[Trang chu] [Kinh sach]

ĐÂU LÀ CHÂN HẠNH PHÚC

[mục lục] [lời đầu sách] [p1] [p2] [p3] [p4] [p5] [p6]


BI VÀ TRÍ

Trong đạo Phật chúng ta thường nghe nói đến trí tuệ và từ bi. Vậy trí tuệ là ǵ, từ bi là ǵ? Người sống như thế nào là sống vớiù trí tuệ và người hành xử như thế nào là người từ bi ?

Đạo Phật là đạo giác ngộ; giác ngộ là thấy đúng lẽ thật. Người thấy đúng lẽ thật không thể thiếu trí tuệ được. V́ vậy mà tất cả chúng ta, nhất là người tu Phật phải lấy trí tuệ làm nền tảng.Ở đây tôi chia trí tuệ ra làm hai loại : Trí thế gian và trí xuất thế gian.Trước hết tôi nói về trí thế gian theo tinh thần Phật pháp. Trí thế gian trong Phật pháp là thấy biết đúng tinh thần nhân qủa. Người tu Phật khi làm việc ǵ phải thấy rơ nguyên nhân và hậu qủa của nó. Người thấy rơ nhân và qủa không lầm là người co trí tuệ. Trong kinh có nói : “Bồ Tát sợ nhân chúng sanh sợ qủa”. Bồ Tát là hữu t́nh giác, một chúng sanh giác ngộ là chúng sanh đó biết sợ nhân ác, chúng sanh mê muội th́ sợ qủa khổ. Cũng sợ vậy, mà hai cái sợ khác nhau, người sợ nhân gọi là giác, người sợ qủa gọi là mê.Trí tuệ của người học đạo tuy là trí thế gian,nhưng cũng là trí tuệ của Bồ Tát. Người biết rơ mỗi hành động mỗi lời nói mỗi ư nghĩ là cái nhân đưa tới đau khổ,th́ tránh không làm không nói và không nghĩ. Đó là người biết sống bằng trí tuệ. Nếu nghĩ nói làm không biết kết qủa ra sao, cứ nói làm càng bướng, khi kết qủa khổ đau đến th́ than khóc, cầu Trời khẩn Phật cứu, đó là cái si mê của chúng sanh. Hiện tại chúng ta sống với trí tuệ hay sống với si mê ?

Tôi đơn cử vài việc rất nhỏ mọn trong đời sống là ăn uống. Mục đích của sự ăn uống là để nuôi dưỡng mạng sống được khỏe mạnh lâu dài. Như vậy, ăn uống là cái nhân, nuôi dưởng mạng sống được khỏe mạnh lâu dài là cái qủa. Nhưng,có người ăn uống những thứ phá hoại mạng sống, vậy người đó là người trí hay người mê ? Chẳng hạn như uống rượu, rưởu làm đau bao tử, zơ gan, viêm phế quản ... mà người ta vẫn cứ uống. Những món ăn không hợp với bệnh, ăn vào là bệnh phát mà người ta vẫn cứ ăn. Khi bệnh phát nặng lo sợ cầu thầy kiếm thuốc, mà cái nhơn gây ra đau bệnh th́ không tránh. Đó là người mê nên gọi là phàm phu thế gian. Người có trí biết cái ǵ ăn vào làm bại hoại mạng sống, làm cho cơ thể đau bệnh th́ không ăn. Món ăn nào giúp cho cơ thể tráng kiện, làm cho mạng sống được lâu dài th́ dùng, đó là người trí. C̣n hút thuố có lợi cho mạng sống hay có hại ? Hút tuốc làm cho nám phổi, ung thư phổi... mà người ta vẫn cứ hút. Á phiện là một loại ma túy làm cho cơ thể con người gầy ốm ốm xanh xao, suy nhược, bại hoại tột đỉnh, vậy mà người ta vẫn cứ hút. Đó là những người si mê đáo để,tự phá hoại thân thể ḿnh một cách vô lư và nguy hiểm. Người si mê vừa vừa th́ phá hoại cơ thể vừa vừa, người si mê ít th́ phá hoại cơ thể ít. Tai họa cuả rượu, của thuốc, cuả á phiện hiện tại các nhà y học đă chứng minh cụ thể và khuyên không nên dùng. Người ta biết hại mà vẫn cứ dùng, thật là đáng thương! Là con người ai cũng có quyền chọn những thực phẩm tốt làm cho cơ thể khỏe mạnh để dùng, c̣n những thứ nào đưa đến bệnh hoạnđau khổ th́ tránh. V́ con ngựi có khỏe mạnh mới vui tươi, đau yếu th́ buồn khổ.

Chúng ta tu Phật là tu theo đạo giác ngộ, những cái ǵ làm cho chúng ta đam mê, say đắm, khi thức tỉnh phải gan dạ bỏ liền. Đó là đă tiến trên đường giác ngộ. Đă tiến trên đường giác ngộ th́ khổ đau ở cỏi đời này tuy chưa hết nhưng cũng đă bớt đi. Ví dụ người ghiền rượu, ghiền thuốc làm mỗi ngày được 50đ, uống rượu 20đ, hút thuốc 10đ,c̣n lại 20đ không đủ tiền ăn cơm nên phải mang nợ. Cả cuộc đời sống trong say sưa thiếu thốn khổ sở vô cùng. Bây giờ biết uống rượu hút thuốc có hại, gan dạ bỏ không dùng nữa. Tiền lương mỗi ngày chỉ dùng cho việc ăn uống th́ vừa đủ, nên thân khỏe mạnh tâm vui vẻ. Đó là người tự tỉnh tự giác bằng trí tuệ thế gian.

Lại có những chén thuốc đắng cay, uống vào không ngon miệng mà người ta lại dùng,v́ họ biết món thuốc đó uống vào th́ hết bệnh, thân thể khỏe mạnh, sống lâu. Đó cũng do con người có trí tuệ thế gian biết giảng nhân nào tốt th́ làm, dù khó làm vẫn cố gắng; nhân nào xấu th́ tránh, không làm dù có hấp dẫn. Người sống như vậy là tu, chớ không phải đi chùa thường, lạy h́ hụt,  khi về nhà cũng rượu thịt say sưa, nói làm sằng bậy, gây khổ cho ḿnh làm khổ lây cho người; đi chùa lạy phật như thế chưa biết tu. Qúi vị cứ sống b́nh thường, mà biết tránh những cái nhân xấu gây đau khổ cho ḿnh, cno gia đ́nh, cho xă hội, đó là tu.

Người có trí tuệ là người có thái độä dứt khoát, biết điều dở, nhất định không làm, dù cho có ai khuyến khích rủ ren. C̣n người b́nh thường phân tích biết điều đó dở mà khi có ai ru cũng chạy theo làm, th́ người này chưa thực có trí, c̣n mơ màng nửa tỉnh nửa mê; gặp người tỉnh th́ tỉnh theo, gặp người mê th́ mê theo. Như vậy, người tu chúng ta phải thực sự tỉnh để tự quyết định việc làm của ḿnh cho chính chắn tốt đẹp.

Về lời nói ngôn ngữ cũng vậy. Có khi nào ḿnh chưởi mắng người mà được người thương mến không ? Chắc chắn là không. Tất cả quí vị hiện có mặt ở đây, có ai muốn cho mọi người ghét ḿnh không ? Chắc chắn là không. Chẳng muốn người ghét , th́ những lời hung ác chê bai chỉ trích... nên nói hay nên dừng ? Nên dừng.V́ những lời đó làm cho ngựi nghe khó chịu, họ sẽ sanh tâm oán ghét người nói. Ở đời nuế bị người oán ghét th́ khi ḿnh gặp khổ, họ sẽ chế nhạo hoặc hăm hại thêm. C̣n nếu được người thương mến khi hoạn nạn được người cứu giúp an ủi. Như vậy có ai dạy khờ ǵ mà cứ tạo những cái nhơn để cho người oán ghét ? Ở thế gian này người ta oán ghét nhau bởi cái ǵ nhiều hơn hết ? Đa số là do cái miệng. Vậy ngang đây qúi vị nhớ tu cái miệng tức là tu khẩu nghiệp. Mỗi khi nói ra là phải lựa lời mà nói, lời lành th́ nói, lời dữ th́ chừa. Như vậy mới đem an vui lại cho ḿnh cho người. Nếu nói lời dữ th́ đau khổ sẽ đến, chớ không tránh khỏi.

Lại nữa, người cứ lo tụng kinh với Phật, hễ ai chọc tức th́ mắng chưởi không tiếc lời. Như vậy tụng kinh một giờ, chưởi người chừng mười phút th́ phước đức tụng kinh cũng không c̣n. Để thấy rơ việc tu hành, người trí biết lời nào nên nói th́ nói, lời không nên nói th́ dừng, điều tốt nên làm th́ làm, điều quấy ác có hại th́ không làm, đó là người giảng trạch được sự thật. Quí vị chớ nói làm một cách mờ ảo có tính cách huyền bí linh thiêng, mà không thông lư nhân qủa. V́ đạo Phật chủ trương con người gặp cảnh khổ hay cảnh vui gốc từ nơi nghiệp lành mà ra. Nói lành làm lành là nghiệp lành, nói hung dữ làm việc ác là nghiệp ác. Muốn được an vui mà gây nhân ác, đó là mê, thiếu trí tuệ. Thế nên muốn được an vui là phải tạo nhân lành, an ủi khuyên lơn giúp đỡ mọi người từ vật chất lẫn tinh thần cho họ được vui vẻ. Người biết sống như thế là người có trí tuệ thế gian.

Sau đây là trí tuệ xuất thế gian. Trí xuất thế gian là trí biết đúng như thật, cái nào giả biết nó lá giả, cái nào thật biết nó là thật. Cái giả cho là thật đó là mê, cái có thật mà không biết cũng là mê, thiếu trí tuệ. Thế nên, cái giả biết rơ là giả, cái thật biết nó là thật, đó là người trí, mà là trí xuất thế gian. Trí này có khả năng thấy suốt được lẽ thật, nhín thẳng nơi con người biết cái nào là giả cái nàolà thật không lầm lộn. Thông thường người đời ai cũng thấy thân này là thật. Nhưng với cái nh́n của người có trí xuất thế gian thấy như chổ Phật đă chỉ bày :Thân này là tướng nhân duyên ḥa hợp, nhân duyên hội đủ th́ thân này tồ tại, nếu thiếu duyên th́ nó tan hoại. Bốn thứ đất, nước gió,lửa hợp lại mà có thân này; những chất cứng như tóc, lông, răng,xương...thuộc về đất. Những chất lỏng như máu, nước miếng mồ hôi... thuộc về nước. Hơi ấm thuộc về lửa. Sự máy động, hơi thở... thuộc về gió. Bốn thứ đó ḥa hợp thành thân này, nếu một trong bốn món đó mất đi th́ thân tan hoại.Bốn món đó là bốn yếu tố chính duy tŕ mạng sống con người. Nhưng bốn món đó lại xung khắc với nhau; lửa gặp nước th́ tắt, đất gặp gió th́ rung rinh... Vậy mà bốn món đó phải họp nhau điều ḥa nhau, th́ mạng sống con người mới điều ḥa an ổn. Nếu có sự chống trái hay dư thừa hoặc hao hụt th́ thân bất an. Chẳng hạn lửa nhiều th́ thân nóng đầu nhức phải dùng thuốc hạ sốt.Lửa ít th́ rét rung phải sưởi ấm, uống thuốc cho tăng nhiệt lượng. Nước nhiều th́ phù thủng phải thải nước ra. Nước ít th́ khô khao gầy đét... Gió nhiều th́ đau nhức... Cứ như vậy mà biến động không dừng ở nơi thân. Nếu một trong bốn thứ đó hoặc qúa thiếu hay qúa thừa th́ mạng sống dừng ngay. Chúng ta thấy sự ḥa hợp của đất, nước, gió, lửa thật là tạm bợ, giờ nào nó c̣n ḥa hợp là thân c̣n, giờ nào nó bất hợp tác th́ thân mất, không có ǵ bảo đảm cả, chỉ cần một hơi thở ra mà không hít vào th́ chết ngay.đó là cái thấy của người trí về thân thể con người. Ngược lại, ai cho rằng thân này là thật, chắc bền vĩnh viễn, đó là cái thấy của người mê. Song, không phải biết thân này tạm bợ để rồi bi quan yếm thế, buồn than cho số phận. Mà, giờ nào c̣n thở, c̣n khỏe mạnh, những điều hay tốt, nên làm ngay, nếu chần chờ khất hẹn, chết đến sao làm kịp ? Tu cũng vậy, giờ nào c̣n thở c̣n hơi ấm th́ lo tu, mai mốt tắt thở làm sao tu kịp ? Biết như vậy để nỗ lực tu, nỗ lực  lực làm điều thiện, chớ không phải thấy nó tạm bợ rồi sống buông xuôi chờ chết, quan niệm như vậy không đúng. Người trí thấy thân này tạm bợ, không thật, nhờ vậy mà hằng tỉnh giác nỗ lực tu hành. Đó là giai đoạn thứ nhất thấy thân này giả.

Giai đoạn thứ hai : Thấy thân này là giả và ngay trong cái giả đó c̣n có cái chân thật không h́nh không tướng mà hằng sáng rỡ không hoại, người trí khéo nhận ra nó và hằng sống với nó. Ví dụ trong nhà giảng này trên đây là bàn phật có h́nh tướng, quí vị nói là có; khoảng không gian trống, đa số người nói là không. Nhưng kỳ thực nó không phải là không. Nếu không th́ mọi người đều chết v́ thiếu không khí thở. Khoảng không gian này không có h́nh tướng thô như cái bàn, tượng Phật, nhưng có không khí, có bụi bặm... Chỉ v́ mắt thường không thấy được nên cho là không. V́ htế mà phủ nhận những ǵ quá tầm mắt thấy. Như vậy, để thấy những cái được cho rằng có là v́ có h́nh tướng thô, c̣n trong không gian cũng có những cái tế, mà mắt thường không thể thấy được, chớ không phải là không. Cũng vậy, thân người phần tứ đại ḥa hợp là cái có thô, c̣n cái hiểu biết được gọi là tâm là cái có tế. Cái có thô là vật chất, cái có tế là tinh thần. Tinh thần có th́ vật chất có,vật chất có th́ tinh thần có,hai cái hỗ tương nhau nên mới có cuộc sống thế này. Bởi có tinh thần nên khi vật chất hoại mà tinh thần bất động không hoại. Người thấy cái thật biết đúng như thật, thấy cái giả biết đúng như giả, đó là người có trí xuất thế gian. Tôi nhắc lại, người học đạo là phải có trí; trước tiên là phải có trí thế gian hay hữu sư trí, do sự học hỏi truyền dạy của bậc thầy mà có, để rồi đi tới trí xuất thế gian do sụ tu hành mà được. Học đạo mà mù tối quá th́ không xứng đáng là người học Phật.

Bây giờ nói tới từ bi. Từ bi từ đâu mà có và muốn có phải làm sao ? Làm thế nào có được t́nh thương đối với mọi người ? T́nh thương và từ bi có giống nhau không ? T́nh thương là t́nh luyến ái giữa cha mẹ, anh em, vợ chồng, con cái, bằng hữu... lại có những t́nh thương không tốt phi đạo lư nữa. C̣n từ bi là thương cao thưọng bất vụ lợi, htưong tất cả mọi loài không v́ bản ngă của ḿnh. Muốùn có t́nh thương bất vụ lợi đó trước tiên chúng ta phải xét cảnh khổ của con người.Bài giảng đầu tiên Phật giảng cho năm anh em ngài Kiều Trần Như tại vườn Lộc Uyển là Tứ Đế. Trong Tứ đế, Khổ đế được nêu lên trước cho mọi người thấy khổ là một lẽ thật không chối cải được. Mục đích là để cho con người thoát ra mọi khổ đau. Do thấy khổ đau dày xéo lên kiếp ngườimà khởi ḷng từ bi thương yêu lẫn nhau, cứu giúp cho nhau ra khỏi biển khổ, chớ không phải nói khổ để mà khóc than cho số phận. Thông thường khi con người cùng ở trong cảnh hoạn nạn khốn khổ th́ dễ thông cảm, dễ thương nhau. Nhưng khi ở trong cảnh giàu sang, quyền thế, người được địa vị cao kẻ ở địa vị thấp khó thông cảm và thương yêu nhau. V́ vậy muốn phát khởi ḷng thương, việc dễ dàngnhất là thấy rơ nỗi khổ của nhau th́ mới thương yêu nhau. Nếu mọi người thấy rơ thân ḿnh cũng như thân người do tứ đại ḥa hợp mà thành. Khi nó bất ḥa th́ thân bệnh hoạn, một đại bất ḥa th́ sanh một trăm lẽ một bệnh. Nếu bốn đại bất ḥa th́ sanh bốn trăm lẽ bốn bệnh. Như vậy thân này là một ổ bệnh, đă là một ổ bệnh th́ khổ vô cùng. Có thân không ai dám nói tôi hoàn toàn không bệnh, không bệnh nặng th́ cũng bệnh nhẹ hoặc bệnh mới phát khởi hoặc bệnh đă khởi lâu, không ai là không bệnh. Để thấy rơ thân chúng ta là thân bệnh hoạn, người nào cũng có bệnh th́ người nào cũng khổ. Tất cả đều khổ nên thương nhau, giúp đở nhau, an ủi nhau cho bớt khổ. Kiếp người vốn đă khổ rồi, lại làm cho khổ thêm th́ qúa ác. Có nhiều người tuy bên ngoài thân lành lặng nhưng bên trong có đôi ba chứng bệnh đang hành hạ, khiến họ đau nhức, rên rỉ hoặc cộc cằn. Nếu họ có lỗi lầm nên tha thứ. Người tu là kẻ từ bi, người đời đă khổ mà làm khổ thêm là thiếu từ bi, không xứng đáng là người tu Phật.

Thứ nữa, là xét cái si mê của chúng sanh mà khởi tâm từ bi. Chúng sanh v́ si mê nên cái giả không biết là giả cho là thật, và cái thật ḿnh tự có không biết lại bỏ quên đi. Do tưởng cái giả là thật, nên bị cái giả chi phối sai sử tảo bao nhiêu nghiệp tội, để rồi đời này mang thân này khổ, đời khác mang thân khác khổ, cứ mang thân khổ trầm luân trong ṿng sanh tử không có ngày dừng. Chúng ta khi thấy người nào đang ở trong cảmh mê, liền dùng mọi phương tiện khuyến khích nhắc nhở cho họ tỉnh. Dù họ chưa hoàn toàn tỉnh song cũng lóe sáng phần nào để bớt mê. Hễ bớt mê là bớt khổ. Đó là ḷng từ bi, v́ thấy người mê nên khởi ḷng thương xót. Như vậy chúng ta là người học Phật phải có trí tuệ và từ bi. Từ bi một là thấy chúng sanh khổ ḿnh thương xót, an ủi giúp đở họ đưọc vui. Hai là thấy người mê cứ gây nghiệp rồi chịu khổ, khổ từ đời này tới đời nọ không có ngày cùng, nên thương xót dùng phương tiện chỉ dẫn cho họ bớt mê. Phật dạy thể hiện ḷng từ bi không ǵ hơn là bố thí, ố thí tài tức là giúp đỡ của cải vật chất cho người nghèo khó bệnh tật. Bố thí pháp là giảng dạy nhắc nhở cho người hết mê lầm.

Trách nhiệm của người tu là phải tự ḿnh có trí tuệ để giải khổ cho ḿnh, và xót thương mọi loài đang đau khổ mà giúp cho họ giải khổ. Tự ḿnh làm sao thoát khỏi những cái dở, những thói quen tật xấu từ lâu đời để ḿnh hết khổ và giúp cho mọi người hết khổ là tu. Tu bằng trí tuệ và từ bi.

]


[mục lục] [lời đầu sách] [p1] [p2] [p3] [p4] [p5] [p6]

[Trang chu] [Kinh sach]