[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]


KHOÁ XII: KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giải

Bài Thứ 9 

PHẦN CHÁNH TÔN

 

 

56. Phật phá cái chấp "Như Lai đặng đạo quả vô thượng Bồ Đề"

57. Pháp này b́nh đẳng không có thấp cao

58. Phật nói công đức của người thọ tŕ kinh này không thể nghĩ bàn

59. Phật phá cái chấp "Như Lai có độ chúng sanh".

60. Thấy 32 tướng tốt của Phật chưa phải là thấy được Phật .

61. Phật nói bài kệ, phá cái chấp "thấy Phật bằng sắc tướng, nghe Phật bằng âm thanh".

62. Phật phá cái chấp "không" (tức là chấp đoạn diệt)

63. Người ngộ "tất cả các pháp không thật", phước đức nhiều hơn người bố thí vô số bảy báu

56. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI ĐẶNG ĐẠO QUẢ VÔ THƯỢNG BỔ ĐỀ"[^]

Ông Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch Thế tôn ! Như Lai có chứng đặng đạo quả Vô thượng Bồ Đề không? Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai không có một tí ǵ gọi là đặng đạo quă Vô thượng Bồ Đề".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhă phá trừ cái chấp "Phật có đặng Đạo quả Bồ Đề". Đây là lần thứ 4 (lần thứ nhứt, hai và ba ở đoạn 15, 36, và 46).

Trong Duy thức Tam thập tụng có chép: " Nếu hành giả hiện tiền c̣n phần nào thấy ḿnh có chứng Duy thức tánh, th́ chưa phải thật chứng Duy thức tánh, v́ c̣n chấp "có sở đắc" vậy".

Đồng một ư với đoạn kinh này, nếu c̣n chấp "ḿnh đặng đạo quả Vô thượng Bồ Đề", tức là c̣n bốn tướng: ngă, nhơn, chúng sanh và thọ giả th́ không phải thật chứng đạo vô thượng Bồ Đề.

Hành giả phải ngộ nhập Kim Cang Bát Nhă, xa ĺa các vọng chấp, không c̣n thấy ḿnh chứng (không ngă) và đạo quả Bồ Đề để chứng (không pháp) th́ mới thật là chứng đạo vô thượng Bồ Đề. Bởi thế nên Phật dạy: "Như Lai không có một tí ǵ gọi là đặng đạo vô thượng Bồ Đề".

***

57. PHÁP NÀY B̀NH ĐẲNG KHÔNG CÓ CAO THẤP[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Pháp này b́nh đẳng không có cao thấp, không ngă, không nhơn, không chúng sanh và không thọ giả, tạm gọi là đạo vô thượng Bồ Đề.

Tu Bồ Đề ! Do tu tất cả pháp lành mà đặng đạo vô thượng Bồ Đề, Như Lai nói pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật nói "pháp này b́nh đẳng, không có cao thấp", và phá cái chấp "pháp lành".

Hành giả c̣n chấp "ta tu pháp lành" tức là c̣n chấp ngă (ta tu) chấp pháp (pháp lành). Nếu đem tâm chấp ngă chấp pháp mà tu pháp lành, th́ pháp lành ấy thuộc về hữu vi hữu lậu, không phải là pháp lành cứu cánh.

Hành giả phải dùng Trí huệ Kim Cang Bát Nhă, phá trừ các chấp ngă, chấp pháp mà tu các pháp lành, th́ các pháp lành ấy mới hợp với Bát Nhă chơn không, thuộc về vô lậu thanh tịnh, mới phải lá pháp lành rốt ráo. Bởi thế nên Phật dạy: "Như Lai nói các pháp lành, không phải pháp lành, mới gọi là pháp lành".

Hành giả nhập Kim Cang Bát Nhă, phá trừ các vọng chấp mà tu các pháp lành th́ sẽ chứng được đạo vô thượng Bồ Đề. Đạo này không ngă, không nhơn, không chúng sanh, không thọ giả, nên Phật nói: "Pháp này b́nh đẳng, không có cao thấp".

Cổ nhơn có làm một bài tụng, nói về cảnh giới khi ngă và pháp đều hết, như sau:

Nguyên văn (dịch âm):

Vơ tiền chỉ kiến hoa gian điệp

Vơ hậu toàn vô điệp để hoa

Hoa điệp phân phân quá tường khứ

Bất tri xuân sắc lạc thi gia

 

Dịch nghĩa:

Trước mưa chỉ thấy hoa cùng bướm

Mưa rồi chẳng thấy bướm với hoa

Hoa rụng bướm bay qua khỏi vách

Vậy ai đă hưởng thú xuân này

ĐẠI Ư BÀI TỤNG

Đây là lần thứ 13, Phật tán thán công đức không thể nghĩ bàn của người thọ tŕ và truyền bá kinh này.

Bố thí 7 báu tuy quí, nhưng chỉ giúp cho người về vật chất, giàu có sung sướng trong một đời mà thôi. Phước đức tuy nhiều, nhưng thuộc về hữu vi hữu lậu.

Người thọ tŕ hay giảng dạy kinh Kim Cang Bát Nhă, sẽ được lợi ích về phần tinh thần, ḿnh và người đều sẽ tỏ ngộ lư Bát Nhă và sẽ thành Phật, rồi tự độ và độ tha, lợi ích muôn đời, nên mặc dù thọ tŕ rất ít, nhưng phước đức vẫn nhiều hơn người trước. Phước này thuộc về vô lậu thanh tịnh, nên không thể tính lường hay thí dụ được.

***

59. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ ĐỘ CHÚNG SANH"[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Ông chớ lầm tưởng: Như Lai nghĩ rằng: "Ta độ chúng sanh". Tại sao vậy? Nếu Như Lai có nghĩ: "Ta độ chúng sanh", th́ Như Lai c̣n chấp bốn tướng: ngă, nhơn, chúng sanh và thọ giả, tức nhiên không phải Như Lai. Bởi thế nên, Như Lai thật không có độ chúng sanh nào cả.

Tu Bồ Đề ! Như Lai nói "ta", thật ra không có "ta"; nhưng chúng phàm phu lại chấo có ta. Tu Bồ Đề ! Như Lai nói phàm phu, không phải phàm phu, chỉ giả gọi là phàm phu".
 
LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá cái chấp "Phật có độ chúng sanh".

Nếu c̣n thấy "ta độ chúng", tức là c̣n vọng chấp ngă (ta) nhơn (chúng sanh) th́ không nhập được Kim Cang Bát Nhă, nên không phải là Phật .

V́ Như Lai đă nhập Kim Cang Bát Nhă, không c̣n các vọng chấp ngă, nhơn, v.v...nên Như Lai không thấy "thật có độ sanh".

V́ phá trừ nghi vấn: Phật đă không chấp bốn tướng, tai sao c̣n nói "ta"? nên Phật dạy tiếp: "Như Lai nói "ta", nhưng thật ra không có cái "ta", do chúng phàm phu vọng chấp là ta".

Nói đến phàm phu, sợ chúng sanh chấp "thật có phàm phu", nên Phật liền phá: "Như Lai nói phàm phu, không phải thật phàm phu, chỉ gizả gọi là phàm phu".

60. THẤY 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT CHƯA PHẢI LÀ THẤY ĐƯỢC PHẬT[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của ta đây, là thấy được Phật không?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Đúng như vậy, thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật". Phật dạy: "Ông hiểu lầm rồi ! nếu thấy 32 tướng tốt của ta đây, mà cho là thấy được Phật, th́ Vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như ta, vậy vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?".

Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Con hiểu ư Phật rồi, không thể cho thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật".

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá cái chấp: "thấy sắc thân của Phật là thấy được Phật". Đây là lần thứ 4 (lần 1, 2, 3 ở đoạn 7, 25, 3) nói về viễc thấy Phật .

Muốn rơ thêm đoạn này, tôi xin nhắc lại một lần nữa:

Thuở xưa, có hai vị Tỳ kheo, từ phương xa đến yết kiến Phật. Đi nữa đường, một vị v́ sợ phạm giới, không uống nước có sinh trùng, nên bị khát chết. Một vị kia nhờ uống nước được sống, đến yết kiến Phật.

Phật quở: "Ông Tỳ kheo kia giữ giới, không uống nước tuy chết, nhưng ông đă thấy ta trước rồi. C̣n ông không giữ giới, tuy sống đến yết kiến ta, nhưng ông lại cách ta ngàn dặm !".

Vậy th́, thấy Phật là thấy cái ǵ? Không thể cho thấy sắc thân có 32 tướng tốt của Phật, mà cho là thấy được Phật. Bởi thế nên Phật nói: "Nếu thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy đượ Phật, th́ vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như Phật, vậy th́ vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?".

Tóm lại, theo tinh thần Bát Nhă, phải xa ĺa tất cả các vô minh vọng chấp, th́ chơn tâm hay Phật tánh mói hiện. Đó mới là thật thấy Phật.

Ngộ được nghĩa lư uyên thâm của đoạn này, nên Cổ nhơn có làm bài tụng như sau:

Nguyên văn (dịch âm)

Phật tức tâm hề tâm tức Phật

Tâm Phật tùng lai giai vọng vật

Nhược tri vô Phật phục vô tâm

Thỉ thị chơn như pháp thân Phật

Dịch nghĩa:

Phật tức là tâm, tâm tức Phật

Tâm Phật cả hai đều vọng vật

Người ngộ vô tâm và vô Phật

Liền chứn chơn như pháp thân Phật

ĐẠI Ư BÀI TỤNG

Phật tức tậm, tâm tức Phật. Tâm và Phật chỉ là hai danh từ để gọi mà thôi, chớ không có cái ǵ chơn thật. Nếu người diệt trừ các vô minh vọng chấp, ngộ được lư Phật và tâm đều không, th́ người ấy sẽ chứmng đặng chơn như hay Pháp thân Phật.

***

61.PHẬT NÓI BÀI KỆ PHÁ CÁI CHẤP "THẤY PHẬT BẰNG SẮC TƯỚNG, NGHE PHẬT BẰNG ÂM THANH"[^]

Khi đó, đức Thế Tôn nói tiếp bài kệ rằng:

Nếu thấy ta bằng sắc tướng

Nghe ta bằng âm thanh

Người này đi đường tà

Không thấy được Như Lai.

LƯỢC GIẢI

Bài kệ này tóm lại đoạn trên, Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá cái chấp "thấy Phật qua sắ tướng của Phật " và "nghe Phật qua âm thanh của Phật ".

Đoạn trên đă giải nếu chấp sắc thân có 32 tướng tốt của Phật là Phật, th́ vua Chyển Luân Thánh Vương cũng có đủ 32 tướng tốt như Phật, vậy vua Chuyển Luân Thánh Vương cũng là Phật hay sao?

Nếu chấp tiếng nói thanh thao vi diệu của Phật là tiếng Phật, th́ tiếng chim Ca Lăng Tần Già, cũng thanh thao vi diệu như tiếp Phật, vậy tiếng chim Ca Lăng Tần Già cũng là tiếng Phật hay sao?

Tóm lại, phải phá trừ các vô minh vọng chấp, nhập Kim Cang Bát Nhă, mới thật thấy và nghe được Phật. Trái lại, nếu c̣n vô minh vọng chấp, chấp sắc tướng hay âm thanh của Phật, không nhập được Kim Cang Bát Nhă, th́ không bao giờ thấy được Phật. Bởi thế nên Phật quở: "Người này đi đường tà (vọng), không bao giờ thấy được Như Lai".

62. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "KHÔNG" (TỨC LÀ CHẤP ĐOẠN DIỆT)[^]

Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Ông chớ nên nghĩ rằng: "Như Lai không thừa nhận thân tướng ,tốt đẹp này là thân Phật". Tại sao vậy? _ Nếu người phát tâm Bồ Đề mà nghĩ như vậy, th́ mắc về cái chấp "đoạn diệt". Tu Bồ Đề ! Người phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp, không nên chấp "đoạn diệt" (chấp không).

LƯỢC GIẢI

Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá cái chấp "sắc thân đủ 32 tướng tốt của Phật không phải là Phật".

Đúng theo tinh thần kinh Bát Nhă, th́ phá hết các chấp: ngă, pháp hữu, vô v.v...lúc bấy giờ chơn tâm, Phật tánh hay Bát Nhă v.v...mới hiện.

Bởi thế nên "chấp sắc thân đầy đủ tướng tốt của Phật là Phật", đă bị Phật quở là "lạc vào đường tà, không thấy được Phật"; mà "chấp sắc thân đầy đủ tướng tốt của Phật, không phải là Phật", cũng bị Phật quở là "chấp đoạn diệt" nghĩa là "chấp không", thuộc về "đoạn kiến ngoại đạo".

Chấp "có" (chấp thường) chấp "không"(chấp đoạn) cũng đều là vọng chấp cả, không thể chứng đặng Đạo Bồ Đề. Bởi thế nên Phật dạy: "Người phát tâm Bồ Đề, đối với các pháp, không nên chấp đoạn diệt".

Kinh chép:

Nhược nhơn dục thức Phật cảnh giới

Đương tịnh kỳ ư như hư không

Dịch nghĩa:

Nếu người muốn biết cảnh giới Phật

Tâm phải thanh tịnh như hư không

ĐẠI Ư

Người muốn nhập cảnh giới Phật hay chứng đạo Bồ Đề, th́ phải xa ĺa các vọng chấp: có, không, đoạn, thường v.v...giữ tâm ư thanh tịnh như hư không

***

63. NGƯỜI NGỘ "TẤT CẢ CÁC PHÁP KHÔNG THẬT", PHƯỚC ĐỨC NHIỀU HƠN NGƯỜI BỐ THÍ VÔ SỐ BẢY BÁU[^]

Phật day: "Tu Bồ Đề ! Nếu các vị Bồ Tát dùng 7 món báu, đựng đầy trong hằng sa thế giới, đem bố thí; và có vị Bồ Tát ngộ "tất cả pháp không thật" (nhứt thế pháp vô ngă) và chứng đặng "pháp không" (pháp nhẫn) th́ công đức của vị Bồ Tát sau này, nhiều hơn vị Bồ Tát trước. Tại sao vậy? V́ vị Bồ Tát sau này không lănh thọ phước đức".

Tu Bồ Đề bạch Phật: "Bạch Thế tôn ! Tại sao Bồ Tát không lăng thọ phước đức". Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Bồ Tát làm các việc phước đức, nhưng không tham trước, nên nói Bồ Tát không lănh thọ phước đức

LƯỢC GIẢI

Đoạn này có Bồ Tát nhập Kim Cang Bát Nhă chứng được "các pháp vô ngă" (vô sanh pháp nhẫn) nên làm các việc phước đức, mà không tham trước, không mong cầu về ḿnh, không chấp tướng phước đức, nên phước đức nhiều hơn vị Bồ Tát bố thí bảy món báu đựng đầy trong hằng sa thế giới.

Người đem tâm vọng chấp ngă, pháp của phàm phu, mà làm các việc phước đức, dù phước đức ấy có nhiều đến dâu, cũng thuộc về hữu vi hữu lậu của thế gian phàm phu mà thôi.

Trái lại, nếu người đem tâm thanh tịnh, không chấp ngă, chấp pháp, hợp với tánh Bát Nhă chơn không, mà l;àm việc phước đức, không tham cầu phước đức riêng về phần ḿnh, th́ người này mặc dù làm rất ít, mà phước đức nhiều vô tận; v́ phước đức này thuộc về vô lậu thanh tịnh.

Giải thích đoạn này. Ngài Trí Giả Đại sư làm bài tụng:

Nguyên văn (dịch âm)

Tam thiên đại thế giới

Thất bảo măn kỳ chung

Hữu nhơn tŕ bố thí

Đắc phước giả như phong

Du thắng xan tham giả

Vị đắc đạt chơ tông

Chung tu tứ cú kệ

Tri giác chứng toàn không

Dịch nghĩa:

Cả đại thiên thế giới

Đựng đầy bảy món báu

Bố thí để cầu phước

Đặng phước cũng như gió

C̣n hơn người bỏn xẻn

Chưa hiểu nghĩa chơn thật

Tŕ tụng bốn câu kệ

Mới ngộ được lư không

ĐẠI Ư BÀI TỤNG

Người đem bảy báuđựng đầy một ngh́n triệu thế giới nhỏ, để bố thí, được phước đức tuy nhiều, nhưng không lâu dài, như gió thổi qua; không bằng người tỏ ngộ lư chơn không của kinh Bát Nhă, sẽ đặng phước vô lậu thanh tịnh.

GIẢI DANH TỪ

"PHÁP KHÔNG" (hay PHÁP NHẪN): bản thề chơn như thanh tịnh; nhưng v́ mây ngă pháp che mờ. Hành giả tu hành phá trừ được ngă chấp (ngă không) th́ một phần chơn như hiện ra, nên gọi là "ngă không chơn như"; phá trừ pháp chấp (pháp không) th́ một phần nữa chơn như hiện ra, nên gọi là "pháp không chơn như".

Chứng được lư ngă không (sanh không) và pháp không, th́ gọi là "nhị không chơn như" tức là đặng "vô sanh pháp nhẫn", (chứng đặng ngă pháp đều không).


[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]

[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][  X,XI ][ XII ]

[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]