ĐÂU LÀ CHÂN HẠNH PHÚC
[mục lục] [lời đầu sách] [p1] [p2] [p3] [p4] [p5] [p6]
GẦN VÀ XA NIẾT BÀN Tất cả mọi người tu, ai cũng có ước nguyện sanh về cơi Cực Lạc hoặc nhập Niết Bàn vô sanh không c̣n luân hồi sanh tử. Nhưng tu thế nào mới được gần và được Niết Bàn ? Tu thế nào xa và không được Niết Bàn. Bài kệ sau đây của một Tôn giả đệ tử Phật nói về việc gần và xa Niết Bàn : Thấy sắc niệm say mê, Nếu tác ư ái tưởng, Tâm tham đắm cảm thọ Tâm nhập và an trú, Thọ người ấy tăng trưởng, Nhiều loại do sắc sanh, Tham hại tâm lớn mạnh. Chúng gia hại tâm nó, Khổ chất chứa như vậy Rất xa vời Niết Bàn. Người đối với mọi h́nh sắc, vừa thấy liền khởi niệm say mê, rồi tác ư ưa thích nghĩ tưởng h́nh sắc, thế là ḷng tham ch́m đắm trong cảm thọ. Do tham đắm trong cảm thọ, nên tâm nhập vào sắc và an trú nơi sắc th́ cảm thọ của người ấy đối với sắc càng ngày càng tăng thêm. nếu cảm thọ tăng thêm, th́ có nhiều thứ phiền năo tội lỗi do cảm thọ sắc mà sanh ra, như tâm tham, tâm hại càng ngày càng lớn mạnh. Nếu tâm hại càng lớn mạnh th́ tâm bồ đề bị lu mờ : Nghiệp chướng phiền năo chất chồng, càng ngày càng xa niết bàn. Không những đối với sắc, đắm mê sắc có những cái hại như thế,mà đuổi theo thanh đắm mê thanh, đuổi theo hương đắm mê huơng, đuổi theo vị đắm mê vị, đuổi theo xúc đắm mê xúc cũng có những cái hại tương tự. Càng ngày càng xa Niết Bàn. Nguợc lại th́ gần với Niết Bàn : Không tham nhiểm các sắc Thấy sắc giữ chánh niệm Tâm không tham cảm thọ Không xâm nhập an trú Thấy sắc như thế nào ? Như vậy có cảm thọ Từ bỏ không tích lũy Chánh niệm hành tŕ vậy Như vậy không chứa khổ Được vậy gần Niết Bàn. Người thấy sắc không nhiểm sắc, tuy mắt thấy sắc mà tâm vẫn an trú trong chánh niệm nên không chạy theo cảm thọ lạc hay cảm thọ khổ. Đă không chạy theo cảm thọ th́ tâm không xâm nhập nơi sắc và không an trú nơi sắc. Thấy sắc như thế nào th́ ghi nhận (thọ) như thế ấy. Không khởi tâm phân biệt thủ xả chấp trước, hằng ở trong chánh niệm th́ phiền năo trần lao khổ không dấy khởi. Người không phiền năo không khổ đau là gần với Niết Bàn. Vậy, xa với Niết Bàn hay gần với Niết Bàn là do mắt, tai, mũi, lưỡi, thân tiết xúc với sắc, thinh, hương, vị, xúc; nếu dính, kẹt, nhiễm trước th́ xa Niết Bàn; không kẹt, không nhiễm trước, là gần với Niết Bàn. Một hôm Tôn giả Phú Lâu Na đến đức Phật đảnh lễ, quí thưa : Bạch Thế Tôn, con nuốn đến một chỗ vắng vẻ để tu. Xin Thế Tôn dạy cho con phương pháp tu đơn giản dễ nhớ, để con đến đó tu hành chóng đạt được đạo. Phật dạy : - Mắt thấy sắc không nhiễm trước, không dính mắc là gần với Niết Bàn, tai nghe tiếng không nhiễm trước, không dính mắc la gần với Niết Bàn; mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân chạm xúc không nhiễm trước, không dính mắc là gần với Niết Bàn. Ngược lại, nếu nhiễm trước, nếu dính mắc là xa với Niết Bàn. Tôn giả Phú Lâu Na vâng lời Phật dạy đi đến chổ vắng vẻ để tu. Phật dạy tu rất là đơn giản. Tại sao mắt thấy sắc nhiễm trước dính mắc lại xa với Niết Bàn ? Mắt của quí vị hiện thấy h́nh sắc, cái thấy đó có giống nhau không ? Thế thường người đời hay nói : chính mắt tôi thấy, đó là sự thật. Theo quí vị th́ mắt, tai thấy nghe có đúng sự thật không ? Ví dụ có một nhóm người vào tiệm bán vải. Tiệm vải chưng bày nhiều xấp hàng cùng loại mà khác màu : nào xanh, vàng, đỏ, trắng, đen, tím... Khi chọn hàng mua, kẻ th́ chọn màu trắng, ngựi th́ chọn màu lam, kẻ th́ chọn màu vàng, mỗi người tùy theo sở thích của ḿnh mà chọn mỗi màu. Người chọn màu trắng cho màu trắng đẹp, người chọn màu lam cho màu lam đẹp, người chọn màu vàng cho màu vàng đẹp. Mỗi người có mỗi nhận định, có mỗi sở thích khác nhau.Vậy màu nào đẹp thật ? Nếu mỗi người mỗi chấp màu ḿnh thích là đẹp nhất, th́ có căi lộn nhau không ? Không đồng ư nhau khư khư với cái chấp của ḿnh ắt sanh tranh căi. Như vậy thấy sắc chấp chặt vào sắc th́ sanh nhiễm trước, rồi bảo vệ cái mà ḿnh chấp. Do bảo vệ cái chấp của ḿnh, có ai nói khác với cái chấp của ḿnh th́ chống đối ...Từ chấp trước sanh sân hận, từ sân hận gây ra nhiều thứ phiền năo khổ đau. Đă khởi phiền năo sân hận làm sao gần niết bàn được ? Cái nghe cũng vậy, nhiều người cùng nghe một bài pháp, người th́ khen đoạn này hay, kể chuyện quá hay, kẻ th́ khen đoạn kia lư tuyệt. C̣n người th́ ngồi ngủ gục không biết hay. Cùng nghe một bài pháp người khen chỗ này, người khen chỗ kia, người th́ không khen. Nếu nguời khen chấp chặt cái khen của ḿnh là đúng th́ có cải lộn nhau không ? Cái nghe của mỗi người có đến lẽ thật, có phải là chân lư không ? V́ không phải là chân lư mà chấp chặtnên gây ra phiền năo khổ đau, xa Niết Bàn. Đến cái ngửi, thông thường hương thơm th́ mũi ai cũng ghi nhận thơm, mùi hôi th́ mũi ai cũng biết hôi. Tuy nhiên có cái người nàykhen thơm, người khác lại chê hôi. Chẳng hạn như người chưa từng ăn sầu riêng th́ chê sầu riêng hôi; c̣n người quen ăn sầu riêng th́ thích, khen sầu riêng thơm. Vậy mùi sầu riêng thơm hay hôi mà người khen thơm, người chê hôi ? Thơm hôi tùy theo sở thích sai biệt của mỗi nguời, nó không cố định. Không định được thơm là đúng hay hôi là đúng. Nếu chấp chặt vào đó mà tranh căi th́ sân hận dấy khởi, bao nhiêu thứ phiền năo khổ đau chất chồng, làm sao gần Niết Bàn được ? Thứ nữa là lưỡi nếm vị, vị nếm có giống nhau không ? Cùng ăn một món mà người khen ngon kẻ chê dở. Chẳng hạn cô đầu bếp quen ăn mặn, nấu thức ăn cô nấu vừa với khẩu vị của cô. Khi dọn cơm lên người khách xa ăn thấy mặn. Người nói mặn, người nói vừa ăn, ai nói đúng ? Nếu người nói vừa ăn là đúng, th́ người nói mặn trật sao ? Nếu cần kiểm chứng th́ ai là người làm chứng cho ra lẽ thật ? Nếu người quen ăn lạt xác chứng th́ thức ăn của đầu bếp mặn, đầu bếp nấu ăn dở. Nếu người quen ăn mặn xác chứng th́ thức ăn của người đầu bếp vừa ăn. Để thấy khẩu vị của mỗi người không giống nhau mà chấp chặt vào đó, sẽ sanh tranh căi, tranh căi th́ đưa tớigiận hờn phiền năo khổ đau xa Niết Bàn. Bây giờ tới thân xúc chạm. Thân xúc chạm cũng không giống nhau nữa. Ví dụ ở miền Nam Việt Nam, vào mùa Đông người có thân h́nh mập mạp và người có thân h́nh ốm yếu cùng ở chung một pḥng. Người có thân mập mạp cảm thấy vừa mát, c̣n người ốm cảm thấy lạnh buốt. Trong pḥng có bao nhiêu cửa sổ người ốm đều đóng lại để giữ hơi ấm. Khi đóng cửa th́ người mập cảm thấynóng nực. Như vậy th́ sao ? Nếu đóng cửa th́ người mập nóng, không đóng cửa th́ người ốm lạnh run. Vậy xúc chạm của ai đúng ? Người thấy lạnh đúng hay người thấy nóng đúng ? Để thấy xúc chạm cũng không giống nhau, xúc chạm của người này người kia không chấp nhận. Vậy xúc chạm cũng không đúng sự thật. Đă không thật mà chấp chặt vào đó th́ sanh tranh căi buồn phiền với nhau, xa Niết Bàn. Như vậy mắt, tai, mũi, lưỡi, thân chúng ta xúc chạm với sắc, thinh, hương, vị, xúc, mỗi người đều cho cái thấy của ḿnh là đúng rồi chấp chặt vào đó, sanh tranh cải với nhau gây bao nhiêu thứ phiền năo cho nhau, nên cách Niết Bàn quá xa. C̣n nếu không chấp chặt, không cho cái thấy biết của ḿnh là đúng, không cho cái thấy biết của nguời khác là sai, th́ không phiền năo. Không phiền năo th́ gần với Niết Bàn. Vậy xa Niết Bàn và gần Niết Bàn là tại đâu ? Năm căn tiếp xúc với năm trần chấp chặt là xa Niết Bàn, Ngược lại năm căn tiếp xúc với năm trần mà không đuổi theo, không chấp chặt là gần với Niết Bàn. Thuở xưa ở xứ Ba La Nại, Quốc Vương nước này sanh ra một trăm người con. Vị Hoàng tử út thầm nghĩ rằng : Ḿnh là con thứ một trăm, ngai vàng mà vua cha truyền lại không bao giờ đến ḿnh. Người được nối ngôi là anh cả. Nếu anh cả có chết th́ anh hai, anh ba... Nên Hoàng tử cầu nguyện với bậc Hiền Thánh chỉ cho một quốc độ mà Hoàng tử có thể t́m đến để làm vua. Ḷng ước nguyện của Hoàng tử được cảm ứng. Một vị Phật Bích Chi đến bảo rằng : - Cách nước ngươi một trăm dặm, ngươi qua xứ ấy sẽ được làm vua. Nhưng từ đây tới đó phải qua một khu rừng có quỉ la sát. Đa số người qua rừng này đều bị quỉ ăn thịt, ít ai qua khỏi. Nếu qua khỏi th́ chắc chắn được làm vua. Và muốn qua khỏi khu rừng đó không bị quỉ la sát ăn thịt th́ tất cả những ǵ mà quỉ hiện ra để quyến rủ dụ dỗ phải từ chối hết. Cứ thẳng tới trước mà đi th́ không bị hại. Nếu mắc kẹt ở đó nhất định sẽ bị quỉ la sát ăn thịt. Hoàng tử nghe vị Phật Bích Chi nói như thế liền xin phép vua cha để đến xứ ấy. Khi chuẩn bị hành lư th́ có một số bạn bè thân mến xin đi theo. Hoàng tử nói rằng : - Con đường này hiểm trở lắm, các anh đi, e dọc đường quỉ la sát ăn thịt. Tôi không dám rủ các anh đi. Những người bạn nói rằng : - Anh đi được th́ chúng tôi đi được. Anh hăy cho chúng tôi cùng đi. Có ǵ chúng tôi cam chịu. Hoàng tử nghĩ nếu không cho các bạn đi là ḿnh ích kỷ, nên tùy thuận để cho các bạn cùng đi. Có năm người cùng đi theo Hoàng tử. Qua khỏi ranh bổn quốc th́ tới một khu rừng già. Tới đây đoàn người lữ hành đi đường xa đă thấm mệt, bỗng một quán rượu hiện ra, người bán th́ đẹp, rượu và đồ nhắm thơm ngon. Trong đoàn có người đă quen uống rượu, nên bị mùi rượu kích thích. Anh bèn xin dừng lại uống rượu rồi sẽ đi sau. Hoàngtử cảnh cáo : - Không được, coi chừng quỉ la sát nó hiện ra đó, anh ở lại nó ăn thịt anh. Người thích rượu trả lời : - Không hề ǵ, tôi uống xong đi liền. Người ấy vô quán rượu, đoàn của Hoàng tử cứ đi. Người thích uống rượu say, bị quỉ la sát ăn thịt. Đoàn Hoàng tử đi thêm một đoạn đường dài khá xa, mọi người đều mỏi mệt. Trước mặt hiện ra một ngôi nhà thiệt đẹp, trong nhà có nhiều cô gái nhan sắc kiều diễm. Đoàn người đi ngang, một cô chạy ra mời vào nghĩ cho khỏe rồi hăy đi. Trong đoàn có một anh háo sắc, thấy gái đẹp động tâm. Hoàng tử không bằng ḷng dừng lại, tiếp tục dẫn đoàn đi... Anh háo sắc nói : - Các anh hăy đi, tôi ở lại nghỉ một đêm, rồi mai tôi theo sau cũng được. Hoàng tử cảnh cáo : - Anh ở lại coi chừng quỉ la sát nó ăn thịt anh. Anh háo sắc không nghe lời Hoàng tử, cứ làm theo thị hiếu của ḿnh, anh ở lại nghỉ một đêm, khuya bị quỉ la sát ăn thịt. Đoàn Hoàng tử đi thêm một đoạn đường dài nữa. Người trong đoàn hết sức mệt mỏi. Trước mặt lại có ngôi biệt thự hiện ra, từ biệt thự vang ra những tiếng ca véo von với điệu nhạc du dương. Và một cô gái ra mời đoàn người vào nhà uống trà nghe nhạc. Trong đoàn có anh mê âm nhạc, nên xin ở lại uống trà nghe âm nhạc. Hoàng tử không bằng ḷng can ngăn: - Không được, anh ở lại sẽ bị quỉ la sát nó ăn thịt. Nhưng anh mê âm nhạc không nghe, dứt khoát ở lại uống trà nghe nhạc. Tối đến bị quỉ la sát ăn thịt. Đoàn người c̣n lại vẫn tiếp tục đi, đi được một quảng đường khá dài, lương khô gần cạn, bụng đang đói cồn cào. Trước mặt hiện ra một quán cơm với mùi thức ăn chiên, kho... bay thơm ngào ngạt. Trong đoàn có anh xấu bụng đói, nghe mùi thức ăn thơm ngon,anh chịu không nổi xin ở lại ăn cơm. Hoàng tử không đồng ư, khuyến cáo rằng : - Không được, anh ở lại quỉ la sát sẽ ăn thịt anh. Kệ, ăn th́ ăn, tôi ở lại, đói quá rồi. Anh ở lại ăn no nê rồi th́ quỉ la sát nó ăn thịt anh. Người thích rượu ngon, người ưa sắc đẹp người ưa âm nhạc, người thích cao lương mỹ vị đi không được, nên bị quỉ la sát ăn thịt hết rồi ! Trong đoàn chỉ c̣n lại một người với Hoàng tử. Cả hai tiếp tục đoạn đường c̣n lại, đi được khoảng hai phần ba đường th́ một biệt thự khang trang hiện ra, trong nhà có một góa phụ với một tỳ nữ hầu hạ. Góa phụ ra đón mời hai người với lời giới thiệu ngôi biệt thự đầy đủ tiện nghi nào chăn êm, nệm ấm, không thiếu món ǵ. Người bạn c̣n lại trong đoàn quá mỏi mệt, nghe nói nhà ở đầy đủ tiện nghi, anh thích quá nên ngỏ ư ở lại nghỉ một đêm, Hoàng tử ngăn : - Không được, anh ở lại sẽ bị quỉ la sát nó ăn thịt. - Không sao, tôi nghỉ một đêm rồi sẽ tiếp tục đi. Thế là tối đêm đó quỉ la sát ăn thịt anh. Chỉ c̣n lại một ḿnh Hoàng tử tiếp tục cuộc hành tŕnh. Ngài biết năm người bạn đồng hành với Ngài, đều bị quỉ la sát ăn thịt hết rồi. Ngài hết sức là dè dặt cảnh giác. C̣n lại một ḿnh Ngài đi đến cuối bià rừng th́ thấy một căn nhà, trong nhà có hai vợ chồng trẻ đang gây lộn đánh lộn nhau. Cô vợ rất đẹp, bị chồng đánh, cô kêu ca, cầu cứu. Tuy htấy cảnh thương tâm, nhưng Hoàng tử không dám tới cứu, sợ quỉ la sát gạt, cứ lầm lũi mà đi. Cô vợ kêu cầu Hoàng tử cứu không được, thấy Hoàng tử đi, cô chạy theo năn nỉ : Xin Ngài cứu tôi, chồng tôi nó hung dữ đánh đập tôi, tôi khổ lắm, Ngài có ḷng từ bi đâu để tôi khổ... Nếu là người hùng, gặp cảnh thương tâm nhảy ra cứu giúp. Song, Hoàng tử biết quỉ la sát trá h́nh để gạt Ngài. Nên Ngài không nói ǵ hết, cứ lầm lũi mà đi, nó cũng cứ đi theo Ngái măi. Khi Ngài tới nơi, vào trọ nhà khách của quốc vương xứ ấy. Những người quản lưnhà khách quí trọng Ngàivà cấp báo cho vua hay là có một khách quí từ nước láng giềng đến. vua nghe cũng quí trọng, dẫn bá quan đến thăm Ngài. Khi gặp Ngài, nhà vua lại thấy bên cạnh Ngài có một cô gái thật đẹp, làm vua động tâm, nên mới hỏi : - Người đàn bà theo khanh có phải là vợ khanh không ? Hoàng tử đáp : - Cô này chắc là quỉ la sát, chứ không phải vợ của hạ thần. Người đàn bà nói : - Đàn ông bội bạc, khi thương nói vợ chồng, chừng giận nói quỉ la sát. Nhà vua không biết cô ấy là vợ Hoàng tử hay quỉ la sát. Song, v́ cô quá đẹpnên nhà vua mê mẫn tâm thần, hỏi lại một lần nữa để xác định : - Cô này có phải là vợ của khanh không? Hoàng tử khẳng định dứt khoát : - Không phải vợ của hạ thần, cô là quỉ la sát. Người đàn bà ấy cũng nói : - Đàn ông bội bạc, khi thương nói vợ chồng, chừng giận nói quỉ la sát Nhà vua quá sủng ái nàng, mới nói với Hoàng tử : - Nếu nói không phải vợ khanh th́ trẫm rước nàng về cung. Hoàng tử lại một lần nữa nói : -Tâu bệ hạ, coi chừng cô ta là quỉ la sát. Nhà vua truyền lệnh rước nàng về cung. Tối đêm đó vua bị quỉ la sát ăn thịt, chỉ c̣n để lại một bộ xương. Bấy giờ nước không có vua, bá quan mới nghĩ : Vị khách quí này là một vị hoàng tử của nước láng giềng, qua được đường rừng la sát mà toàn tánh mạng, phải là người tài đức phi thường. Nay vua nước ḿnh băng hà, nên thỉnh khách quí lên ngôi báu. Hoàng tử thứ một trăm lên làm vua, đúng như ḷng nguyện ước của Ngài và lời dạy của Phật Bích Chi. Chuyện này ngụ ư dạy cái ǵ ? Ngôi vị ông vua ngầm chỉ cho Niết Bàn thanh tịnh, riêng quỉ la sát chỉ cho ngũ dục lạc thế gian. Người bị quỉ la sát ăn thịt dụ cho người tu đắm ch́m trong ngũ dục, tâm thần mê muội, thoái tâm Bồ đề không tiến đạo được. Người tu muốn được Niết Bàn giải thoát th́ đối với sắc, thinh, hương, vị, xúc phải xa ĺa, chớ có đuổi theo, chớ có nhiễm trước dính mắc. Ngược lại, đối với năm trần mà đuổi bắt, chấp trước th́ khó mà đến Niết bàn. Niết Bàn càng ngày càng xa. Trong kinh Tạp A Hàm, Phật đưa ra một ví dụ. Có một tội nhân phạm pháp bị án tử h́nh. Sau đó vua xét lại, tha anh với điều kiện là anh phải bưng đĩa dầu đầy, đi từ đầu đuờng đến cuối đường, không để rơi một giọt dầu th́ sẽ khỏi tội chết. Nếu bất cẩn để dĩa dầu chao, dầu đổ chỉ một giọt th́ tên đao thủ đi sau liền chém đầu anh. Anh tội nhân được tha với điều kiện đó, mừng lắm, chấp nhận ngay. Trên đường đi từ đầu đường đến cuối đường, hai bên lề, chỗ nào cũng có gái đẹp, quán rượu, quán nhạc, đủ tṛ ăn chơi hấp dẫn. Anh tử tội chăm chăm bưng đĩa dầu đi, không dám nh́n qua liếc lại,v́ biết sau lưng ḿnh có tên đao thủ đi theo, hớ hên một chút, dầu đổ th́ bay đầu. Với tâm trạng đó anh đi từ đầu đường cho tới cuối đường, dầu không đổ, anh thoát chết. Câu chuyện này ư nói ǵ ? Anh tử tội là chỉ cho con người, ai ai rồi cũng phải chết, người già th́ khoảng bảy tám mươi tuổi chết, người trung niên th́ năm sáu mươi tuổi chết, người trẻ th́ đôi ba mươi tuổi chết... trước sau ǵ cũng chết. Gái đẹp, quán rượu... những tṛ ăn chơi hấp dẫn chỉ cho ngũ dục lạc thế gian. Dĩa dầu đầy, dụ cho pháp tu mà Phật dạy. Người tu Tịnh độ câu niệm Phậtví như dĩa dầu, không bao giờ dám quên. Người tu Thiền, an trụ tâm trên hơi thở, trong Tứ niệm xứ... không bao giờ dám lơi lỏng. Tên đao thủ đi sau lưng người tử tội, dụ cho quỉ vô thường đang chực sẵn cướp lấy mạng sống con người. Người tu biết rơ mọi thú vui của ngũ dục tuy hấp dẫn nhưng sẽ làm hại con người, làm cho con người hao ṃn sức lực, sanh bịnh hoạn... không có gía trị thật nên không nhiễm trước nó. Muốn thoát khỏi cái khổ vô thường sanh tử là phải an trú tâm vào pháp tu mà ḿnh đang thực hành, không dám xao lăng. Quí vị có thấy quỉ vô thường ŕnh quí vị không ? Khi nhớ th́ thấy, khi quên th́ không, v́ vậy mà nh́n qua ngó lại hoài nên tu hành không tới nơi. Gần đây có một Phật tử hỏi tôi :-Thầy cất chùa có coi ngày không ? Tôi đáp :-Không. Nếu gặp ngày sát chủ th́ sao ? -Vậy Phật tử có biết ngày nào không sát chủ, cất chùa lên thầy trụ tŕ sống măi măi không chết ? - ! ! ! Đă có sanh ắt phải có tử, không chết sớm là chết muộn, trước sau ǵ cũng chết. Trên đời này có ai khỏi chết đâu ! Tại sao cứ lo sợ hoài ? Cái đáng sợ là pháp tu mà ḿnh quên ḿnh xao lăng, để cho tâm xao xuyến loạn động, phiền năo ngăn che không thoát được luân hồi sanh tử. Muốn đến chỗ giải thoát th́ phải chuyên nhất, an trụ tâm trên pháp tu của ḿnh, không quên, không lơi lơng th́ tâm mới an định. Tâm an định mới thoát ly sanh tử, không bị sanh tử chi phối. Bài kệ sau đây nói lên ư nghĩa người tu an trú tâm nơi pháp tu, cũng giốngnhư kẻ tử tội bưng bát dầu : Như người bưng bát dầu Đầy tràn không cho đổ Cũng vậy, bảo vệ tâm Như bị phương hướng lạ Như vậy, tu muốn giải thoát, dễ hay khó ? Người ta cứ nghĩ tu phải có pháp mônǵ kỳ đặc mới giải thoát được. Kỳ thật không phải vậy. Chỉ cần năm căn tiếp xúc với năm trần không nhiễm trước, không dính mắc là giải thoát. Trở lại câu chuyện Phú Lâu Na, sau khi Phật dạy năm căn không dính với năm trần là gần Niết Bàn. C̣n năm căn dính với năm trần là xa Niết Bàn. Ngài hỏi tiếp:- Ông đi đến quốc độ nào ? - Bạch Thế Tôn, con qua nước phương Tây. - Dân xứ đó hung dữ lắm, ông tới đó nếu họ mắng chưởi nhục mạ, th́ ông sẽ thế nào? - Bạch Thế Tôn, nếu người ta chưởi mắng nhục mạ con, con nghĩ rằng dân xứ này c̣n lương thiện, v́ họ mới chưởi mắng nhục mạ chớ chưa dùng tay đánh, chưa dùng đá ném con. - Giả sử họ dùng tay đánh, dùng đá ném ông, th́ ông thế nào ? - Bạch Thế Tôn, nếu họ dùng tay đánh, họ dùng đá ném, con nghĩ rằng dân xứ này vẫn c̣n lương thiện, v́ mới dùng tay đánh, dùng đá ném, chưa dùng gậy đánh, chưa dùng dao chém con. - Giả sử họ dùng gậy đánh, dùng dao chém ông th́ ông thế nào? - Bạch Thế Tôn, nếu họ dùng gậy đánh, dùng dao chém th́ con nghĩ rằng họ c̣n lương thiện, v́ họ chưa giết con chết. - Nếu họ giết ông, th́ ông thế nào? - Bạch Thế Tôn, nếu họ giết con, th́ con nghĩ rằng dân xứ này tốt, v́ đệ tử của Phật khi thấy thân này ô uế bất tịnh chán ngán nó, phải t́m người giúp cho nó chết. C̣n con không mượn mà họ giúp giùm con bỏ thân ô uế này. - Lành thay ! ông có đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh, th́ ông đến xứ ấy được. Tôn giả Phú Lâu Naqua xứ ấy, chỉ tu trong ba tháng an cư th́ chứng quả A La Hán và độ được năm trăm người xuất gia. Tôn giả Phú Lâu Na thực hiện đúng như lời Phật dạy là sáu căn không dính mắc sáu trần làm căn bản, cộng thêm thái độ không giận hờn, không oán thù, trước mọi đối xử tệ hại của người, nên Ngài chóng đến Niết Bàn. Hiện tại nếu có người mắng chưởi hay đánh đập, chúng ta nhịn họ, nhưng trong tâm nghĩ đây là kẻ ác, rán mà nhịn nó. Nhịn ma thấy đó là kẻ ác, không phải là người lương thiện ...C̣n Tôn giả Phú Lâu Na th́ Ngài thấy là lương thiện v́ mới chưởi mắng chứ chưa đánh đập. Bị đánh đập Ngài cũng thấy là lương thiện v́ chưa giết chết. Khi giết chết Ngài cũng nghĩ là lương thiện v́ giúp Ngài sớm bỏ thân ô uế. Hại tới chết Ngài vẫn không oán hận. C̣n chúng ta nếu bị người bức hiếp, không đánh trả lại, không nói ra lời, chớ tâm c̣n buồn phiền hờn giận; lúc nào cũng có chứa phiền chứa giận, nên tu lâu mà không đắc đạo là vậy. Thế nên quí Phật tử tu hành, điều cốt yếu phải hiểu giáo lư đúng với tinh thần Phật dạy là sáu căn không dính với sáu trần, đó là gốc của sự tu hành. Từ trước tôi dẫn kinh A Hàm. Sau đây tôi dẫn kinh Đại Thừa, trong kinh Kim Cang ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật : - Bạch Thế Tôn, người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác làm sao an trụ, làm sao hàng phục tâm ? Phật trả lời : - Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thinh , hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm. Nghĩa là chẳng nên khởi tâm dính mắc nơi sắc, nơi thinh, nơi hương, nơi vị, nơi xúc, nơi pháp, tức là không dính mắc với sáu trần, đó là an trụ tâm của người phát tâm Vô thượng Bồ đề. Thế nên Lục Tổ Huệ Năng khi nghe Ngũ Tổ giảng tới đây Ngài liền ngộ đạo nhận ra bản tâm của ḿnh, thốt lên : Đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự thanh tịnh, đâu ngờ tánh ḿnh vốn không sanh diệt... Để thấy từ kinh A Hàm đến kinh Đại Thừa, kể cả Thiền Tông đều dạy sáu căn không dính mắc sáu trần là gần Niết bàn là giải thoát. Nếu để sáu căn dính mắc với sáu trần th́ phiền năo triền phược xa Niết Bàn, không giải thoát, đừng tưởng đi chùa nhiều, tụng kinh giỏi là mau giải thoát. Người tu phải hiểu rơ điều này. Buổi nói chuyện hôm nay tuy tôi dẫn nhiều câu chuyện, nhưng trọng tâm không ngoài việc : sáu căn tiếp xúc với sáu trần không nhiễm trước không dính mắc, lúc nào tâm cũng an trú nơi pháp tu, không quên, không lơi lỏng là gần Niết Bàn, là giải thoát. ] |