: tinh thần, vật chất, hữu h́nh vô h́nh, hữu vi vô vi, thánh phàm v.v...Chẳng những bàn ghế v.v...là "pháp", cho đến hư không cũng là "pháp". Bóng trong gương, trăng dưới nước là "pháp", mà lông rùa, sừng thỏ cũng là "pháp", cho đến tư tưởng tâm niệm cũng là "pháp". Phàm những cái ǵ, tự nó giữ được cái bản chất của nó làm cho người biết được nó là cái ǵ, th́ đều gọi là "pháp".

    Tóm lại, nói rộng là "tất cả pháp", nói hẹp là "năm uẩn?. Nói "năm uẩn là chơn không" tức là nói "các pháp là chơn không". Chính ở nơi các pháp mà nhận tướng "chơn không", chẳng phải ngoài các pháp, riêng có một tướng chơn không".

    ***

    CHÁNH VĂN

    Bởi thế nên, trong "Tướng không" (Bát Nhă) không có 5 uẩn là: sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có 6 căn là: nhăn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ư; không có 6 trần là: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; không có 6 thức là: nhăn thức, nhĩ thức, tỹ thức, thiệt thức, thân thức và ư thức.

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói: Trong "Tướng không" (Bát Nhă) không có các pháp thế gian.

    V́ "Tướng không" của các pháp (Bát Nhă) không sanh diệt, không cấu tịnh, không tăng giảm v.v...nên trong "Tướng không" (Bát Nhă) không có 5 uẩn, mười hai xứ (6 căn, 6 trần), mười tám giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) . cũng như trên màn bạc (dụ Tướng không) không có các h́nh ảnh.

    Thật ra, nói "năm uẩn" tức là gồm cả mười hai xứ và mười tám giới; trái lại, nói "mười hai xứ", cũng gồm cả năm uẩn và mười tám giới; hay nói "mười tám giới" cũng gồm cả mười hai xứ và năm uẩn.

    Sở dĩ phân chia riêng khác như vậy, là v́ Phật phá sự chấp ngă của chúng sanh: Người chấp nặng về phần tinh thần (tâm) là Ngă, th́ Phật nói "năm uẩn", chia chẻ tinh thần (tâm) ra làm bốn phần là: thọ, tưởng, hành và thức để phá chấp. C̣n "Sắc" không cần chia chẻ.

    Người chấp nặng về phần vật chất (chấp thân) là Ngă, th́ Phật nói "mười hai xứ", chia chẻ sắc ra làm 12 phần là 6 căn và 6 trần, để phá chấp.

    Người chấp cả tinh thần (tâm) và vật chất (sắc) làm Ngă, th́ Phật nói "mười tám giới" chia chẻ cả tinh thần và vật chất ra làm 18 phần là 6 căn, 6 trần và 6 thức để phá chấp.

    Tóm lại, trong Bát Nhă (Tướng không) không có các pháp của thế gian là năm uẩn, sáu căn, sáu trần và sáu thức.

    GIẢI DANH TỪ

    NĂM UẨN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ nhứt, về câu "năm uẩn đều không").

    SÁU CĂN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về câu "sắc tức là sắc uẩn").

    SÁU TRẦN: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về câu "sắc tức là sắc uẩn").

    SÁU THỨC: (xem phần "giải danh từ" của đoạn thứ hai, về chữ "Thức tức là thức uẩn).

    ***

    CHÁNH VĂN

    Không có mười hai nhơn duyên, nghĩa là không có "vô minh", và cũng không có "hết vô minh", cho đến không có "lăo tử" và cũng không có "hết lăo tử".

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói:Trong "Tướng không (Bát Nhă) không có 12 nhơn duyên là pháp tu xuất thế gian của Thánh Duyên giác.

    Trong Bát Nhă chơn không, cũng không có 12 nhơn duyên: Về phần lưu chuyển là Vô minh duyên Hành, cho đến duyên Lăo tử. Và về phần hoàn diệt là Vô minh diệt th́ Hành diệt, cho đến Lăo tử diệt.

    Bực Thánh Duyên giác, nhờ quán sự lưu chuyển của 12 nhơn duyên, mà thấu rơ được nguồn gốc của sanh tử luân hồi; và cũng nhờ quán sự hoàn diệt của 12 nhơn duyên mà được ngộ đạo.

    Quán sự "Lưu chuyển" của 12 nhơn duyên như thế nào, mà thấy rơ được nguồn gốc của sanh tử luân hồi? Hành giả quán 12 nhơn duyên xoay vần tiếp nối lẫn nhau, như sợi dây chuyền có 12 khoen: khoen này chuyền khoen kia, khoen kia chuyền khoen nọ, như cái ṿng tṛn không mối.

    Chúng sanh v́ đời trước mê lầm (quá khứ căn bản vô minh) nên tạo ra các nghiệp (hành). Hai món này (vô minh và hành) làm nhơn quá khứ.

    Sau khi chết bị nghiệp lực dẫn dắt tinh thần (thức) đi thọ thân (danh, sắc). Khi thành thân, tất nhiên có 6 căn (nhăn, nhĩ, tỹ, thiệt v.v..) là chỗ của 6 trần phản ảnh vào (lục nhập). Khi có 6 căn tiếp xúc (xúc) với 6 trần, rồi sinh ra lănh thọ (thọ) sự khổ và vui. Năm món này (thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) là quả hiện tại.

    Khi thọ quả hiện tại, trở lại tạo nhơn nữa là ưa thích (ái), t́m cầu (thủ), làm sao cho có (hữu). Ba món này (ái, thủ, hữu) làm nhơn hiện tại (tức là chi mạt vô minh).

    Do ưa thích t́m cầu cho được, nên tạo nghiệp để thọ sanh thân sau (sanh). Khi đă có thân (tất nhiên phải có thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ) th́ phải già và chết (lăo, tử). Ba món này (sanh, lăo, tử) là quả vị lai.

    Trong khi thọ quả vị lai, rồi trở lại tạo nhơn nữa (ái, thủ, hữu) để thọ quả vị lai lần nữa, cho đến vô cùng tận.

    (xem biểu đồ)

    Quả hiện tại

    (thức, danh sắc, lục nhập, xúc,thọ)

    Quả vị lai

    (sanh, lăo,tử)

    Quán về sự "Hoàn diệt" của 12 nhơn duyên:Sau khi hành giả quán sát nguồn gốc của sanh tử luân hồi là do 12 nhơn duyên, nhưng trọng tâm là vô minh. Hành giả muốn dứt sanh tử luân hồi, tức nhiên phải diệt trừ vô minh. Nếu vô minh bị diệt trừ th́ hành diệt, cho đến lăo tử diệt.

    Vô minh có 2 loại: căn bản vô minh, tức là vô minh quá khứ (vô minh, hành), và chi mạt vô minh, tức là vô minh hiện tại (ái, thủ, hữu). Vô minh quá khứ rất khó diệt trừ. Hành giả chỉ có thể diệt trừ vô minh hiện tại là ái, thủ, hữu. Nếu ái, thủ, hữu diệt rồi, th́ sanh và lăo tử không c̣n. Không c̣n sanh và lăo tử, th́ làm ǵ có sanh tử luân hồi (xem Phật học Phổ thông khoá thứ tư, giải thích rất rơ).

    Tóm lại, trong Bát Nhă (Tướng không, hay chơn như, chơn tâm v.v...) không có pháp tu xuất thế gian của Thánh Duyên giác là 12 nhơn duyên, cả lưu chuyển và hoàn diệt.

    GIẢI DANH TỪ

    VÔ MINH: Không sáng suốt, tức là si mê làm lạc. Nói chung là mười món căn bản phiền năo và 20 món tuỳ phiền năo .

    HÀNH: Hành động, tạo tác các nghiệp.

    THỨC: thần thức, tức là phần tinh thần trong con người.

    DANH SẮC: Danh là chỉ cho Tâm, về phần tinh thần chỉ có cái tên; c̣n Sắc là sắc thân về phần vật chất. Đây là chỉ cho trạng thái khi mới thọ thân, tinh thần và vật chất mới vừa phối hợp, chưa có mắt, tai, mũi, lưỡi v.v...

    LỤC NHẬP: Sáu chỗ vào. Khi thân thể đă đủ 6 căn (nhăn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ư) là chỗ của 6 trần cảnh phản ảnh vào.

    XÚC: Khi đă có 6 căn, bắt đầu tiếp xúc với 6 trần.

    THỌ: Sau khi tiếp xúc với 6 trần cảnh rồi lănh thọ các cảnh.

    ÁI: Sau khi lănh thọ trần cảnh rồi sanh tâm ưa thích.

    THỦ: Cầu thủ. Sau khi ưa thích rồi t́m cầu và nắm giữ.

    HỮU: Có. Sau khi cầu thủ rồi gây tạo thế nào cho có.

    SANH: V́ đă tạo nhơn là ưa thích, cầu thủ gây tạo cho có, tức là tạo nghiệp, nên phải thọ quả là sanh đời sau.

    LĂO TỬ: Sau khi sanh ra đă có thân, tất nhiên phải bị già rồi chết.

    ***

    CHÁNH VĂN

    Không có Tứ đế là:khổ, tập, diệt, đạo; cũng không có "Trí" tu chứng và đạo quả để chứng (đắc). Tóm lại, trong "Tướng không" (Bát Nhă) không có "đặng" cái ǵ cả. 

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói:Trong "Tướng không" (Bát Nhă) không có các pháp xuết thế gian như Tứ đế, Lục độ v.v....

    Trong đoạn kinh này, chia làm ba phần:

    1. Trong Bát Nhă chơn không, không có Tứ diệu đế là pháp tu của bốn quả Thánh Thinh văn

    2. Trong Bát Nhă chơn không, cũng không có "Trí", là người tu chứng và "Đắc", là đạo quả để chứng. Trong phần này lại có 2 nghĩa:

    a. Nói chung, từ trước đến đây, theo văn kinh th́ chỉ phá riêng về "pháp chấp"; nghĩa trong Bát Nhă chơn không, không có pháp ngụ uẩn, pháp Tứ đế, pháp Thập nhị nhân duyên v.v...Đến đây, mới phá chung cả ngă chấp và pháp chấp; nghĩa là trong Bát Nhă chơn không, không có người tu (ngă) và chứng (pháp); nói chung cả pháp Lục độ và quả Phật.

    b. Nói riêng, câu "không có trí và cũng không có chứng", có thể chỉ riêng cho pháp Lục độ. V́ từ trước đă nói "Trong Bát Nhă chơn không, không có pháp Tứ đế của Thinh văn, pháp Thập nhị nhơn duyên của Duyên giác"; đến đoạn văn này tất nhiên, "Trong Bát Nhă chơn không, cũng không có pháp Lục độ của Bồ Tát".

    3. Tóm lại, trong Bát Nhă chơn không, không có "Đặng" cái ǵ cả. Đoạn này cũng có 2 nghĩa:

    a. Nói chung, trong Bát Nhă chơn không, không có các pháp thế gian là năm uẩn mười hai xứ, mười tám giới và cũng không có các pháp xuất thế gian là Tứ đế, Thập nhị nhơn duyên, Lục độ, rốt sau là quả Phật. Nói tóm lại, là "không có đặng cái ǵ cả".

    b. Nói riêng, câu "không có đặng cái ǵ cả", có thể chỉ riêng cho đạo quả Bồ Đề Niết bàn của Phật. V́ từ trước đă nói: Trong Bát Nhă chơn không, không có pháp tu của Tam thừa là Tiểu thừa (Thinh văn), Trung thừa (Duyên giác) và Thượng thừa (Bồ Tát); đến đoạn văn này tất nhiên trong Bát Nhă chơn không, cũng không có Tối thượng thừa là quả vị Phật. V́ từ trước đă nói: Trong Bát Nhă chơn không, không có pháp tu của Tam thừa là Tiểu thừa (Thinh văn), Trung thừa (Duyên giác) và Thượng thừa (Bồ Tát); đến đoạn văn này tất nhiên trong Bát Nhă chơn không, cũng không có Tối thượng thừa là quả vị Phật.

    Tóm lại, trong "Tướng không" hay trong "Bát Nhă" không có Tứ thánh (Thinh văn, Duyên giác, Bồ Tát, Phật) và Lục phàm (Thiên, nhơn, A tu la, Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh) hay nói một cánh khác là: "không có pháp ǵ cả".

    GIẢI DANH TỪ

    TỨ ĐẾ, Tức là Tứ Diệu Đế: Bốn sự thật, chắc chắn, muôn đời không thay đổi.

    KHỒ, Tức Khổ đế; chơn lư chắc chắn tŕnh bày rơ ràng cho chúng ta thấy tất cả những nỗi đau khổ trên thế gian này, mà mỗi chúng ta đều phải chịu, như ba khổ: 1. Khổ trên cái khổ (khổ khổ), 2. Khổ v́ hư hoại (hoịa khổ), 3. Khổ v́ thay đổi biến chuyển (hành khổ). Và tám khổ: 1. Sanh khổ, 2. Bịnh khổ, 3. Già khổ, 4. Chết khổ, 5. Đang thương nhau bị xa ĺa là khổ, 6. Đang thù oán giận hờn lại gặp nhau là khổ, 7. Mong cầu không được là khổ (thất vọng), 8. Năm ấm quá thạnh là khổ (xem quyển Tứ Diệu Đế).

    TẬP, tức là Tập đế: chơn lư chắc thật tŕnh bày nguyên nhơn của bể khổ trần gian là lư do v́ đâu mà có những nỗi khổ này. Khổ đế như là bản kê hiện trạng của bịnh; c̣n Tập đế như là bản nói rơ nguyên nhơn của chứng bịnh, lư do v́ sao bịnh.

    Tập là nhóm chứa; nghĩa là nhóm chứa các phiền năo mê lầm. Phiền năo rất nhiều, nói rộng th́ đến 84000 món, nói hẹp th́ có 10 món căn bản phiền năo và 20 món chi mạc phiền năo (xem quyển Tứ Diệu Đế, giải rơ).

    DIỆT, tức là Diệt đế hay Niết bàn. Kinh chép: "Các phiền năo diệt gọi la Niết bàn. Xa ĺa các pháp hữu vi cũng gọi là Niết bàn". Niết bàn có nhiều loại: 

    1. Hữu Dư Y Niết bàn: Từ quả thánh thứ nhứt cho đến quả thánh thứ ba của Tiểu thừa tuy đă chứng Niết bàn, nhưng cái dư báo hăy c̣n.

    2. Vô Dư Y Niết bàn: Đến quả thánh thứ tư, là A La Hán th́ các phiền năo nghiệp báo không c̣n, hoàn toàn chứng được quả Niết bàn.

    3. Vô Trụ Xứ Niết bàn: Đây là quả Niết bàn của Bồ Tát. Bồ Tát đă tự tại giải thoát, nên chỗ nào cũng là cảnh Niết bàn của quí Ngài (xem quyển Tứ Diệu Đế).

    ĐẠO, tức là Đạo đế: phương pháp tu chơn chánh, chắc chắn để đến đạo quả Niết bàn. Phương pháp có 37 phẩm, chia làm 7 loại:

    1. Tứ niệm xứ 2. Tứ chánh cần

    3. Tứ như ư túc 4. Ngũ căn

    5. Ngũ lực 6. Thất Bồ Đề 

    7. Bát Chánh Đạo (xem quyển Tứ Diệu Đế).

    CHÁNH VĂN

    Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă (Tướng không) mà xa ĺa được các cảnh mộng tường điên đảo nên tâm không c̣n ngăn ngại, lo sợ và chứng rốt ráo Niết bàn.

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói: Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă mà xa ĺa được các cảnh sợ hăi của mộng tưởng điên đảo và chứng rốt ráo Niết bàn.

    V́ trong Trí huệ Bát Nhă không có "Đặng" cái ǵ cả nên Bồ Tát mới y theo Trí huệ Bát Nhă (Tướng không) mà xa ĺa các điên đảo sợ hăi trong cảnh sanh tử đại mộng và chứng đặng rốt ráo quả Niết bàn. Đoạn này đồng nghĩa với bài tụng thứ 29, trong quyển Duy thức Tam thập tụng

    Nguyên văn bài tụng (dịch âm)

    Vô đắc bất tư nghị

    Thị xuất thế gian trí

    Xả nhị thô trọng cố

    Tiện chứng đắc chuyển y.

    Nghĩa là: cảnh giới "vô đắc" (không đặng) không thể nghĩ bàn. V́ cảnh giới này là trí xuất thế gian, đă bỏ hai món Thô trọng (phiền năo chướng và Sở tri chướng) và chứng đặng hai món Bồ Đề Niết bàn.

    Mới đọc qua đoạn văn này và doạn văn tiếp sau, chúng ta thấy h́nh như mâu thuẩn với đoạn văn trên. V́ trong đoạn văn trên nói: "trong Bát Nhă chơn không, không có đặng cái ǵ cả"; c̣n đoạn văn này và đoạn văn tiếp sau đây lại nói: "Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă mà chứng đặng rốt ráo Niết bàn. Chư Phật cũng nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă mà đặng đạo Vô thượng Bồ Đề ".

    Nhưng xét kỹ th́ không phải mâu thuẩn. V́ "không có đặng cái ǵ cả", nên mới đặng tất cả. Cũng như cái gương hay màn bạc, nhờ không giữ chặt một h́nh ảnh ǵ cả, nên các h́nh ảnh mới hiện đủ cả.

    Cũng thế, trong Bát Nhă chơn không, v́ không có một h́nh ảnh ǵ cả, nên tuỳ tịnh duyên hiện ra bốn quả thánh; tuỳ nhiểm duyên hiện ra sáu quả phàm, không thiếu một pháp nào cả.

    Tất cả chúng sanh, v́ mê muội tánh Bát Nhă, nên trong chỗ không có cảnh vật mà tự thấy có đủ các cảnh vật, nào thế giới chúng sanh và sanh tử luân hồi v.v...Cũng như người ngủ chiêm bao, trong chỗ không có cảnh vật, mà hiện ra đủ các cảnh vật vui, buồn v.v...nên gọi là "mộng tưởng điên đảo". Rồi người chiêm bao kia, tâm bị cảnh vật trong chiêm bao chi phối, làm cho họ phải buồn rầu lo sợ, lắm điều chướng ngại.

    Các vị Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă (Tướng không), thấy ngă, pháp đều không, năm uẩn chẳng có, thế giới và chúng sanh không c̣n, nên tâm không c̣n bị cảnh vật làm chướng ngiạ hay chi phối nữa, và không c̣n buồn lo sợ hăi. Cũng như người thức giấc chiêm bao, v́ thấy cảnh chiêm bao là không, nên tâm không c̣n bị cảnh vật trong chiêm bao làm chướng ngại chi phối; không c̣n bị buồn lo sợ hăi bởi cảnh chiêm bao. Bởi thế nên nói: "Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă, nên xa ĺa các mộng tưởng điên đảo, tâm không c̣n bị chướng ngại và lo sợ v.v..."

    Người đă hoàn toà thức giấc chiêm bao, th́ người ấy được an vui với cảnh thức tĩnh, không c̣n một tí ǵ sợ hăi lo buồn, bởi cảnh mê mộng nữa. Cũng thế, Bồ Tát khi đi sâu vào Trí huệ Bát Nhă, th́ không c̣n bị cảnh thế gian đại mộng này làm cho tâm họ có một tí ǵ lo buồn sợ hăi nữa. Các Ngài hoàn toàn tự tại giải thoát và an vui với cảnh Niết bàn tịch mịch, nên nói: "rốt ráo Niết bàn".

    Tóm lại, Bồ Tát nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă, nên xa ĺa các mộng tưởng điên đảo, không c̣n bị các khổ sanh tử và được rốt ráo Niết bàn.

    ***

    GIẢI DANH TỪ

    NIẾT BÀN, hay Niết bàn Na hay Nê hoàn, là do dịch âm chữ Phạn "NIrvana" mà ra. Niết bàn có nhiều nghĩa:

    NIẾT (nir) là ra khỏi; Bàn (vana) là rừng mê. Niết bàn là ra khỏi rừng mê

    Niết là chẳng; bàn là dệt; nghĩa là chẳng dệt ra sanh tử luân hồi nữa. Chữ Bàn cũng có nghĩa là không ngăn ngại.

    Niết bàn c̣n rất nhiều nghĩa nữa, song tóm lại không ngoài ba nghĩa như sau:

    1. Bất sanh: Nghĩa là không c̣n sanh ra các thứ mê lầm tội lỗi nữa.

    2. Giải thoát: Nghĩa là thoát ra ngoài sụ ràng buộc, không mắc vào các phiền năo triền phược nữa.

    3. Tịch diệt: nghĩa là vắng lặng, dứt sạch. Vắng lặng, an lành, dứt ssạch tất cả nguồn gốc mê lầm. V́ Niết bàn có nhiều nghĩa như vậy, nên trong kinh thường để nguyên âm mà không có dịch nghĩa (xem quyển Tứ Diệu Đế).

    ***

    CHÁNH VĂN

    Các đức Phật quá khứ, hiện tại và vị lai cũng đều y theo Trí huệ Bát Nhă này (Tướng không) mà đặng đạo Vô thượng Bồ Đề.

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói: Chư Phật nhờ y theo Trí huệ Bát Nhă mà chứng đặng Bồ Đề.

    Tất cả chư Phật trong ba đời, quá khứ, hiện tại và vị lai, trong khi tu nhơn, các Ngài đều dùng Trí huệ Bát Nhă, chiếu phá sạch hết các mây mù vô minh phiền năo từ vô thỉ đến nay; nào ngă chấp pháp chấp đều không c̣n. Lúc bấy giờ chơn tâm, Phật tánh hay thật tướng Bát Nhă hiện ra, các Ngài chứng đặng đạo Vô thượng Bồ Đề, cũng gọi là thành Phật.

    Tóm lại, tất cả những người tu hành, từ phàm phu (Thập tín) trải qua Tám Hiền (Thập trụ, Thập hạnh và Thập hồi hướng) đến Thập Thánh (Thập địa) rốt sau là quả Phật, không địa vị nàovà cũng không giờ phút nào, chẳng dùng Trí huệ Bát Nhă; nghĩa là nhờ Trí huệ Bát Nhă mà đặng thành tựu viên măn. Bởi thế nên kinh chép: "Trí huệ là mẹ sanh ra tất cả chư Phật ".

    GIẢI DANH TỪ

    BỔ ĐỀ: Bồ Đề là dịch âm chữ Phạn "Bodhi" . Cựu dịch là "Đạo", nghĩa là thông suốt. Tân dịch là "Giác", có nghỉa là giác ngộ, mà giác ngộ tức là Phật (Phật dịch nghĩa là Giác)

    VÔ THƯỢNG BỔ ĐỀ: Tức là quả Phật Bồ Đề, không có quả Phật Bồ Đề nào trên nữa.

    Bồ Đề có nhiều từng bực:

    1. Sơ phát tâm Bồ Đề (người mới phát tâm Phật)

    2. Thinh văn Bồ Đề 

    3. Duyên giác Bồ Đề 

    4. Bồ Tát Bồ Đề 

    5 Phật Bồ Đề (cũng gọi là Vô thượn Bồ Đề)

    CHÁNH VĂN

    V́ Trí huệ Bát Nhă (Tướng không) hăy diệt trừ hết các khổ, chắc chắn như vậy không hư dối, nên gọi là Thần chú Bát Nhă Ba La Mật Đa, cũng gọi là chú Đại Thần, chú Đại minh, chú Vô thượng và chú Vô đẳng đẳng.

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói: Trí huệ Bát Nhă, có công năng diệt trừ các khổ, nên cũng gọi là Thần chú Bát Nhă v.v...

    Kinh này là kinh nhưng cũng là chú; v́ người chí thành tŕ tụng, sẽ được linh nghiệm phi thường, tuỳ tâm măn nguyện, cầu chi được nấy, mau lẹ phi thường, không khác ǵ thần chú, nên cũng gọi là "THần chú Bát Nhă Ba La Mật Đa".

    Kinh này thần diệu không thể xét lường được. Người thọ tŕ đọc tụng kinh này sẽ được thành tựu công đức không thể nghĩ bàn và được đại giải thoát, nên gọi là "chú Đại thần".

    Kinh này có khả năng phá trừ gốc rễ của vô minh phiền năo từ vô thỉ đến nay, và làm hiển lộ Phật tánh sáng suốt, nên gọi là "chú Đại minh".

    Người tŕ kinh này sẽ đặng đạo Vô thượng Bồ Đề, nên cũng gọi là "chú Vô thượng".

    Người chí tâm tŕ tụng kinh này sẽ đặng Phật tánh b́nh đẳng như như bất động, và sẽ chứng được quả Phật là quả cao tột, không quả vị nào sánh bằng, nên gọi là "chú Vô đẳng đẳng".

    Tóm lai, kinh này có công năng thần diệu phi thường, cũng như thần chú, có thể diệt trừ hết gốc rễ vô minh phiền năo, làm cho hành giả hết khổ được đại giải thoát và minh tâm kiến tánh thành Phật, nên gọi là "chú Bát Nhă" v.v...

    GIẢI DANH TỪ

    CHÚ: Tiếng Phạn gọi là "Đà La Ni"; Trung Hoa dịch là "chú"; tức là những bài kinh không có nghĩa, cũng gọi là "mật giáo". Hành giả chí thành đọc tụng, sẽ được linh nghiệm như thần nên cũng gọi là "Thần chú"

    ***

    CHÁNH VĂN

    Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, liền nói thần chú Bát Nhă: "Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ Đề tát bà ha".

    LƯỢC GIẢI

    Đoạn kinh này nói về Thần chú Bát Nhă.

    Tất cả kinh điển của Phật có thể chia làm hai loại: Hiển giáo và Mật giáo. Nhưng kinh sách nào giảng dạy nghĩa lư và phương pháp tu hành rơ ràng, hành giả y theo đó thật hành, sẽ được thành công đắc quả, th́ gọi là Hiển giáo. Trái lại, như các Thần chú, hành giả không cần biết nghĩa lư, chỉ chí tâm tŕ tụng, sẽ được linh nghiệm phi thường, cầu chi được nấy, tuỳ tâm măn nguyện, th́ gọi là "Mật giáo".

    Bát Nhă Tâm Kinh, đủ cả Hiển giáo và Mật giáo. Từ câu: "Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm v.v...cho đến câu: "tức thuyết chú viết", là thuộc về Hiển giáo. Từ câu: "Yết đế yết đế " cho đến câu "Bồ Đề tát bà ha", là thuộc về Mật giáo.

    Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát, trước nói kinh Bát Nhă, giảng giải nghĩa lư rơ ràng để cho người tu hành y theo đó thật hành sẽ đuợc trí tuệ Bát Nhă.

    Tiếp theo kinh, Ngài nói thần chú Bát Nhă, để cho người tu hành, chí thành tŕ tụng (không cần biết nghĩa) tâm họ sẽ được định. Nhờ có định mới phát sanh ra Trí huệ và sẽ nhập được Thật Tướng Bát Nhă. Nghĩa là từ văn tự Bát Nhă tiến lên Quán chiếu Bát Nhă, rồi đến Thật Tường Bát Nhă.

    Về Thần chú, từ xưa đến nay hầu hết chư Tổ, đều không dịch nghĩa. Bởi các lư do như sau:

    1. Thần chú là mật ngữ (lời nói mật) của chư Phật, không phải chúng phàm phu có thể biết được.

    2. Thần chú là tên của các vị Thần, đọc đến th́ chư Thần sẽ đến bảo hộ cho hành giả được toại nguyện

    3. Thần chú cũng như các mật hiệu của nhà binh, hành giả chí tâm tŕ tụng, sẽ được hiệu nghiệm phi thường.

    4. Chữ "Chú" nghĩa là nguyện. Hành giả chí thành tŕ tụng, sẽ được tuỳ tâm mănm nguyện.

    Tóm lại, Thần chú Bát Nhă thuộc về Mật giáo, có nhiều lư do không thể phiên dịch được. Người chí tâm tŕ tụng sẽ được lợi ích vô cùng vô tận.

     Dịch tại PHƯỚC HẬU Cổ tự TRÀ ÔN

    Dịch xong ngày 6 9 năm Ất Tî P.l 2509

    Nhằm ngày 30 10 1965      


    [Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

    [ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

    [Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]