[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


KHOÁ XII: KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Bài Thứ 8 

PHẦN CHÁNH TÔN

 

 

48. Phật phá cái chấp "Bồ Tát có độ sanh"
49. Phật phá cái chấp "Bồ Tát có làm trang nghiêm cơi Phật"
50. Phật có đủ 5 loại con mắt
51. Phật thấy biết hết các tâm niệm của chúng sanh trong hằng sa thế giới
52. Phật phá cái chấp "phước đức nhiều"
53. Phật phá cái chấp "thấy sắc thân và tướng tốt của Phật là thấy Phật"
54. Phật phá cái chấp "Như Lai có thuyết pháp"
55. Phật phá cái chấp "thật có chúng sanh"

48. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "BỔ TÁT CÓ ĐỘ SANH" [^]

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! nếu Bồ Tát c̣n chấp ḿnh hoá độ vô số chúng sanh th́ không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy ? v́ thật ra không có một pháp ǵ gọi là Bồ Tát. Bởi thế nên Phật nói:"Tất cả các pháp không ngă, không nhơn, không chúng sanh và không thọ giả".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá trừ cái chấp "thật có Bồ Tát, thật có độ sanh" và Phật dạy:" Các pháp đều giả, không có bốn tướng".

Đúng theo tinh thần kinh Bát Nhă, th́ pháp nào hay việc làm nào của Bồ Tát, hợp với tánh Bát Nhă chơn không, th́ pháp đó hay việc làm đó mới là thật.

Nếu Bồ Tát c̣n chấp có ḿnh độ sanh tức là Bồ Tát c̣n nhơn (người được độ) ngă (ḿnh độ) v.v...th́ không hợp với tinh thần Bát Nhă, nên không phải là Bồ Tát. Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn 3) Phật phá cái chấp "Bồ Tát có độ sanh".

V́ Bồ Tát hợp với tánh Bát Nhă chơn không, nên Phật dạy:" Không có một pháp ǵ gọi là Bồ Tát". Cũng v́ các pháp hợp với tánh Bát Nhă chơn không, nên Phật dạy:" Tất cả các pháp đều không ngă, không nhơn, không chúng sanh và không thọ giả".

***

49. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "BỔ TÁT CÓ LÀM TRANG NGHIÊM CƠI PHẬT"[^]

Phật dạy:" Tu Bồ Đề ! Nếu Bồ Tát chấp rằng:" Ta làm trang nghiêm cơi Phật", th́ không phải là Bồ Tát. Tại sao vậy? Như Lai nói:" Bồ Tát làm trang nghiêm cơi Phật, mà không chấp ḿnh có làm trang nghiêm cơi Phật, mới thật là trang nghiêm cơi Phật.

Tóm lại, nếu Bồ Tát không c̣n chấp ngă chấp pháp, Như Lai mới gọi là "thật Bồ Tát".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dạy: Bồ Tát không c̣n chấp ngă, chấp pháp, phải hợp với tánh Bát Nhă chơn không, mới phải thật là Bồ Tát và mới phải là trang nghiêm cơi Phật. Đây là lần thứ hai (lần thứ nhứt, xem đoạn 16) Phật phá cái chấp "Bồ Tát có trang nghiêm cơi Phật".

Bồ Tát làm trang nghiêm cơi Phật, mà không chấp minh có làm trang nghiêm, như thế mới thật là trang nghiêm cơi Phật. Trái lại, nếu Bồ Tát chấp ḿnh có làm trang nghiêm cơi Phật, tức là Bồ Tát c̣n chấp ngă (ta làm) chấp pháp (cơi Phật), không hợp với tinh thần Bát Nhă, th́ không phải là trang nghiêm và cũng không phải là Bồ Tát.

Tóm lại, Phật dạy:" Nếu Bồ Tát nhập vào Bát Nhă chơn không, không c̣n các vọng chấp ngă, pháp, th́ Như Lai mới gọi là thật "Bồ Tát?.

Ngài Xuyên Thiền sư làm bài tụng tóm tắt lại ư nghĩa trên, như sau:

Nguyên văn (dịch âm):

Tá bà sam tử bái bà môn

Lễ số châu truyền dĩ thập phần

Trúc ảnh tảo dai, trần bất động

Nguyệt luân xuyên hải thuỷ vô ngần.

Dịch nghĩa:

Mượn áo tràng bà để lạy bà

Lễ rồi, áo trả lại cho bà

Bóng trúc quét sân, trần chẳng động

Vừng trăng xuyên biển, nước không xao.

ĐẠI Ư BÀI TỤNG

Bài kệ này nói về lư "vô trụ vô tướng? của kinh Bát Nhă, Bồ Tát làm trang nghiêm cơi Phật; cũng như người mượn áo tràng của bà để lạy bà. Nhưng Bồ Tát không chấp có trang nghiêm cơi Phật; như người lạy rồi trả áo, không c̣n giữ lại vết tích ǵ cả.

Bồ Tát độ sanh hay làm các Phật sự mà không thấy có ḿnh độ và chúng sanh được độ v.v...cũng như bóng trúc quét bụi, tia sáng của vừng trăng xuyên biển; bụi trần không động mà nước cũng không dợn.

***

50. PHẬT CÓ ĐỦ NĂM LOẠI CON MẮT[^]

Phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Như Lai có nhục nhăn không? " Tu Bồ Đề thưa:" Bạch thế Tôn ! Như Lai có nhục nhăn".

"Tu Bồ Đề ! Như Lai có thiên nhăn không?"

"Bạch Thế tôn ! Như Lai có thiên nhăn ".

" Tu Bồ Đề ! Như Lai có Huệ nhăn không?"

"Bạch Thế tôn ! Như Lai có Huệ nhăn ".

" Tu Bồ Đề ! Như Lai có Pháp nhăn không?"

"Bạch Thế tôn ! Như Lai có Pháp nhăn ".

" Tu Bồ Đề ! Như Lai có Phật nhăn không?"

"Bạch Thế tôn ! Như Lai có Phật nhăn ".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này phá cái chấp "Phật và Bồ Tát không thấy chi hết".

Mục đích của kinh Bát Nhă là phải phá hết các vọng chấp, th́ chơn tâm hay Phật tánh (Bát Nhă) mới hiện. Bởi thế nên, chấp "có" đă bị bác, mà chấp "không" cũng bị bác.

Từ trước đến đây, Phật đă nhiều lần phá về chấp có. Như nói:"Bồ Tát phải không thấy có ḿnh độ sanh, không thấy có chúng sanh được độ. Bồ Tát không thấy ḿnh làm trang nghiêm và không thấy cơi Phật được trang nghiêm v.v..."

Sợ người chấp:" ...như thế th́ chư Phật và Bồ Tát không thấy chi hết", nên đến đoạn này, Phật mới hỏi ông Tu Bồ Đề:" Như Lai có năm món nhăn không?" . Ông Tu Bồ Đề thưa:"Như Lai có đủ năm món nhăn"; nghĩa là có đủ năm loại con mắt, nên Như Lai thấy tất cả.

GIẢI DANH TỪ

1. Nhục nhăn: Con mắt thịt cùa phàm phu, chỉ thấy trong phạm vi nhỏ hẹp; nếu bị vật ǵ che ngăn th́ không thấy.

2. Thiên nhăn: Con mắt của chư thiên, do tu thiền định hoặc sanh lên các cơi trời, mới được con mắt này. Thiên nhăn thấy được xa và thấu suốt tất cả, không bị vật ǵ làm chướng ngại.

3. Hụê nhăn: Con mắt Trí huệ. Huệ nhăn chỉ thấy "ngă không"; nghĩa là chúng sanh không thật, chỉ do ngũ uẩn và tứ đại hoà hợp. Hàng Thinh văn và Duyên giác mới có Huệ nhăn.

4. Pháp nhăn: Con mắt thấy suốt tất cả các pháp. Bồ Tát đặng pháp nhăn, thất "ngă pháp", đều không; nghĩa là Bồ Tát không những rơ thấu ngă, nhơn, chúng sanh và thọ giả đều không, mà cũng rơ thấu tất cả các pháp đều không thật, chỉ do các duyên hoà hợp sanh.

5. Phật nhăn: Con mắt Phật. Phật thấy biết tất cả các pháp trong thế gian và xuất thế gian. Phật thấy hoàn toàn viên măn, dù hằng sa thế giới, vô lượng chúng sanh. Phật cũng đều thấy và biết tất cả.

Tóm lại, Phật có đủ 5 con mắt; Bồ Tát có 4 con mắt; Nhị thừa c̣n 3; phàm phu chỉ một; chư thiên có 1 hoặc 2.

Cổ nhơn làm bài tụng nói về ngũ nhăn như sau:

Dịch âm (nguyên văn):

Thiên nhăn thông phi ngại

Nhục nhăn ngại phi thông

Pháp nhăn phi quán tục

Huệ nhăn liễu trí thông

Phật nhăn như thiên nhựt

Chiếu dị thể hoàn đồng.

Dịch nghĩa:

Mắt Trời thấy thông suốt

Mắt Thịt thấy có ngại

Mắt Pháp thấy pháp không

Mắt Huệ thấy ngă không

Mắt Phật thất tất cả

Muôn pháp đồng nhứt thể.

***

51. PHẬT THẤY BIẾT HẾT TÂM NIỆM CỦA CÁC CHÚNG SANH, TRONG HẰNG SA THẾ GIỚI[^]

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Cát ỏ trong song hằng, Như Lai có gọi là cát không?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Như Lai cũng gọi là cát".

Phật hỏi: "Như một sông Hằng có vô số cát, rồi lấy mỗi một hạt cát,để thí dụ một song Hằng, th́ có vô số sông Hằng. Trong vô số sông hằng, mỗi một sông Hằng lại có vô số cát nữa, rồi đem vô số hạt cát trong vô số sông Hằng đó, lại thí dụ nữa, mỗi một hạt cát là một hạt cát của Phật (Đại thế giới). Như thế, thế giới của Phật có nhiều không?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn nhiều lắm".

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Tất cả chúng sanh ở trong vô số thế giới như vậy, có bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất cả".

Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói tâm, không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là "tâm". Tại sao vậy?_ V́ tâm quá khứ t́m không được, tâm hiện tại t́m không được, tâm vị lai cũng t́m không được".

LƯỢC GIẢI

Đoạn nay tiếp với đoạn trên (50), Như Lai có 5 con mắt, nên Như Lai thấy biếtvô cùng thế giới và vộ tận chúng sanh.

Trong vô số thế giới, mỗi thế giới có vô số chúng sanh, mỗi chúng sanh có bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều thấy biết tất cả.

Vừa nói đến "tâm", sợ chúng sanh vọng chấp "có tâm" mà không nhhập được Kim Cang Bát Nhă, nên Phật liền phá: "Như Lai nói "tâm" không phải thật có tâm, chỉ giả gọi là "tâm".

Phật giải thích thêm: V́ tâm quá khứ đă diệt, tâm vi lai chưa đến, tâm hiện tại không dừng trụ, nên trong ba đời t́m tâm không thể được.

Thuở xưa, Ngài Huệ Khả (Nhị Tổ) đến cầu Tổ Đạt Ma (Sư Tổ) về pháp an tâm (xen "bản đồ tu Phật" tập 4).

Tổ Đạt ma hỏi: "Ông đến đây để làm ǵ?".

Ngài Huệ Khả thưa: "Bạch Tổ Sư ! Con đến đây để cầu pháp an tâm".

Tổ Đạt Ma hỏi:" Quá khứ tâm bất đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc, vậy ông muốn an cái tâm nào?".

Ngài huệ Khả thưa: "Trong ba thời (quá khứ, hiện tại và vị lai) con t́m tâm đều không thể được".

Tổ Đạt Ma dạy: "ta đă an tâm cho ông rồi". Ngài huệ Khả liền tỏ ngộ.

Ngài Xuyên Thiền sư có làm bài kệ nói về ba tâm

Nguyên văn (dịch âm):

Tam tế cầu tâm, tâm bất biến

Luỡng nhăn y nhiên đối lưỡng nhăn

Bất tu di kiếm khắc chu tầm

Tuyết tuyệt phong hoa thường kiến diện

Dịch nghĩa:

Hai mắt trơ trơ chỉ ngó chăm

T́m măi ba đời chẳng thấy tâm

Tuyết nguyệt phong ba thường đối diện

Kiếm rơi hà tất khắc khe tầm

LƯỢC GIẢI VÀ ĐẠI Ư

Thuở xưa, có người đi thuyền làm rơi cây kiếm dưới sông. Người ấy liền lấy dao khắc be thuyền, để chờ thuyền đậu nghỉ sẽ t́m. Đến khi thuyền đậu, người ấy xuống sông ṃ hoài không được kiếm. Anh ta thắc mắc: "Cây kiếm mới rớt, tôi khắc thuyền làm dấu ngay chỗ này, sao t́m hoài không được".

Người trí thấy vậy bảo:"Anh dại quá ! Kiếm rớt hồi năy, th́ anh phải t́m ngay chỗ hồi năy và tại chỗ đó; chớ đợi đến bây giờ, đă khác chỗ rồi, th́ làm sao t́m được".

Cũng thế, người tu hành phải trực ngộ bản tâm ḿnh. Nếu c̣n móng tâm để t́m tâm ở đâu đâu, th́ không bao giờ t́m được; v́ tâm quá khứ đă diệt, tâm hiện tại không dừng, tâm vị lai chưa đến.

Tóm lại, đại ư bài tụng:

Những cảnh vật thiên nhiên, như tuyết trong, trăng sáng, gió mát, hoa tươi ở trước mắt, d8èu biểu lộ bản thể chơn tâm thường trú. Hành giả phải tức nơi muôn vật đó mà trực ngộ bản tâm ḿnh, cần ǵ phải t́m đâu xa. Nếu hành giả không trực ngộ, mà cứ lo t́m tâm quá khứ, hiện tại và vị lai, th́ cũng như người khắc dấu lên thuyền để ṃ kiếm, không bao giờ ṃ được.

***

52. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "PHƯỚC ĐỨC NHIỀU"[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Nếu có người dùng 7 món báu, đựng đầy trong một Đại thế giới (một ngh́n triệu thế giới nhỏ) đem bố thí, người này được phước đức không?".

Tu Bồ Đề thưa: "nếu chấp phước đức này thật có, th́ Như Lai nói phước đức này không nhiều. Không chấp phước đức nhiều, Như Lai mới nói "đặng nhiều phước đức".

LƯỢC GIẢI

Nếu đem tân chấp tướng mà làm việc phước đức, th́ phước đức đó thành hữu vi hữu lậu; dầu có nhiều bao nhiêu cũng có ngày cùng tận. Trái lại, nếu đem tâm vô tướng (không cầu danh, cầu lợi, không chấp nhơn, chấp ngă v.v...) mà làm việc phước đức, th́ phước dức này thuộc về vộ lậu thanh tịnh, hợp với tánh Bát Nhă chơn không (chơn tâm) dù làm ít, nhưng phước đức vô cùng tận.

Thuở xưa, Tổ Đạt Ma đến Trung Hoa truyền đạo. Vua Lương Vơ Đế đem việc bố thí làm phước, đúc chuông, tạo tượng và lập 72 cảnh chùa v.v...để hỏi Tổ Đạt Ma. Trong câu hỏi có tánh cánh khoe khoang chấp tướng.

Vua hỏi: "Trẫm lập 72 cảnh chùa, đúc chuông, tạo tượng, tu kiều, bồi lộ v.v...phước đức có nhiều không?".

Trả lới đúng theo tinh thần "vô trụ, vô tướng" của kinh Bát Nhă, Tổ Đạt Ma nói: "Không có phước đức". Vua Lương Vơ Đế v́ tŕnh độ quá kém, không hiểu được lời của Tổ dạy, nên nghi rằng không phải Tổ, lại đem dâng thuốc độc cho Tổ Đạt Ma uống ...(xem quyển "Tổ Đạt Ma", do Hương Đạo xuất bản).

Ngài Xuyên Thiền sư tả về cảnh: khi các mây vô minh vọng chấp hết, th́ mặt trăng Trí huệ Bát Nhă hiện ra, bằng hai câu như sau:

 

Nguyên văn (dịch âm):

Vô hạn dă tâm phong quyển tận

Nhứt luân cô nguyệt chiếu thiên tâm

Dịch nghĩa:

Gió cuốn mây đen về biển cả

Một vừng trăng sáng giữa trời không

***

53. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THẤY SẮC THÂN VÀ TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT"[^]

Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! ông có thể cho thấy sắc thân của ta đây là thấy được Phật không?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Không thể cho thấy sắc thân của Phật là thấy được Phật. Tai sao vậy? V́ Như Lai nói sắc thân, không phải thật sắc thân, chỉ giả gọi là sắc thân".

Phật hỏi tiếp: "Tu Bồ Đề ! ông có thể cho thấy các tướng tốt (32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp) của ta đây là thấy được Phật không?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! không thể cho thấy các tướng tốt của Phật là thấy được Phật. Tại sao vậy? V́ Như Lai ní các tướng tốt, không phải thật tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhă phá trừ cái chấp: "Thấy sắc thân và tướng hảo của Phật lá thấy được Phật". Đây là lầ thứ ba (lần thứ nhứt và nh́ ở đoạn 7 và 25) Phật phá cái chấp về việc thấy Phật.

Kinh Kim Cang, Phật dạy: "Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng" (phàm cái ǵ có h́nh tướng đều là hư dối).

Sắc thân của Phật,do bốn đại hoà hợp giả tạo ra thân tướng, nên thân tướng của Phật cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là thân Phật.

Rồi từ trên thân tướng, do bốn đại giả tạo, lại sanh ra nhiều tướng, những tướng ấy cũng hư vọng không thật, chỉ giả gọi là 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp.

Đến lúc hoàn thành nhiệm vụ độ sanh, Phật thâu thần nhập diệt, xả thân tướng tứ đại để vào cơi Niết bàn, th́ xác thân và 32 tướng tốt, do tứ đại giả hợp của Phật cũng thao luật "sanh, trụ, dị, diệt" mà biến đổi. Lúc bấy giờ không c̣n cái ǵ để gọi là sắc thân và tướng tốt.

Bởi thế nên Phật dạy: "Không phải sắc thân, chỉ giả gọi sắc thân; không phải tướng tốt, chỉ giả gọi là tướng tốt". V́ thế nên ông Tu Bồ Đề thưa: "Không thể cho thấy sắc thân hay thấy tướng tốt của Phật mà cho là thấy được Phật".

***

54. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP"[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai có thuyết pháp". Tại sao vậy? Nếu người nào không hiểu lời của Phật dạy, lại nói rằng: "Như Lai có thuyết pháp", th́ người ấy khinh báng Phật".

Tu Bồ Đề ! Như Lai nói: "Thuyết pháp, tức là không có pháp ǵ có thể nói được, mới gọi là thuyết pháp".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhă phá trừ cái chấp "Như Lai có thuyết pháp". Đây là lần thứ 3, Phật phá cái chấp về "Như Lai có thuyết pháp" (lần thứ nhứt ở đoạn 11 và 23)

Nếu người nào chấp: "Phật có thuyết pháp", th́ người đó c̣n chấp ngă (Phật) và chấp pháp (thuyết pháp). Đem tâm vọng chấp ngă pháp cuả phàm phu mà suy nghĩ luận bàn đến chánh pháp của Phật, th́ chánh pháp của Phật, trở thành vọng chấp của phàm phu. Ngài Xuyên Thiền sư nói: "Tà nhơn thuyết chánh pháp, chánh pháp tức qui tà" (người tà nói pháp chánh, pháp chánh trở thành tà). Bởi thế nên Phật nói: "người đó khinh báng Phật ". V́ họ không nhập được "lư Kim Cang Bát Nhă", nên Phật nói: "Họ không hiểu được lời của Phật dạy".

Đức Lăo Tử nói: "Đạo mà có thể nói được, th́ không phải thật là Đạo (Đạo khả đạo, phi thường đạo)". Cũng đồng một ư này, Đức Phật dạy: "Không có pháp ǵ có thể nói được, mới gọi là thuyết pháp".

Phật nói bài kệ như sau:

Nguyên văn (diịch âm):

Thị tùng thành đạo hậu

Chung chí Bạt đề hà

Ư thị nhị trung gian

Vị thường thuyết nhứt tự

Dịch nghĩa:

Từ khi mới thành đạo

Đến lúc nhập Niết bàn

Trong khoảng thời gian ấy

Ta không nói một chữ.

ĐẠI Ư BÀI KỆ

Bài kệ này, nói về lư kinh Bát Nhă. Cổ nhơn dạy: "vô thuyết vô văn chơn Bát Nhă", (không nói Bát Nhă và không nghe Bát Nhă, mới thật là nói Bát Nhă và nghe Bát Nhă), (xin độc giả xem lại đoạn giải 11 và 23).

***

55. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THẬT CÓ CHÚNG SANH"[^]

Khi đó, ông Tu Bồ Đề thưa Phật: "Bạch Thế Tôn ! Đời sau, nếu có chúng sanh nào nghe đến kinh Bát Nhă, không biết họ có thể tin được không?". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Chúng kia, không phải chúng sanh, cũng không phải phi chúng sanh. Tại sao vậy? Như Lai nói chúng sanh, thật không phải chúng sanh, chỉ giả gọi là chúng sanh".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhă phá cái chấp "thật có chúng sanh". Trong tánh Bát Nhă chơn không th́ ngă và pháp đều không, bốn tướng chẳng c̣n.

Bốn tướng đă không, ngă chấp chẳng c̣n, th́ đâu có ǵ là chúng sanh hay phi chúng sanh. Đă không phải chúng sanh hay phi chúng sanh, th́ có ǵ là tin hay không tin. Đúng theo tinh thần kinh Bát Nhă, nếu c̣n phân biệt vọng chấp, th́ không phải là thật. Bởi thế nên Phật dạy tiếp: "Như Lai nói chúng sanh, không phải thật chúng sanh, chỉ giả gọi là chúng sanh".

Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, để tóm tắt lại đoạn này, như sau:

 

Nguyên văn (dịch âm):

Chúng sanh dữ thọ giả

Uẩn thượng lập hư danh

Như qui mao bất thật

Tợ thố giác vô h́nh

Dịch nghĩa:

Ngă, nhơn, chúng sanh và thọ giả

Trên năm uẩn chỉ có giả danh

Như lông rùa không có thậ thể

Tợ như sừng thỏ chẳng có h́nh.

ĐẠI Ư BÀI TỤNG

Tất cả các pháp trên năm uẩn như ngă, nhơn, chúng sanh và thọ giả v.v...đều không thật có, như lông rùa, sừng thỏ, chỉ có giả sanh mà thôi.

 


[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]