[Trang chủ] [Kinh sách] [Unicode]
[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][ X,XI ][ XII ]
[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]
KHOÁ XII: KINH KIM CANG
Dịch nghĩa và lược giảiBài Thứ 5
PHẦN CHÁNH TÔN
19. Thọ tŕ kinh này phước đức vô lượng
20. Công đức của kinh Kim Cang Bát Nhă
21. Ông Tu Bồ Đề hỏi Phật tên kinh
22. Phật phá cái chấp "kinh Kim Cang Bát Nhă"
23. Phật phá cái chấp "Như Lai có thuyết pháp"
24. Phật phá cái chấp "thật có vi trần và thế giới
25. Phật phá cái chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy Phật"
19. THỌ TR̀ KINH NÀY PHƯỚC ĐỨC VÔ LƯỢNG [^]
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Như trong sông hằng, có vô số cát, rồi lấy mổi một hạt cát, lại du cho một sông hằng. Vậy những số cát trong vô số sông Hằng đó, có nhiều không?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm. Nếu chỉ tính nhũng sông hằng mà thôi, hăy c̣n nhiều vô số, huống chi là tính tất cả số cát, trong vô số sông Hằng".
Phật hỏi tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu có chúng sanh nào dùng 7 món báu, đựng đầy trong nhiều Đại Thế giới (một ngh́n triệu thế giới nhỏ) d8ể đem bố thí; số đại thế giới này cũng nhiều như số cát trong vô số sông Hằng, th́ chúng sanh đó phước đức nhiều khôn?".
Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Nhiều lắm".
Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! ta nay thành Phật bảo ông: Nếu có người thọ tŕ đọc tụng hay giảng kinh này hoặc trọn quyển hay nữa quyển, cho đến tối thiểu, chừng bốn câu kệ, th́ phước đức của người này nhiều hơn người trước".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật nói công đức người thọ tŕ hoặc giảng dạy kinh này (thí pháp) nhiều hơn công đức người bố thí thấ bửu (thí tài) đựng đầy trong vô số Đại thế giới, nhiều như số cát trong vô số sông Hằng. Đây là lần thứ ba, Phật tán thán về công đức thọ tŕ kinh.
Ngọc ngà châu báu, không ai có nhiều được. Nhưng nếu có người, có nhiều châu báu, đựng đầy trrong vô số đại thế giới, đem bố thí, th́ phước đức người này không thể nghĩ bàn.
Nhưng nếu có người thọ tŕ hay giảng kinh này, hoặc trọn quyển hay nữa quyển, hoặc tối thiểu là bốn câu kệ, th́ công đức của người sau nhiều hơn người trước.
V́ bố thí về châu báu, dầu nhiều đến đâu, cũng chỉ giúp cho người về phương diện vật chất, giàu sang, sung sướng nhứt thời mà thôi, chứ không thể đem hạnh phúc vĩnh viễn cho người được.
C̣n người thọ tŕ hoặc giảng dạy kinh này, tuy ít và dễ làm, nhưng thuộc về pháp thí, giúp cho người về phương diện tinh thần, có ảnh hưởng sâu rộmng hơn. Ḿnh và người được trồng hạt giống Bát Nhă, một ngày sau, không sớm th́ chầy, thế nào cũng được nứt mộng nẩy chồi, đơm bông kết quả, sẽ được thành Phật, rồi hoá độ vô số chúng sanh cũng sẽ thành Phật. Bởi v́ người tŕ kinh và bố thí pháp, thuộc về phước vô lậu thanh tịnh, nên phước đức nhiều hơn người bố thí vật chất.
Tóm tắt đoạn này, Ngài Phó Đại sĩ có làm bài tụng như sau:
Nguyên văn (dịch âm):
Bảo măn tam thiên giới
Tê tŕ tác phước điền
Duy thành hữu lậu nghiệp
Chung bất ly nhơn thiên
Tŕ kinh thủ tứ cú
Dữ Phật tác lương duyên
Dục nhập vô vi hải
Tu thừa Bát Nhă thuyền
Dịch nghĩa:
Đựng báu đầy Đại thiên
Bố thí trồng ruộng phước
Chỉ thành nghiệp hữu lậu
Hưởng phước cơi nhơn thiên
Tŕ tụng bốn câu kệ
Tạo duyên lành với Phật
Muốn vào biển vô vi
Phải nương thuyền Bát Nhă.
ĐẠI Ư
Bài tụng này nói, của báu đựng đầy Đại thế giới (một ngh́n triệu thế giới nhỏ) đem bố thí làm phước, hành giả chỉ hưởng phước hữu lậu của cơi nhơn thiên. Không bằng người tŕ tụng bốn câu kệ, để gieo duyên lành với Phật, đặng nương nhờ thuyền Bát Nhă, dạo chơi biển vô vi, hưởng phước vui vĩnh viễn.
GIẢI DANH TỪ
Sông Hằng:Tên một con sông bên Ấn Độ. Dài rộng và rất hiều cát. Mỗi khi Phật thuyết pháp, muốn chỉ cái ǵ nhiều klhông thể tính được, th́ Phật thí dụ "Như số cát sông Hằng (Hằng hà sa số)
Đại thế giới:Nguyên văn chữ hán là "Tam thiên đại thế giới", gọi tắt là "Đại thế giới".
Nhơn lên 3 lần ngàn, là một đại thế giới. Nghĩa là năm châu thế giới của chúng ta ở đây là một thế giới nhỏ; nhơn lên 1000 thế giới nhỏ, gọi là "Tiểu thiên thế giới", nhơn lên 1000 tiểu thiên thế giới, gọi là "Trung thiên thế giới"; nhơn lên 1000 trung thiên thế giới, gọi là "Đại thiên thế giới"; tức là một ngh́n triệu thế giới nhỏ, gọi là một "Đại thiên thế giới". Ngoài Thế giới Ta bà là "một Đại thiên thế giới". Ngoài thế giới Ta bà c̣n hằng hà sa số Đại thiên thế giới.
***
20. CÔNG ĐỨC CỦA KINH KIM CANG BÁT NHĂ [^]
Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Những chỗ được giảng kinh này, hoặc trọn bộ hay nữa quyển, cho đến tối thiểu là bốn câu kệ, th́ chỗ đó cũng được chư thiên, người và thánh thần đến cúng dường và đều kinh trọng như chỗ chùa tháp của Phật".
Phật dạy tiếp: "Tu Bồ Đề ! Nếu chỗ nào thờ kinh này, th́ chỗ đó có Phật và có các vị đệ tử tôn qui của Phật. Bởi thế nên người chí thành thọ tŕ đọc tụng kinh này, người ấy sẽ thành tựu Trí huệ Kim Cang Bát Nhă".
LƯỢC GIẢI
Đạon này tiếp theo đoạn trên, nói về công đức qui báu của kinh và khuyên người thọ tŕ kinh này. Đây là lần thứ tư.
Đoạn trước (đoạn 13) Phật dạy: " ...tất cả Phật và pháp đều từ kinh này mà ra". Bởi thế nên chỗ giảng kinh này và chỗ thờ kinh này, th́ chỗ đó như chùa Phật hay tháp Phật, có Phật, có đệ tử tôn quí của Phật; thánh, thần, trời, người đều kinh trọng và cúng dường.
V́ kinh này rất quư bau như vậy, nên người chí thành thọ tŕ kinh này sẽ được Trí huệ Phật (Kim Cang Bát Nhă).
***
21. ÔNG Tu Bồ Đề HỎI PHẬT VỀ TÊN KINH [^]
Lúc bấy giờ ông Tu Bồ Đề hỏi Phật: "Bạch Thế Tôn ! Kinh này tên ǵ? Và tại sao chúng con phải phụng tŕ".
Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Kinh này tên là "KIM CANG BÁT NHĂ Ba la mật"; V́ thế nên các ông phải phụng tŕ".
LƯỢC GIẢI
Đến đây, ông Tu Bồ Đề thỉnh Phật xác định tên kinh và giải thích, tại sao phải phụng tŕ? Phật trả lời: Kinh này tên "Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật" (nghĩa đă giải ở đề mục kinh). V́ "Kim Cang Bát Nhă", nên các ông phải phụng tŕ.
***
22. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP VỀ KINH "KIM CANG BÁT NHĂ BA LA MẬT" [^]
Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói Bát Nhă Ba La Mật, tức là không phải Bát Bát Nhă Ba La Mật, thế mới gọi là Bát Nhă Ba La Mật".
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá trừ cái chấp về kinh "Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật". Nếu hành giả c̣n vọng chấp "có kinh Bát Nhă và có ta phụng tŕ", tức là hành giả c̣n chấp ngă (ta phụng tŕ) và chấp pháp (kinh Bát Nhă) th́ không phải là kinh Bát Nhă và thọ tŕ Bát Nhă. Phải dẹp trừ hết các vọng chấp ngă, pháp v.v...mới phải thọ tŕ kinh Bát Nhă.
Bởi thế nên, Phật vừa nói ra tên kinh, sợ chúng sanh chấp tên kinh, nên Phậtliền phá chấp: "Như Lai nói Bát Nhă Ba La Mật, không phải Bát Nhă Ba La Mật, thế mới thật là Bát Nhă Ba La Mật".
23. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "NHƯ LAI CÓ THUYẾT PHÁP" [^]
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Như Lai có thuyết pháp không?". Tu Bồ Đề thưa: "Bạch Thế Tôn ! Như Lai không có thuyết pháp".
LƯỢC GIẢI
Đây là lần thứ hai, Phật phá cái chấp:" Như Lai có thuyết pháp" (lần thứ nhứt ở đoạn 11).
Tiếp theo đoạn trên, ông Tu Bồ Đề hỏi kinh này tên ǵ? _ Phật nói kinh này tên là "Kim Cang Bát Nhă Ba la mật". Sợ người chấp:"Như thế Phật co nói pháp Bát Nhă", nên tiếp đến đoạn nầy, Phật phá luôn cái chấp:"Phật có thuyết pháp.
Nếu hành giả c̣n vọng chấp:"Phật có thuyết pháp", th́ không nhập được "Kim Cang Bát Nhă". V́ ông Tu Bồ Đề đă nhập được lư "Kim Cang Bát Nhă", nên ông trả lời:"Như Lai không có thuyết pháp".
Muốn cho độc giả rơ thêm đoạn nầy, tôi xin nhắc lại lời giải thích ở đoạn trước thêm một lần nữa:Một hôm ông Tu Bồ Đề ngồi yên tịnh dưới gốc cây. Trời Đế Thích rưới hoa cúng dường. Ông Tu Bồ Đề hỏi:"Ai rưới hoa?". _ Trời Đế Thích thưa:"Ngài thuyết kinh Bát Nhă hay quá ! Con xin dâng hoa cúng dường".
Ông Tu Bồ Đề nói:"Tôi không nói kinh Bát Nhă". Trời Đế Thích thưa:"Ngài không nói Bát Nhă, con không nghe Bát Nhă".
Kết luận:"Không nói Bát Nhă và không nghe Bát Nhă", như thế mới thật là "nói Bát Nhă và nghe Bát Nhă".
V́ ngộ được lư chơn không của kinh Bát Nhă, nên ngài Viên Ngộ Thiền sư có làm bài kệ rằng:
Nguyên văn (dịch âm)
Thập phương đồng tụ hội
Cá cá học vô vi
Thử thị tuyển Phật trường
Tâm không cập đệ qui.
Dịch nghĩa:
Mười phương đồng tụ hội
Người người học vô vi
Đây là trường thi Phật
"Tâm Không" mới được đậu.
ĐẠI Ư
Bài kệ này quan trọng nhứt là hai chữ "Tâm không". Nếu người nào tâm không c̣n các phiền năo vọng chấp ngă, pháp v.v...th́ người đó nhập được Kim Cang Bát Nhă, tức là đậu quả Phật.
***
24. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP "THẬT CÓ VI TRẦN VÀ THẾ GIỚI" [^]
phật hỏi:" Tu Bồ Đề ! Những vi trần chứa trong đại thế giới (1 ngh́n triệu thế giới nhỏ) có nhiều không? ".Tu Bồ Đề thưa:" Bạch thế tôn nhiều lắm".
Phật dạy: "Tu Bồ Đề ! Như Lai nói các vi trần, không phải thật vi trần. Như Lai nói thế giới, không phải thật thế giới, chỉ tạm gọi là thế giới:.
LƯỢC GIẢI
Đoạn này Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá trừ cái chấp "thật có vi trần và thật có thế giới".
Phật đă day: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng"; nghĩa là: phàm cái ǵ có h́nh tướng, đều là hư dối không thật. Tất cả muôn vật trong vũ trụ, lớn như thế giới, nhỏ như vi trần, cũng đều là hư giả không thật.
Do hiệp nhiều vi trần (bụi nhỏ) thành ra một vật lớn nhứt, rồi tạm đặt tên là thế giới.
Trái lại, do vật lớn nhứt như thế giới, chẻ cho đến thật nhỏ, không c̣n chẻ được nữa, rồi tạm đặt tên là vi trần (bụi nhỏ). Vật thế giới hay vi trần, cùng các vật khác, đều do vọng thức của chúng sanh, phân biệt so đo (kể đạt phân biệt) rồi đặt tên như thế này hay như thế khác, chứ không có thật thể.
Trong bộ Cu xá luận tung lược thích, về trang 210, có chépvề vi trần và thế giới, đại ư như sau: Từ vật lớn nhứt là thế giới, rồi chẻ nhỏ thế giới ra nhiều lần, cho đến thành hột bụi bay qua lại các kẻ hở (như mỗi buổi sáng, mặt trời chiếu vào các kẻ hở, chúng ta thấy rất nhiều bụi bay qua bay lại). Các thứ bụi nàygọi tên là:
1. Khích du trần: Bụi bay qua các kẻ hở.
2. Ngưu mao đầu trần: Hạt bụi nhỏ ở trên đầu lông con trâu. Bụi này do chẻ nhỏ bụi "khích du" mà thành.
3. Dương mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con dê. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành.
4. Thố mao đầu trần: Hạt bụi ở trên đầu lông con thỏ. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Ngưu mao đầu" mà thành.
5. Thuỷ trần: Bụi rớt trong nước không ướt, v́ quá nhỏ. Thứ bụi này do chẻ nhỏ bụi "Thố mao đầu" mà thành.
6. Kim trần: Bụi này có thể lọt qua những vàng khối hay sắt dầy hoặc kiếng dầy; do chẻ nhỏ bụi "Thủy trần" mà thành.
7. Vi trần: Bụi nhỏ; do chẻ nhỏ bụi "Kim trần" mà thành.
8. Cực vi trần: Bụi rất nhỏ. Hạt bụi này do chẻ nhỏ bụi "Vi trần" mà thành.
9. Lân hư trần: Bụi gần mé hư không. Thứ bụi này nhỏ nhứt, không thể chẻ nhỏ nữa được, nếu chẻ nữa th́ thành hư không. Bụi này do chẻ bụi "Cực vi" mà thành.
Rồi trở lại, từ vọng tâm nhỏ như "Lân hư trần"
Tích tụ 7 Lân hư trần thành một "Cực vi trần"
....7 cực vi trần thành một "Vi trần"
....7 Vi trần thành một "Kim trần"
....7 Kim trần thành một "Thuỷ trần"
....7 Thuỷ trần thành một "Thố mao đầu trần"
....7 Thố mao đầu trần thành một "Dương mao đầu trần"
....7 Dương mao đầu trần thành một "Ngưu mao đầu trần"
....7 Ngưu mao đầu trần thành một "Khích du trần"
Cứ tích tụ măi măi như vậy, thành những vật nhỏ, đến vật lớn, cho đến vật lớn nhứt là "thế giới".
Tóm lại, chứa nhiều vi trần thành thế giới; chẻ nhỏ thế giới thành ra vi trần. V́ trần và thế giới đều do sự đối đăi lớn với nhỏ, mà đặt ra cái tên để kêu gọi, chớ không có cái ǵ là chơn thật.
Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói về vi trần và thế giới.
Nguyên văn (dịch âm):
Tích trần thành thế giới
Chiết giới tác vi trần
Giới dụ nhơn thiên quả
Trần vi hữu lậu nhơn
Trần nhơn, nhơn bất thật
Giới quả, quả phi nhơn
Quả nhơn tri thị quyển
Tiêu diêu tự tại nhơn
Vọng kế nhơn thành chấp
Mê thằng vị thị xà
Tâm nghi sanh ám quỉ
Nhăn bịnh kiến không hoa
Nhứt cảnh tuy vô dị
Tam nhơn năi kiến sai
Liễu tư danh bất thật
Trường ngự bạch ngưu xa.
Dịch nghĩa:
Chứa trần thành thế giới
Chẻ giới hoá vi trần
Giới dụ quả nhơn thiên
Trần là nhơn hữu lậu
Trần nhơn, nhơn không thật
Giới quả, quả chẳng chơn
Biết quả, nhơn đều huyễn
Được tự tại tiêu diêu
Vọng thấy dây thành rắn
Chấp mê bởi tại tâm
Tâm sợ nên ma hiện
Mắt nhậm thấy đốn hoa
Một cảnh không sai khác
Ba người thấy chẳng đồng
Ai biết đó là huyễn
Tức là bực Đại giác.
ĐẠI Ư HAI BÀI TỤNG
Bài tụng thứ nhứt nói: chứa vi trần thành thế giới, chẻ thế giới thành vi trần. Thế giới là dụ cho quả nhơn thiên, vi trần là dụ cho nhơn hữu lậu. Nhơn vi trần đă không thật, nên quả thế giới cũng hư vọng. Nếu người biết được nhơn quả đều như huyễn, th́ sẽ được tiêu diêu tự tại.
Tiếp đến bài tụng thứ hai, đại ư nói: V́ tánh "Biến kế sở chấp", nên chấp sợi dây là con rắn, ban đêm thấy bóng tối cho là ma; cũng như v́ con mắt bị nhặm, nên thấy có hoa đốm giữa hư không. Cũng một cảnh không sai khác, nhưng ba người (biến kế sở chấp, y tha khởi và viên thành thật) thấy chẳng đồng. Nếu người được giác ngộ như Phật, mới biết đó là giả danh không thật.
***
25. PHẬT PHÁ CÁI CHẤP: "THẤY 32 TƯỚNG TỐT CỦA PHẬT LÀ THẤY PHẬT" [^]
Phật hỏi: "Tu Bồ Đề ! Ông có thể cho thấy 32 tướng tốt của Như Lai là thấy được Như Lai không?".
Tu Bồ Đề thưa: "bạch Thế Tôn ! Không thể được. Tại sao vậy? V́ đức Như Lai nói 32 tướng tốt, chỉ giả gọi 32 tướng tốt".
LƯỢC GIẢI
Đoạn trên (24) Phật dùng Trí huệ Bát Nhă phá chấp về y báo (chấp pháp) là vi trần và thế giới. Đoạn này Phật lại dùng Trí huệ Bát Nhă phá chấp về chánh báo (chấp ngă); nghĩa là chấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật". Đây ;là lần thứ hai (lần thứ nhứt ở đoạn thứ 7) Phật phá chấp về thấy Phật.
Nếu c̣n hấp "thấy 32 tướng tốt của Phật là thấy được Phật", tức là c̣n chấp ngă (ta thấy) chấp nhơn (Phật) v.v...th́ không nhập được Kim Cang Bát Nhă, nên không thấy được Phật thiệt.
Ngài Phó Đại sĩ làm bài tụng, nói về việc phá các vọng chấp ngă, nhơn,năng, sở v.v...
Nguyên văn (dịch âm)
Tảo trừ tâm ư địa
Danh vi Tịnh độ nhơn
Vô luận phước dữ trí
Quang thả ly tham sân
Trang nghiêm tuyệt năng sở
Vô ngă diệc vô nhơn
Đoạn, thường cu bất nhiễm
Tần thoát xuất hồng trần
Dịch nghĩa
Quét sạch đất tâm ư
Đó là nhơn tịnh độ
Không cần tu phước huệ
Miễn bỏ được tham sân
Trang nghiêm không năng sở
Không ngă cũng không nhơn
Đoạn, thường đều chẳng nhiễm
Siêu xuất cơi hồng trần
ĐẠI Ư HAI BÀI TỤNG
Không cần tu phước huệ hay phương pháp nào khác, chỉ quét sạch tham, sân, si v.v...ở trong tâm địa của ḿnh, đó là nhơn để văng sanh về Tịnh độ.
Dẹp trừ cái vọng chấp: năng, sở, nhơn, ngă, đoạn, thường v.v...th́ được siêu thoát cơi hồng trần, đó là trrang nghiêm cơi Phật.
GIẢI DANH TỪ
32 Tướng tốt: Phật có 32 tướng tốt
1. Dưới bàn chân no tṛn
2. Dưới bàn chân có cả ngàn khu ốc
3. tay chân mềm dịu
4. Ngón chân có màn như chân nhạn
5. Ngón tay ngón chân no tṛn
6. Gót xứng với bàn chân
7. bàn chân xứng với gót
8. Hai chân tṛn vót như hai chân nai
9. Tay dài tḥng tới đầu gối
10. Âm tướng qui tàng
11. Chân lộng ửng màu xanh tía
12. Tóc lông đều xoay qua phía mặt
13. Da trơn min không dính dơ
14. Màu da sắc vàng
15. Tay chân vai cổ, bảy chỗ đều đủ
16. Cổ tṛn lạ thường
17. hai cái nách no đủ
18. Dung nghi đoan chánh
19. Thân tướng trang nghiêm
20. H́nh thể xứng nhau
21. Oai dung như sư tử
22. Chói hào quang mỗi phía một lần
23. hàm răng bốn mươi cái khít và bằng
24. Bốn răng cấm trắng và bén
25. Trong miệng có mùi thơm
26. Lưỡi dài che đặng cả cái mặt
27. Tiếng nói diệu dàng đủ giọng
28. Lông nheo như ngưu vương
29. Con mắt có quần đỏ
30. Mặt như trăng tṛn
31. Chổ gian mi có lông trắng
32. Trên đầu lồi thịt lên, như đầu tóc
[Tựa][Phần 1][Phần 2][Phần 3][Phần 4][Phần 5][Phần 6][Phần 7][Phần 8][Phần 9][Phần 10][Phần 11][Phần 12][Phần 13][Mục Lục]
[ I ][ II ][ III ][ IV ][ V ][ VI ][ VII ][ VIII ][ IX ][ X,XI ][ XII ]