[Trang chu] [Kinh sach]

ĐÂU LÀ CHÂN HẠNH PHÚC

[mục lục] [lời đầu sách] [p1] [p2] [p3] [p4] [p5] [p6]


NGUỒN GỐC YÊU ĐỜI VÀ CHÁN ĐỜI

Thế thường người đời hay than trách : Con người sao quá tệ ác xấu xa ! Khi đă thấy người xấu là ḿnh đă ngầm nhận ḿnh tốt rồi. Nếu mọi người xung quanh đều là xấu, đều là hèn hạ, đều đáng ghét, ḿnh quá tốt, th́ không c̣n ḷng dạ nàomuốn thân thiện sống chung với ai cả. Như vậy th́ ở thế gian này ḿnh như một kẻ lạc loài.V́ ḿnh quá tốt mà người đời th́ quá xấu không giao hảo được. Khi thấy ḿnh lạc loài giữa đám rừng người th́ sanh tâm chán đời. Ngược lại, nếu  thấy mọi người ai cũng tốt, ai cũng giỏi, ai cũng hơn ḿnh, th́ lúc đó ḿnh thấy cần nhập cuộc với họ, để được hay được tốt, được tiến bộ, lúc đó tâm yêu đời phát khởi. Quan niệm yêu đời hay chán đời gốc từ chổ thấy người tốt hay thấy người xấu mà ra. Thoạt nghe qua thấy hơi thế gian, nhưng đó là tinh thần tích cực của người tu Phật chân chính và tinh thần tiêu cực của người mới học đạo.

Vậy chúng ta nên nh́n đời bằng cách nào để không buồn chán, để không muốn tự tử, để vui sống ?

Đa số chúng ta với cặp mắt quen nh́n ra ngoài, ít nhớ ngó lại ḿnh; nó có đặc điểm là thấy bên ngoài mà không thấy ḿnh. Bởi vậy, lúc nào cũng thấy người này có khuyết điểm này, người kia có khuyết điểm kia, ḿnh nh́n ai, ai cũng có khuyết đểm cả, c̣n ḿnh th́ không thấy lỗi nên nghĩ ḿnh tốt. Người khác cũng vậy, họ cũng thấy ḿnh xấu luôn, chỉ một ḿnh họ tốt. Mọi người sống đều hướng ra ngoài, khi thấy th́ thấy cái khuyết nhiều hơn cài ưu và cái xấu của người ḿnh nhớ măi, cái tốt của người ḿnh lại mau quên. Ngược lại, cái xấu của ḿnh th́ ḿnh mau quên, cái  tốt  th́  nhớ măi. Cho nên giúp ai việc  ǵ ḿnh nhớ hoài, c̣n ai giúp ḿnh th́ không nhớ. Do đó mà sinh ra cái bệnh kể công và quên ơn người. Cái ơn lớn nhất là ơn sinh dưỡng của cha mẹ mà cũng muốn quên nữa. Hằng ngày chúng ta không nghĩ đến chuyện hiếu thảo với cha mẹ, mà cứ dạy con phải có hiếu với ḿnh. Đó là do ḿnh nhớ ḿnh ban ơn cho nó, c̣n cha mẹ ban ơn cho ḿnh th́ ḿnh lại quên. Đây là chuyện thực tế mà bất công, dựng như ai cũng dự chút phần trong đó. Đa số chúng ta v́ quên cái tốt và nhớ cái xấu của người, nên thấy ai cũng xấu cả, ai cũng thua ḿnh , nên sanh tâm chán nản. Ngưọc lại, chúng ta luôn nhớ cái xấu và quên cái tốt của ḿnh th́ lúc nào cũng thấy có người hơn ḿnh để học hỏi. Có nhiều người nói chuyện đáng thương lắm, họ nói rằng : Ở đời chẳng ai thông cảm tôi cả. Trong nhà th́ cha mẹ anh chị em không hiểu  được tôi, ra ngoài xă hội cũng chẳng thông cảm tôi. Tại sao mọi người không thông cảm ḿnh ? Tại ḿnh quá hay, hay tại ḿnh quá dở ? Nh́n kỹ lại coi ? Tại ḿnh chấp ngă to quá, mở miệng ra th́ đề cao ḿnh  lên, hạ người  xuống, ḿnh cao quá ai mà thông cảm ḿnh nổi !  Người mà hay  than  như vậy là do họ thấy  họ  hay,  không  thấy  họ dở, thấy không ai hiểu nổi ḿnh, nên cảm thấy bị cô độc. Mà cô độc th́ sinh ra chán đời rồi muốn chưởi đời. Những người mà hay chưởi đời là cái bệnh  đó. Lỗi tại đâu mà ḿnh bị cô độc như vậy ?  Chúng ta xét thật kỹ mới thấy lời Phật Tổ dạy hay đáo để, v́ chúng ta không nghiền ngẫm nên quên đi. Bởi v́ mọi người ai cũng nghĩ ḿnh là người tốt là người cao thượng, chung quanh ḿnh ai cũng xấu; hoặc xấu nhiều hoặc xấu ít. Do thấy như vậy mà bi quan yếm thế. Tôi ví dụ cho dễ hiểu. Có người tới chùa cho mít giống, họ giới thiệu giống mít này rất ngon, quí hơn tất cả loại mít ở đây. Tri Viên chùa nhận biết giống mít đó quí nên khi ương trồng, chăm sóc rất chu đáo. Ngược lại nếu người cho  mít giống giới thiệu giống mít đó dở. Tri Viên dù có ương trồng rồi cũng bỏ đó. Tại sao Tri Viên trồng giống mít ngon chăm sóc chu đáo mà lại bỏ quên giống mít dở ? V́ Tri Viên thấy mít ngon là quí trồng được trái th́ được nhiều người ưa thích, c̣n mít dở dù có được trái chẳng mấy ai ưa chuộng. Con  ngựi cũng vậy, nếu  thấy  ai hay, tốt thường làm lợi ích cho đời th́ ḿnh quí trọng,  c̣n ai là người dở xấu th́ ḿnh khinh họ. Bởi v́ ḿnh  thấy  những  người này  không làm nên tṛ trống ǵ, chỉ có ta thôi, nênthấy họ không có ư nghĩa ǵ đối với ḿnh cả. V́ vậy mà sanh ra chán không muốn lo không muốn làm ǵ cho ai cả, nên sống trong u buồn khổ năo, chớ không vui.

Xưa Khuất Nguyên ôm đá trầm ḿnh dưới sông Nịch La chết, cũng v́ quan niệm : “Người đời đục cả chỉ một ḿnh ta trong, người đời mê cả chỉ một ḿnh ta tỉnh”. Khuất Nguyên nh́n đời như thế làm sao sống được với đời mà không tự vận chết ? Khuất Nguyên chết v́ thấy ḿnh hơn thiên hạ, thiên hạ không ai bằng ḿnh nên đâm ra chán đời, không muốn sống nữa. Đó là quan niệm sai lầmcủa người xưa. Ngược lại, ông chài nghe Khuất Nguyên than, ông bèn nói : “Nếu nước đục th́ ta rửa chân, nước trong th́ ta giặt dải mũ”. Ông chài thấy nước đục nuớc trong ǵ cũng có ích cho ông hết, v́ vậy mà ông vui sống, Khuất Nguyên th́ phải tự tử. Để thấy rằng, nếu biết nh́n đờibằng cặp mắt  dung  ḥa; người  dở giúp ḿnh việc  khác, người hay giúp ḿnh việc khác, ai cũng là người giúp đỡ ḿnh th́ cuộc sống đâu có ǵ phải chê chán ?

Muốn có quan niệm sống phù hợp với đạo lư và hữu ích cho đời, th́ chúng ta phải có thái độ nh́n đời cho thấu đáo. Như Khuất Nguyên thấy người đời đục cả, chỉ một ḿnh ông trong, người đời mê cả chỉ một ḿnh ông tỉnh. Như vậy “cái ta” của ông to cở nào ? Do  “cái ta” to quá nên không thông cảm được ai và cũng không chịu nổi với mọi người, phải trốn mọi người bằng cách trầm ḿnh xuống sông Nịch La để chết. Bây giờ chúng ta muốn sống với mọi người cho vui th́ phải làm sao ? Phải nh́n thấy cái dở và quên cái hay của ḿnh. Nếu thấy được cái dở và quên cái hay của ḿnh th́ tự nhiên “cái ta” tự hạ thấp. “Cái ta” mà thấp th́ đâu c̣n cách biệt với ai, ai ai ḿnh cũng có thể sống được. Quí vị kiểm lại coi, có  người  nào trọn đời giỏi hoàn toàn không ? Cẩn thận tối đa cũng có lúc sơ suất lộ ra những cái dở để người ta thấy. Như vậy, nếu kiểm những điều dở từ thuở bé đến bây giờ ghi đầy cuốn sổ một trăm trang. Lỗi ḿnh  cộng  lại nhiều  như thế  th́ có ǵ mà phách lối, có ǵ  mà  kiêu  ngạo? Do v́  cái  dở ḿnh xóa hết, cái hay th́ ghi vào, khi giở sổ ra thấy ḿnh hay nhiều quá, nên mới thấy ḿnh siêu, mới thấy ḿnh hơn thiên hạ. Chúng ta có hai cuốn sổ, một cuốn ghi công của ḿnh và một cuốn ghi tội của người. Khi ghi công ḿnh th́ không bỏ sót một chút nào.Và ghi tội người cũng vậy không bỏ sót, đôi khi c̣n ghi oan nữa là khác. Bởi vậy nên ngồi lại bàn chuyện đời th́ thấy thiên hạ tội thôi là tội, ḿnh th́ công thôi là công. Do đó nên ḿnh khinh mọi người, ḿnh khinh người th́ làm sao người thương ḿnh được. Kể cả anh chị em ruột đi nữa mà có vẽ khinh khi nhauđă không thông cảm, huống là bạn bè, người xa lạ ! Mọi người và ḿnh muốn có chổ cảm thông nhau th́ việc đầu tiên chúng ta phải nh́n lại thấy lỗi và quên cái hay của ḿnh.Thấy ḿnh dở nhiều, nên gần ai cũng có cái ḿnh học hỏi, nhờ vậy mà ḿnh dễ cảm thông với mọi người. Tụng Vô Tướng trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ có dạy :

            Nhược chơn tu đạo nhơn

            Bất kiến thế gian quá

            Nhược kiến tha nhơn phi

            Tự phi khước thị tả

            Tha phi ngă bất phi

            Ngă phi tự hữu quá

            Đản tự khước phi tâm

            Đả trừ phiền năo phá

            Tắng ái bất quan tâm,

            Trường thân lưỡng cước ngọa.

Dịch :     

            Nếu người thật chơn tu

            Không thấy người đời lỗi

            Nếu thấy lỗi của người

            Lỗi ḿnh đến bên trái

            Người sai ta không sai

            Ta sai tự có lỗi

            Chỉ dẹp tâm ḿnh sai

            Dứt trừ phiền năo sạch

            Yêu ghét chẳng bận ḷng

            Duỗi thẳng hai chân nghỉ.

Nhiều người cho bài tụng này Tổ dạy quá thấp, kỳ thực đây là nền tảng đạo đức. Chúng ta thấy Tổ dạy quá kỹ. “Nhược nhơn tu đạo nhơn, bất kiến thế gian quá”. Người tu hành chơn  thật  th́  không thấy lỗi của người đời, v́ thấy lỗi người th́ quên lỗi của ḿnh, hễ quên lỗi ḿnh là không tu, măi lo nhớ anh này dở chị kia kém, rồi buồn giận phát sanh... Người tu thật th́ hằng xét nét lỗi ḿnh, ḿnh c̣n tham, ít biết nhẫn nhục, nhiều si mê... để khiển trách và sửa chữa. Quí vị kiểm lại coi ḿnh đang tu thế nào ?

“Nhược  kiến  tha  nhơn phi, tự phi khước thị tả”.Nghĩa là thấy lỗi người th́ lỗi ḿnh đến bên cạnh rồi. Tại sao vậy ? V́ khi thấy lỗi người tâm ngă mạn liền sanh, v́ vậy phải dè dặt đừng thấy lỗi người, mà phải thấy lỗi ḿnh để ḿnh tu sửa cho tiến bộ.

“Tha phi ngă bất phi, ngă phi tự hữu quá”. Nếu người làm quấy là họ chịu, ḿnh đừng giành cái quấy của người. Thế mà người đời cứ đi giành cái quấy của người ta; thấy ai làm lỗi liền sanh bực bội nóng giận. Như vậy là người có lỗi ḿnh liền sanh lỗi, tức là ḿnh giành lỗi với người rồi. Nhiều người nói mới nghe coi như họ tích cực lắm, kỳ thực th́ họ chưa biết tu. Họ cho rằng ḿnh phải thấy lỗi người để chỉ trích cho họ sửa, nếu không chỉ  th́ để  họ quấy  hoài sao ? Thoạt nghe thấy như tốt lắm,  nhưng  nếu cứ thấy lỗi người hoài th́ sanh tự cao ngă mạn, đó là cái bệnh lớn của người tu, đâu phải là người tốt!

“Đản tự khước phi tâm, đả trừ phiền năo phá”. Chỉ nh́n lại ḿnh để thấy tâm sai quấy lỗi lầm mà phá bỏ nó, luôn luôn do dứt trừ phiền năo để cho tâm được trong sạch. Được như vậy th́ :

“Tắng ái bất quan tâm, trường thân lưỡng cước ngọa”. Khi yêu ghét không bận ḷng th́ lúc đó duỗi thẳng hai chân ngủ một cách thoải mái. Sở dĩ chúng ta nắm xuống ngủ không được là v́ nhớ người này, buồn người kia, trách người nọ, tâm tư cứ quay cuồng làm sao mà ngủ cho được. Tổ nói người thật tu th́ hết  khổ, c̣n  người tu giả cứ thấy lỗi người hoài th́ khổ hoài. Đâu quí vị kiểm lại ḿnh coi, có ai đó làm cho quí vị buồn giận, tối lại quí vị ngủ có ngon không? -Không. Buồn giận ngủ không ngon, thương ghét ngủ cũng không ngon. Tu là cốt đem lại sự an ổn cho ḿnh và cho người. Nếu ḿnh bất an th́ mọi người cũng bất an lây. Thế nên phải buông xả hết, th́ mới có thể tiến tới chỗ an vui, khi ḿnh được an vui th́ người cũng được an vui lây, nếu  ḿnh  cố  chấp, phần ḿnh đă khổ lại c̣n làm khổ lây người khác. Chúng ta tu th́ phải nhớ đừng mang tâm trạng t́m lỗi người khác, mà phải luôn nh́n lại lỗi ḿnh.

Bài tụng này Lục Tổ dạy chúng ta rất kỹ là phải thấy lỗi ḿnh đừng t́m lỗi người. Nếu thấy lỗi người th́ lỗi ḿnh tới một bên rồi. Tu cốt yếu là dẹp lỗi lầm của ḿnh, phá sạch tâm phiền năo, buông xả ḷng yêu ghét, có như vậy mới thảnh thơi hết khổ. Thoạt nghe, chúng ta thấy như Tổ tiêu cực, thiên hạ làm quấy để mặc họ, ḿnh không can thiệp sao ? Đây Tổ dạy chúng ta một phép tu để cho tâm hồn ḿnh được cởi mở rộng răi  thêm  lên,  chớ không đểå cho ích kỷ hẹp ḥi đi đến chỗ tiêu cực chán đời.

Sau đây là câu chuyện rất quen thuộc mà đa số Phật tử có tụng kinh Pháp Hoa đều biết. Bồ Tát Thường Bất Khinh thấy ai cũng có Phật tánh và sẽ thành Phật, Ngài không thấy người nào dở cả nên đi đâu gặp ai Ngài cũng nói : “Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành Phật”. Nếu thấy ai cũng sẽ thành Phật th́ có khinh chê người nào đâu ? Nhờ cái thấy đó nên Bồ Tát giáo hóa độ sanh từ đời này đến kiếp khác không chán. Như tôi nói ở trước, Tri Viên biết giống mít tốtsẽ cho trái quí, tự nhiên sốt sắng, săn sóc mà không chán v́ đặt hết hy vọng vào cây mít. Cũng vậy, Bồ Tát biết tất cả chúng sanh sẽ thành Phật th́ c̣n ǵ mà sợ. không lo giáo hóa cho họ được thành Phật. Tâm niệm của Bồ Tát thấy ai cũng có khả năng thành Phật. Phật là bậc Vô Thượng Giác mà ai cũng có thể làm được th́ việc thường ai làm chẳng được ! Vậy chúng ta hăy kiểm lại ḿnh vànghĩ rằng chung quanh ḿnh ai cũng trở thành người tốt, tốt bằng ḿnh hoặc tốt hơn ḿnh, th́ ḿnh  đâu có chê  chán ai, đâu  có xa lánh ai. Nên cuộc sống giữa ḿnh và mọi người có sự liên hệ giúp đỡ qua lại với nhau. C̣n nếu ḿnh thấy ai cũng xấu hết, chỉ có một ḿnh ḿnh hay, th́ ai giúp ḿnh được nữa ?Do thấy một ḿnh hay, nên khiến thiên hạ thấy lại  ḿnh là kẻ bướng kẻ gàng, kẻ kiêu mạn... Bởi thế, trên đường tu, người Phật tử chân chính phải nhớ cho thật kỹ là đừng thấy lỗi người mà phải thấy lỗi ḿnh và t́m cái hay của người. Cái hay nhất của con người là ai cũng có thể thành Phật. Phật quả là cái cao tột mà thấy ai cũng có thể thành, th́ chuyện thế gian, nếu hội đủ duyên tốt chắc họ sẽ thành công tốt.

Đâu chỉ một Bồ Tát Thường Bất Khinh thấy như thế, mà Phật đâu không từng nói : “Ta là Phật đă thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. V́ vậy mà Ngài giáo hóa chúng sanh suốt bốn mươi chín năm không chán ngán. Kinh A Hàm cũng như kinh Hoa Nghiêm, có đoạn kể : Sau khi Phật thành đạo dưới cội Bồ Đề, Ngài nh́n xuống đầm sen, thấy có những hoa đang trổ tỏa hương thơm, có hoa đang c̣n búp,  có hoa mới ngoi lên khỏi mặt nước, có cái c̣n là ngó sen ở dưới bùn... Nhưng Phật kết luận rằng tất cả những hoa sen đó cái nào rồi cũng trổ hoa thơm đẹp như nhau. Chúng ta thấy Phật nh́n đời hết sức lạc quan. Dầu là hoa sen đang là cái ngó c̣n dùi dưới bùn hôi, mà Ngài cũng thấy nó sẽ lên khỏi nước, trổ hoa đẹp và có hương thơm. Cũng vậy, chúng sanh người đă tu hành tiến bộ khá ví như hoa sen vừa lên khỏi nước, người đang tu hành nửa chừng ví như hoa sen c̣n nằm trong nuớc, người mới phát tâm tu ví như hoa sen vừa ra khỏi bùn, người chưa phát tâm tu ví như hoa sen c̣n ở dưới bùn. Nếu tu, tất cả đều sẽ thành Phật, do thấy như vậy nên đức Phật đem hết khả năng ra giáo hóacho tất cả. Ngài giáo hóa rồi, c̣n dặn ḍ đệ tử sau này phải luôn luôn truyền bá đừng để cho ngọn đèn chánh pháp lu tắt. Chúng ta v́ thấy mọi người xấu hết, nên có tâm trạng bi quan, tự nguyện kiếp sau xin không trở lại làm người, hoặc nguyện về Cực Lạc làm dân Phật A Di Đà, chớ không trở lại cỏi Ta Bà này, ngán con người lắm ! Người ta sợ làm người là tại sao ? V́ mọi người xấu ác hết, một ḿnh ta tốt nên ở giữa đám người xấu ác này không chịu nổi,phải t́m chổ có người tốt hơn để an ổn vui tươi. Người vừa khởi niệm đó đă là xấu rồi !

Phật dạy người có nhiều đức tính tốt hơn ta đó là bậc thầy ta, ta học những cái hay của họ. Người có cái dở hơn ta cũng là bậc thầy của ta, ta cũng học để tránh. thầy hay, chúng ta học bắt chước, thầy dở, chúng ta học để tránh. Cũng vậy, khi phát tâm tu, người trợ giúp phương tiện để tiến là thiện tri thức, mà người làm chướng ngại để thử thách coi ḿnh tiến tới đâu cũng là thiện tri thức. Người giúp phương tiện là kéo ḿnh  lên  từ  từ, người  thử  thách  giúp ḿnh nhảy vọt; cả hai đều là người tốt giúp ḿnh tiến, nên không có người nàođể cho chúng ta chê chán cả. Chỉ có chán cái hèn yếu của ḿnh. Tu lẽ ra những chuyện nghịch ư trái ḷng là phải thắng nó, mà thắng không được, để cho sân si nổi lên là dở, hăy tự chán ḿnh, v́ nói được mà làm không được. Hiểu như vậy, mới thấy chúng ta tu có tiến được hay không là do đặt cái nh́n đúng hay sai. Nếu nh́n không đúng th́ việc tu hành cũng lệch luôn. Người phát tâm tu, không ai mà không thầm hứachinh phục tham, sân, si. Đă ngầm hứa như vậy rồi, th́ những cơ hội khơi dậy tham, sân, si là cơ hội tốt để cho chúng ta điều phục nó. Nếu chúng ta chưa điều phục được th́ trách ḿnh hay trách cơ hội ? Phải tự trách ḿnh c̣n yếu. Vậy mà đa số người tu gặp chướng duyên cứ trách thiên hạ cứ trách hoàn cảnh : Tôi tu mà thiên hạ phá tôi hoài, chớ không ngờ chính v́ ḿnh không thật tu, hoặc tu c̣n yếu không chuyển được cảnh rồi thối chuyển lui sụt. Nếu nói theo đạo lư chân thật, th́ thế gian này không ai phá ḿnh cả, chỉ có ḿnh phá ḿnh. V́ tất cả cái hay, cái dở, cái tốt, cái xấu nó  không  bắt  ḿnh  thành  tốt hay thành xấu, mà chính ḿnh mới thành tốt hay thành xấu. Người ta cứ đổ thừa : bị tiền tài, sắc đẹp... nó cám dỗ tu không được. Tôi ví dụ có một Phật tử mới phát tâm tu, đi đường bỗng thấy một thỏi vàng rớt trên đất, liền động ḷng tham lượm bỏ túi, từ đó tâm bất an, toan tính đủ chuyện hết. Bất an là do không điều phục được ḷng tham, ḷng nó quấy phá mất thanh tịnh mà đổ thừa vàng nó cám dỗ. Nếu thấy vàng th́ thấy, đi cứ đi, không bận ḷng th́ có ǵ trở ngại ? Để thấy rằng trong cuộc đời này không có cái ǵ ở bên ngoài hại ḿnh bằng chính ḿnh không làm chủ được tham, sân, si nơi ḿnh. Đó là cái gốc của mọi tai họa. Nếu biết gốc của tai họa từ tham, sân, si ở nơi ḿnh th́ phải thẳng tay mà điều phục nó, chớ không có kêu ca than trách người, cảnh. Nếu ngồi trách người trách cảnh, đó là người che lỗi ḿnh, bào chữa cho ḿnh.

Kinh Hoa Nghiêm, Phật có nói : Tất cả chúng sanh đều đầy đủ đức tánh Như Lai, chỉ v́ vô minh phiền năo che khuất nên c̣n làm chúng sanh.Vậy ai cũng có đức tính như Phật hết, tuy hir65n tại thân tướng chưa đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, nhưng  rồi sẽ có, nếu  chúng ta đủ ḷng tin và nổ lực tu rồi cũng sẽ được như Phật. Sở dĩ chúng ta c̣n luân hồi trong lục đạo thấy ḿnh và Phật cách nhau quá xa là do vô minh phiền năo che khuất. Nếu dẹp hết vô minh phiền năo th́ ḿnh với Phật đâu có khác. Phật và Bồ Tát chỉ cho chúng tacon đường Niết Bàn rất cụ thể. Đó là : “Biết như thật điên đảo, không thọ tất cả pháp, nội tâm tịch diệt, đến Niết Bàn”. Ai biết như thật điên đảo th́ không thọ tất cả pháp, nếu không thọ tất cả pháp th́ nội  tâm tịch diệt, nội tâm tịch diệt đó là Niết Bàn, không nghi ngờ. Nếu người không biết như thật điên đảo, điên đảo mà không biết điên đảo, th́ thọ nhận tất cả pháp. Chấp tất cả pháp th́ đi tới đấu tranh, mà đấu tranh là đau khổ. Vậy thấy như thật điên đảo là thế nào ? Điên đảo là lấy đầu làm đuôi, giả cho là chơn, thấy trái ngược gọi là thấy điên đảo. Ví dụ : Được khen th́ vui, bị chê th́ buồn. Được khen th́ vui, bị chê th́ buồn, hợp lư quá tại sao nói là điên đảo?

Lời khen chê là âm thanh vừa phát ra liền nữa, lời khen mất, nó không thật mà chấp nó là thật. Thứ chê không nhất  định. Chẳng hạn người tửu lượng thấp uống nửa lít rượu đă say túy lúy, khen người tửu lượng cao uống một lít không say là giỏi là hay. C̣n nguời Phật tử giữ năm giới không uống rượu bị chê là người bỏn xẻn không biết ăn chơi. Nếu qua lời khen đó mà vui, qua lời chê đó mà buồnlà điên đảo. V́ cái không đáng buồn mà buồn, không điên đảo là ǵ! Cái không đáng khen mà khen, khen để đi tới chổ chết. Cái khen đó là hại tai sao lại mừng ? Lời khen chê không có giá trị thật mà tuởng lầm là thật đó là điên đảo. Điên đảo mà tự măn với điên đảo nên rồi cứ đau khổ. Có cái khen cái chê nào là cứu cánh đâu ? Nhóm người này khen ḿnh lại có nhóm nguời khác chê mính. Khen chê tùy chỗ, tùy thời, tùy theo cái nh́n của mỗi người sai khác. Nó không có lẽ thật, mà ḿnh chấp là thật, đó là sai lầm. Tiếng nói đă không thật, gía trị khen chê cũng không thật, hai cái không thật tưởng là thật, không điên đảo là ǵ ? Do không biết như thật điên đảo nên mới chấp nhận các pháp, khen th́ vui nên giành được khen rồi dẫn tới đấu tranh, bị chê th́ buồn nên nổi sân giận sanh đấm đánh lẫn nhau,gây đau khổ cho nhau không có ngày cùng.

Ngay nơi cái điên đảo mà thấy đúng  như thật, th́ không chấp không tạo thêm tội lỗi, mà phát triển điều hay điều tốt. Chẳng hạn như biết thân này là vô thường, giả tạm không thật, tuy biết nó không thật, vẫn đem nó ra làm việc hữu dụng cho đời, sống một ngày làm cho xứng đáng một ngày. Ngày mai c̣n làm nữa, ngày mốt c̣n làm nữa, làm hoài cho tới chết mới thôi, không chán. Nếu nghĩ thân nay c̣n mai mất làm chi cho mệt, ngồi chơi uống trà cho khỏe là tai họa ! Cùng một sự việc mà thấy đúng th́ cuộc sống  có giá trị, đời vui tươi. Nếu thấy không đúng th́ gây tai họa lớn không thể lường. V́ vậy, người học Phật chúng ta nương theo cái nh́n của Phật là thấy tất cả điên đảo đúng như thật, để không thọ nhận các pháp cho tâm đuợc tịch diệt và đến Niết Bàn.

Niết Bàn đối với chúng ta gần hay xa và có ai không có quyền đến không?

Ai cũng có quyền đến Niết Bàn với điều kiện như đă nói.

]


[mục lục] [lời đầu sách] [p1] [p2] [p3] [p4] [p5] [p6]

[Trang chu] [Kinh sach]