HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
GIẢNG GIẢI
[A.Chương1][A.Chương2][A.Chương3][A.Chương4][A.Chương5][A.Chương6][A.Chương7]
[B.Chương 1][B.Chương 2][B.Chương 3][B.Chương 4][B.Chương 5]
[B.Chương 6-phần 1][B.Chương 6-phần 2][B.Chương 6-phần 3][B.Chương 6-phần 4][B.Chương 7]
B. GIẢNG GIẢI (tt) VI. KHAI THỊ NGỘ NHẬP ĐƯỢC DUYÊN TỐT TRUYỀN TRAO ẤN CHỨNG. Một hôm Sư dạy chúng: - Từ khi ta lên trụ chùa Nguyệt Đường, lập Thiền Tịnh Viện th́ đệ tử ở khắp nơi theo về đông đảo để học đạo quy y, thảy đều ghi tên tất cả để rơ dấu tích. Chỗ Ngài lập đề Thiền Tịnh Viện là viện tu Thiền và tu Tịnh. Tại sao vậy? Bởi v́ thời đó hệ thiền yếu đi, các thời vua Lê trước trọng Nho khinh Phật, cho nên đường lối của các vị Thiền sư truyền bá không được thông dụng. Thiền gần với giới trí thức hơn, không hợp với giới b́nh dân. Do đó các ngài sau này dạy Tịnh nhiều. Đến đời của Ngài thiền được khôi phục lại nhưng chưa hoàn bị, v́ vậy phải dung hợp cả thiền cả tịnh gọi là Thiền Tịnh Viện. Trong đó đệ tử thượng túc là Ḥa thượng Viên Thông tự Chân Lư Hiển Mật. Người tôn túc nhất để được kế thừa Ngài là Thiền sư Viên Thông tự là Chân Lư Hiển Mật. Kế là các vị: Chân Tạng Mật Hạnh, Chân Chiếu Hoa Mỹ, Chân Tông Quản Trí, Chân Quy Phổ Ứng, Chân Truyền Quang Tán, Chân Tịch Khổ Hạnh, Chân Thành Bồ Đề, Chân Thường, Chân Cảnh, Chân Thước, Chân Ưù, Chân Thị, Chân Thuần, Chân Đẳng, Chân B́nh, Chân Pháp, Chân Quản, Chân Trí, Chân Bảo, Chân Thường, Chân Đông, Chân Dung, Chân Quả, Chân Viên, Chân Kinh, Chân Tĩnh, Chân Quang. Hàng chữ “Chân” này được bảy mươi vị, trên đây là tạm ghi những vị lớn tiếp nối truyền đăng. Sau đây là hàng cháu thuộc chữ “Như”: Thứ nhất là người tiếp nối hương hỏa, Tăng Lục Ty Ḥa thượng Tăng thống Chánh Tông tự Như Nguyệt hiệu Hoa Quang (trụ tŕ chùa). Kế là Sơn tăng Như Tông, Tăng phó Như Túc, Như Khoản, Tăng phó Như Nhật, Nội đàn Như Đài, Như Bảo, Tăng chánh Như Sơn, Tăng phó Như Thừa, Như Công, Tăng phó Như Thuyên, Hữu công Như Hiền, Như Nhẫn, Tăng thống Như Toàn, Hữu công Như Biện, Như Đề, Tăng chánh Như Viên, Như Kiên, Như Lưu, Như Mật, Tăng phó Như Cảnh, Như Hải, Như Khanh, Như Nghiệm… Khoảng hai trăm vị, trên đây chỉ tạm ghi hai mươi bốn vị hoặc có công với chùa, hoặc có sắc mệnh. Kế là hàng cháu chắt thuộc chữ “Tánh”. Thứ nhất là Chánh Phái Phụng Thị Nội đàn Tăng thống tự Tánh Thanh, Nội đàn Kiến Liễn, Tánh Kế, Đạm hạnh Tánh Khả, Nội đàn Tánh Châu, Tánh Duệ, Tánh Thước, Tánh Tường, Tánh Mẫn, Tánh Nhu, Tánh Định, Tánh Bạch, Tánh Anh, Tánh Trác, Tánh Đức, Tánh Trí, Tánh Lăng, Tánh Tiếp, Tánh Phụng, Tăng phó Tánh Xán, Tánh Tuyên, Tăng chánh Tánh Hoàn, Tánh Không… Hàng chữ “Hải” gồm có: Tăng phó Hải Bồi, Hải Triều, Hải Thường, Hải Nhă, Hải Đồng, Hải Diên, Hải Lịch, Hải Khoát, Hải Liêm, Hải Trung… Ni cô xuất gia từ nhỏ, giới hạnh tinh nghiêm khoảng ba mươi vị. Cư sĩ nam nữ cả ngàn muôn vị đều quy hướng theo Sư. Đó là kể những người thừa kế. Bây giờ đến những bài kệ Ngài thường đọc, thường ghi ở trên vách. Những bài kệ này có khi Ngài hứng Ngài sáng tác, có khi Ngài đọc lại những bài kệ của Thiền sư Trung Hoa. Sư thường đọc lại những bài kệ để dạy chúng: Kệ ngộ liễu BÀI 1: Giác không không giác, không không giác, Giác dĩ không không không bất không. Dục thức vô cùng hảo tiêu tức, Đô lô chỉ tại thử hiên trung. Dịch: Giác không, không giác, không không giác, Giác đă không không, không chẳng không. Muốn biết vô cùng tin tức tốt, Thảy đều chỉ ở trong hiên này. Giác không, không giác, không không giác. Giác không là giác làm sao? Người tu thiền chặng đầu th́ phải giác ngộ tất cả pháp tánh là không, thấy tất cả các pháp tự tánh là không gọi là giác không. Không giác là sao? Là không cái giác, v́ c̣n biết các pháp tánh không th́ cái biết đó chỉ là cái dụng của giác chớ không phải thể, cái dụng của giác đó cũng phải lặng nữa, cho nên là không giác. Giác được cái không rồi dẹp luôn cả cái giác đó là không giác. Không không giác là sao? Là đă không cái giác không rồi, th́ cái không giác này cũng phải dẹp luôn. Ngày nay chúng ta quán các pháp nhân duyên sanh tự tánh là không, cái quán đó chưa phải là trí tuệ chân thực. Nó chỉ là dụng của trí quán sát, là tướng sanh diệt v́ quán là tướng sanh diệt. Cho nên đầu tiên bước vào đạo, bước vào cửa thiền, phải dùng trí sanh diệt để quán sát tất cả các pháp. Quán các pháp không tự tánh là giác không, giống như câu nói của một Thiền sư: “Ba mươi năm trước khi chưa tu, thấy núi sông là núi sông. Sau khi tu gặp thiện tri thức chỉ dạy thấy núi sông không phải là núi sông”. Đó là giác không. “Rồi sau ba mươi năm thấy núi sông trở lại là núi sông” tức là không cái giác đó nữa, không c̣n quán không nữa. Khi chúng ta chưa biết tu thấy cái ǵ cũng thậät hết, nhà cửa thật, cây cảnh thật, chùa chiền thật, cái ǵ cũng thật, cho nên thấy núi sông là núi sông. Bây giờ được Thầy được bạn chỉ cho biết, người tu phải quán các pháp là duyên hợp không có tự tánh, là tánh không. V́ vậy mà thấy các pháp không có tự tánh, là không. Đó là bước đầu giác không. Như vậy giác không cho tới ba mươi năm sau, phải bỏ luôn cái giác không đó nữa, tức là cái giác đó cũng trở thành không, đó là không giác. Bỏ luôn cái không giác này th́ trí quán lặng là không không giác. Giác đă không không, không chẳng không. Cái giác đầu và cái giác kế đă không rồi, nhưng nó không mà chẳng không, nó vẫn hiện tiền cho nên không chẳng không. Chừng đó mới thấy núi sông là núi sông tức không giác. Nhưng không phải tới đó không c̣n ǵ hết. Tuy không giác mà liễu liễu thường tri. Muốn biết vô cùng tin tức tốt, Thảy đều chỉ ở trong hiêân này. Muốn biết được tin tức tốt, tin tức quí vô cùng đó th́ tại nơi đây thôi, hiện tiền ngay chỗ chúng ta đứng chớ không có đâu khác. Như vậy, cuối cùng chúng ta phải đi tới chỗ hiện tiền thấy các pháp như như. Tóm lại, chặng thứ nhất bước chân vào đạo th́ phải dùng trí quán các pháp duyên hợp như huyễn hay là tánh không, v́ vậy nói gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy thấy núi sông không phải núi sông. Chặng thứ hai, trí quán chiếu đó cũng phải lặng luôn cho nên gọi là không giác, không giác tức là không c̣n quán chiếu nữa. Chặng thứ ba là thấy núi sông là núi sông, tức là mọi sự mọi vật đều từ tâm hiện tiền của ḿnh hằng tri hằng giác mà không có khởi chiếu soi, khởi quán sát. Đó là tâm hiện tiền, mà tâm hiện tiền th́ cảnh cũng như như, cho nên núi sông trở lại là núi sông. Đó là bài kệ rất hay. BÀI 2: Sư tử quật trung sư tử, Chiên đàn lâm lư chiên đàn. Nhất thân hữu lại càn khôn khoát, Vạn sự vô ưu nhật nguyệt trường. Dịch: Sư tử trong hang sư tử, Chiên đàn trong rừng chiên đàn. Một thân nhờ có trời đất rộng, Muôn việc không lo ngày tháng dài. Sư tử trong hang sư tử, Chiên đàn trong rừng chiên đàn. Nói một cách nhẹ nhàng hơn là người quyết tâm tu th́ ở chốn quyết tâm tu, người thanh tịnh th́ ở nơi thanh tịnh vậy thôi. Nói sư tử với chiên đàn nghe quan trọng. Một thân nhờ có trời đất rộng, Muôn việc không lo ngày tháng dài. Một thân này đă sẵn có trời đất rộng. Muôn việc ḿnh bỏ hết th́ mặc cho ngày tháng cứ trôi đi. Vậy mà lâu lâu cũng tính coi năm nay ḿnh ở đây được mấy năm rồi! Nếu muôn việc ḿnh không nghĩ, không bàn, th́ bao nhiêu ngày tháng cứ trôi đâu có cần tính, bao lâu cũng được, không nghĩ không lo. Ở đây có người nào không nghĩ không lo? Có người hỏi: Thầy ở Thiền viện Trúc Lâm được bao lâu rồi? Nói: Tôi thấy ngày nào cũng có mấy cây thông xanh thôi. Được vậy là tốt lắm, chứ đừng ngồi đếm tay, coi năm tôi lên là năm mấy, giờ là năm mấy, cộng lại là mấy năm. Đó là chưa thấy thông xanh mà chỉ thấy ngày tháng, chờ trông cho qua hết ngày hết tháng. BÀI 3: Long đắc thủy thời thiêm ư khí, Hổ phùng sơn sắc trưởng uy nanh. Nhân quy Đại quốc phương tri quư, Thủy đáo Tiêu Tương nhất dạng thanh. Dịch: Được nước rồng càng thêm ư khí, Gặp non cọp mới trổ oai hùng. Người về Đại quốc thành cao quư, Nước đến Tiêu Tương một sắc trong. Ngài Hương Hải khi c̣n ở Đàng Trong bị chúa Nguyễn nghi ngờ, không được an, nên trốn ra Đàng Ngoài. Ở Đàng Ngoài, gặp vua, gặp chúa đều quí trọng đạo Phật, cho nên Ngài đọc bài kệ này để nói lên niềm vui của ḿnh. Được nước rồng càng thêm ư khí, Gặp non cọp mới trổ oai hùng. Về tới đây rồi giống như rồng gặp nước, cọp về núi. Người về Đại quốc thành cao quư. Trong này chúa Nguyễn có một phần đất nhỏ, ngoài kia vua Lê chúa Trịnh là chính cho nên gọi là Đại quốc, thành cao quư tức là người ta biết dùng ḿnh. Nước đến Tiêu Tương một sắc trong. Ở Trung Hoa, sông Tiêu Tương là ḍng nước sâu cho nên các ḍng sông ở trên th́ đục mà chảy về đây th́ trong hết. Người ở chỗ kia th́ vô dụng nhưng về tới đây rồi là hữu dụng, là tốt. Đó là ư Ngài được hài ḷng khi trở về Bắc. BÀI 4: Thiên thượng hữu tinh giai cung Bắc, Nhân gian vô thủy bất triều Đông. Quát quy mao ư thiết ngưu bối thượng, Tiệt thố giác ư thạch nữ yêu trung. Dạ xoa La sát tài khể thủ, Ngục tốt ngưu đầu tiện ḱnh quyền. Dịch: Sao ở trên trời đều chầu Bắc, Nước dưới nhân gian thảy về Đông. Giữa eo gái đá cắt sừng thỏ, Trên lưng trâu sắt nhổ lông rùa. Dạ xoa La sát đầu vừa cúi, Ngục tốt ngưu đầu giơ sẵn thoi. Sao ở trên trời đều chầu Bắc, Nước dướiû nhân gian thảy về Đông. Ở trên trời th́ các ngôi sao đều hướng về phương Bắc và ở dưới các ḍng sông đều chảy về Đông. Đây là nói theo địa lư Trung Quốc và ở miền Bắc. Nếu ở miền Tây Việt Nam từ Cà Mau lên Hà Tiên th́ nước chảy ra Tây. Về mặt địa lư th́ sông Trung Hoa đều hướng ra biển Đông. Nhưng ở Việt Nam th́ từ Vũng Tàu trở ra sông chảy về Đông, c̣n sông Cửu Long th́ chảy về hướng Nam, các sông dưới kia th́ ra hướng Tây, nên không phải là luật cố định. Đây chịu ảnh hưởng văn chương Trung Quốc, ư nói mọi sự vật như sao trời không có tâm, không có ư mà đều xoay về hướng Bắc, nước không có tâm, không có ư mà đều chảy về phương Đông, hành động đủ duyên th́ hiện. Đây muốn nói lên chỗ không tâm không ư mà vẫn có hoạt động chớ không phải là chỗ chết. V́ vậy mà đến hai câu này: Giữa eo gái đá cắt sừng thỏ, Trên lưng trâu sắt nhổ lông rùa. Quí vị nghĩ sao? Gái th́ gái đá, mà cắt sừng thỏ, gái đá có tri giác không? Thỏ có sừng không? Gái đá, sừng thỏ chỉ có danh từ, không có thực. Cô gái đá thực ra chỉ là cái tượng thôi, không có tri giác, c̣n sừng thỏ đâu có ai t́m ra? Nghĩa là trên h́nh thức vô t́nh và một vật chỉ có tên rỗng, ḿnh đều không mắc kẹt, đều dẹp hết, cắt tức là dẹp hết. Trâu sắt có biết động đậy ǵ không? Mà trên lưng nó lại nhổ lông rùa. Quí vị ra hồ rùa kiếm xem có cái lông nào không? Lông rùa cũng là danh từ rỗng, không có thực chất. Hai câu này để chỉ chúng ta làm mọi việc mà vô tâm như gái đá, trâu sắt, xem như huyễn không thực như cắt sừng thỏ, nhổ lông rùa, th́ lúc đó: Dạ xoa La sát đầu vừa cúi, ngục tốt ngưu đầu giơ sẵn thoi. Dạ xoa và La sát đều cúi đầu kính phục, c̣n ngục tốt ngưu đầu đưa tay lên, chớ không dám thoi, không dám đánh ai hết. Nghĩa là hết h́nh phạt. Người ta khi đă được diệu dụng, làm những việc không có dụng ư, không có dụng tâm, chỉ là duyên đến th́ hành, duyên đến th́ nói, duyên đến hoạt động mà không có tâm, không có nghĩ. Đó là như cắt sừng thỏ ở eo cô gái đá và nhổ lông rùa trên lưng con trâu sắt vậy, không có ǵ là thật. Được như vậy th́ Dạ xoa La sát, các loài quỷ dữ, ngưu đầu ngục tốt đều phải bó tay cung kính hết. Ai tu đến được chỗ đó rồi, mọi hiểm nguy mọi điều hung dữ đều phải đầu hàng. Đó là bài kệ nói cái hùng của người đạt đạo. BÀI 5: Hoặc thị hoặc phi nhân mạc thức, Nghịch hạnh thuận hạnh thiên mạc trắc. Cách sơn nhân xướng Chá-cô từ, Thác nhận Hồ gia thập bát phách. Dịch: Hoặc phải hoặc quấy nào ai biết, Nghịch hạnh thuận hạnh trời khó xét. Cách núi người ca khúc Chá-cô, Lầm nhận kèn Hồ mười tám nhịp. Nếu người nào không mắc không kẹt thị phi phải quấy th́ hạnh thuận, hạnh nghịch của người đó trời cũng không thể biết được. Cách núi người ca khúc Chá-cô, Lầm nhận kèn Hồ mười tám nhịp. Có người ở cách núi - thiên hạ không thấy - hát khúc Chá-cô, người nghe tưởng là đang thổi kèn của người Hồ có mười tám nhịp. Nghĩa là khi thấy được đạo rồi nói một lời, một câu kinh, một lời giải thích nào đó đúng với đạo lư, nhưng mà người không biết th́ dễ lầm tưởng cái này thành cái khác không hiểu được. Tóm lại bài kệ này cũng nói đến chỗ thâm sâu của đạo lư, nếu người nào không c̣n kẹt phải quấy th́ khi làm lợi ích chúng sanh, có lúc thuận có lúc nghịch, không ai lường nổi hạnh của người đó, chẳng khác nào như đứng bên núi hát khúc Chá-cô, người khác nghe tưởng lầm như là bản nhạc của người Hồ. Ư nghĩa rơ ràng như vậy. Sư thăng ṭa dạy chúng: - Có một người một đời làm lành. Có một người một đời làm dữ. Người làm lành một sớm phạm giới không cho mà lấy. Người làm dữ một niệm liễu ngộ tự tâm. Người lành phạm giới không cho mà lấy, tức gọi là giặc. Người dữ liễu ngộ tự tâm, tức gọi là Phật. Hai người đồng đến Vân Môn hỏi chấp nhận người nào đúng. Nếu chấp nhận người lành bỏ người dữ th́ là nhận giặc mà bỏ Phật. Nhận người dữ bỏ người lành, th́ là sợ ác mà khinh thiện. Nếu chấp nhận cả hai người th́ Phật và giặc chẳng phân. Nếu cả hai người đều không nhận th́ lành dữ chẳng rơ. Nếu quyết định chỉ Phật là người ác th́ chuốc tội chê bai Phật, vào địa ngục như tên bắn. Nếu chỉ giặc là người lành th́ chưa có người lành nào mà đi làm giặc. Tôi phân tích từng đoạn cho dễ hiểu. Có một người một đời làm lành. Có một người một đời làm dữ. Một bên lành một bên dữ rành rơ rồi. Bây giờ người làm lành một sớm phạm giới lấy của không cho tức là phạm giới ăn trộm. C̣n người làm dữ một hôm nào đó, nghe một câu kinh liền tỏ ngộ tự tâm. Người làm lành một sớm phạm giới không cho mà lấy. Người dữ một niệm liễu ngộ tự tâm. Đây giải thích: Người lành phạm giới không cho mà lấy tức gọi là giặc. Người dữ liễu ngộ tự tâm tức gọi là Phật. Hai người đồng đến Vân Môn hỏi chấp nhận người nào đúng. Đây không dẫn câu trả lời của ngài Vân Môn mà Ngài tự nói: Chấp nhận người lành bỏ người dữ th́ là nhận giặc mà bỏ Phật, v́ người lành đang là giặc, người ác ngộ tự tâm là Phật. Nhận người dữ bỏ người lành, th́ sợ ác mà khinh thiện, tức là sợ dữ mà coi thường người lành. Phải làm sao? Nếu chấp nhận hai người th́ Phật và giặc chẳng phân. Ông kia làm lành bây giờ phạm giới ăn trộm th́ là trộm. C̣n ông kia dữ bây giờ ngộ tâm th́ là Phật. Ăn trộm và Phật hai người đều trúng hết, th́ ăn trộm và Phật giống nhau. Nếu cả hai người đều không nhận, th́ lành dữ chẳng rơ, thiện ác mù mờ. Nếu nhất quyết chỉ Phật là người ác th́ chuốc tội chê bai Phật. Nếu ḿnh nói ông ngộ tự tâm tức là Phật mà ông này là dữ, th́ như vậy chê bai Phật là dữ sẽ vào địa ngục như tên bắn. Nếu chỉ giặc là người lành th́ chưa có người lành nào mà làm giặc. Làm giặc sao gọi là người lành được. Đây gợi cho chúng ta thấy trên đường tu có việc kỳ đặc mà chúng ta khó giản trạch được. Bởi v́ đa số nói tới tu th́ quí những người hiền, ai ăn hiền ở lành từ bé đến lớn th́ người đó dễ tu, nhưng biết đâu gặp cơ hội nào đó họ làm dữ. Như vậy cái hiền đó có phải thật là hiền chưa? C̣n người dữ nhưng có thể sáng, bởi họ sáng nên nghe câu kinh bất thần họ ngộ. Ngộ tự tâm th́ thấy được Phật tánh, gọi đó là Phật như câu: “Hôm qua tâm Dạ xoa, hôm nay mặt Bồ-tát”. Mới vác dao làm hàng thịt, bữa nay là Bồ-tát, th́ cái dữ có thật không? Bao nhiêu năm làm điều tội lỗi, nhưng bây giờ họ bừng ngộ th́ họ là Phật, Bồ-tát. Như vậy trong cái lành không khéo trở thành dữ, trong cái mê mà khéo sẽ trở thành giác. Thiện ác, lành dữ không có tính chất cố định, không nên chấp chặt, đúng sai đều chẳng quản. Chỉ có trở về với bản tánh thanh tịnh sẵn có của ḿnh, đó mới là cái chân thật. Đến bài tụng: BÀI 1: Tân phụ kỵ lư a gia khiên, Bộ bộ tương tùy bất trước tiên. Quy đáo tận đường nhân bất thức, Tùng kim lăn cánh xuất môn tiền. Dịch: Cô dâu cỡi lừa mẹ chồng dẫn, Từng bước theo nhau chẳng cần roi. Về đến tận nhà người chẳng biết, Từ nay ra cửa cũng biếng lười. Cô dâu cỡi lừa mẹ chồng dẫn, Từng bước theo nhau chẳng cần roi. Cô dâu cỡi lừa mà mẹ chồng lại dẫn. Dẫn đi một cách tự nhiên chứ không cần roi ǵ hết. Về đến tận nhà người chẳng biết, Từ nay ra cửa cũng biếng lười. Khi về tới nhà rồi mà ai cũng không biết. Giờ lười bước chân ra cửa. Như vậy là ư nói cái ǵ? Bởi v́ chúng ta lâu nay quen bàn luận, mà bàn luận th́ căn cứ trên lư lẽ để lư giải đúng sai, nhưng mà trên chỗ chân thật không có lư giải. Dùng lư giải tức là bị ư thức duyên, theo nó phân biệt. Như vậy ở đây nêu một h́nh ảnh phi lư. Trong cái phi lư đó lại là cái lư chân thật. Bởi v́ ngày xưa theo Nho không bao giờ có cô dâu phách lối ngồi trên lưng lừa cho mẹ chồng dẫn. Đó là một cái phi lư. Nhưng mà bà mẹ chồng dẫn con dâu về tới nhà, nghĩa là nếu trong cái phi lư đó mà chúng ta nhận ra được th́ từ đó hiện ra cái chân thật. Như hiện giờ chúng ta nói một câu, hay làm một hành động đều suy lư: cái đó là phải hay quấy, cái đó đúng hay là sai. C̣n phải quấy, đúng sai th́ chưa phải là chỗ cứu kính. Muốn thấy cứu kính th́ phải nhận ra được cái chân thật. Cho nên trở về đến nhà mà không ai biết hết. Từ chỗ phi lư không có nghĩa mà hiện ra cái nghĩa chân thật là về đến nhà. Về đến nhà rồi th́ từ đó về sau không muốn bước ra cửa nữa. Không bước ra cửa nữa là sao? Là tâm không chạy theo cảnh nữa, chớ đâu có ǵ lạ. Cho nên từ cái phi lư đó mà chúng ta nhận chân được rồi th́ sống ngay trong đó, không chạy, không đi, không duyên trần cảnh nữa. Từ nay ra cửa cũng biếng lười, lười biếng bước ra cửa. Nếu mà một tâm hồn c̣n xao xuyến, th́ ngồi trong nhà, trong thất, muốn ngồi hoài không? Hay là ngồi một chút th́ muốn chạy đầu này chạy đầu kia, xem cái này xem cái nọ? Nếu ngồi ngay trong nhà mà lười bước ra cửa th́ biết họ an ổn rồi, họ không bận bịu cái ǵ nữa. Cái phi lư là cái vô tâm, có lư là có tâm. Nếu chúng ta nhận ra cái này có lư hay, lư dở th́ đó đều là hữu tâm, c̣n nói mà không có ư nghĩa ǵ hết đó là phi lư, phi lư nên vô tâm. Thí dụ hỏi “Thế nào là ư Tổ sư từ Ấn Độ sang?”, nói “Cây bá trước sân”. Nói một cách phi lư vậy đó, mà từ phi lư nhận ra th́ ngộâ, không nhận ra th́ không ngộ. Cho nên hiểu được lẽ đó rồi th́ chúng ta mới thấy được ư nghĩa ở đây. Đến bài kế cũng tương tự như vậy. BÀI 2: Phu tử bất thức tự, Đạt-ma bất hội thiền. Huyền diệu vô ngôn ngữ, Thiết mạc vọng lưu truyền. Dịch: Khổng Tử không biết chữ, Đạt-ma chẳng hội thiền. Huyền diệu không lời nói, Cốt đừng dối lưu truyền. Khổng Tử không biết chữ, Đạt-ma chẳng hội thiền. Khổng Tử là ông tổ Nho mà không biết chữ. C̣n tổ Đạt-ma là ông tổ Thiền mà nói không hiểu thiền. Câu đó là hữu lư hay phi lư? Từ cái phi lư hay vô lư đó mà chúng ta nhận ra, chúng ta thấy được, th́ đó là chỗ chân thật. Huyền diệu không lời nói, Cốt đừng dối lưu truyền. Chỗ nhiệm mầu, huyền diệu dứt bặt nói năng. Đừng có truyền bá dối hay là truyền bá rỗng. Bài kệ này nêu lên ư nghĩa cái chân thật, vượt ngoài lư lẽ ngôn từ, phải tự thể nhận. BÀI 3: Tầm ngưu tu phỏng tích, Học đạo quư vô tâm. Tích tại ngưu hoàn tại, Vô tâm đạo dị tầm. Dịch: T́m trâu phải noi dấu, Học đạo quư vô tâm. Dấu c̣n trâu đâu mất, Vô tâm đạo dễ tầm. T́m trâu phải noi dấu, Học đạo quư vô tâm. Chúng ta t́m theo cái dấu trâu đi, nó đi hướng nào th́ ḿnh t́m theo hướng đó. Như vậy t́m trâu th́ phải theo dấu. C̣n học đạo th́ quư ở chỗ vô tâm. Dấu c̣n trâu nào mất, Vô tâm đạo dễ tầm. Chúng ta thấy những người chăn trâu, khi trâu đi lạc th́ họ theo cái ǵ t́m? Thấy cái dấu đi hướng nào th́ nhắm theo hướng đó mà t́m trâu. Theo dấu th́ nhất định gặp trâu, mà chữ “dấu trâu” ở đây là tượng trưng cho kinh điển Phật. Kinh điển Phật chúng ta học là những dấu vết để t́m chân lư, chân lư là dụ cho con trâu. Cái chân lư mà chúng ta đạt được là nương nơi giáo điển của Phật dạy. Từ giáo điển của Phật dạy chúng ta phải t́m lần đến chỗ cứu kính th́ thấy được chân lư. Người tu chúng ta nương theo giáo lư để tu, mà tu đi đến chỗ nào? Đi đến chỗ vô tâm. Cho nên học đạo quư ở chỗ vô tâm, vô tâm ví dụ như thấy được con trâu, mà học đạo ví dụ như theo dấu. Nếu cái dấu nó c̣n, th́ tự nhiên chúng ta biết rằng con trâu c̣n, theo hướng đó t́m tới nhất định sẽ gặp nó. Cũng vậy, người học đạo mà được vô tâm th́ đạo hiện tiền khỏi cần cái ǵ hết. Bao nhiêu kinh, bao nhiêu sách Phật dạy, đều cốt làm sao chúng ta tu dẹp bỏ hết những tâm điên đảo vọng tưởng. Điên đảo vọng tưởng hết gọi là vô tâm, mà vô tâm th́ thấy đạo. Bốn câu kệ này nói rơ con đường để chúng ta t́m chân lư. Muốn t́m chân lư th́ phải nương kinh điển giống như người chăn trâu t́m trâu, noi theo dấu th́ sẽ gặp. Người học đạo khi nào tâm sạch được vọng tưởng điên đảo, lúc đó đạo hiện tiền không phải đi kiếm ở đâu, ở nơi nào. BÀI 4: Sanh tùng hà xứ lai? Tử tùng hà xứ khứ? Tri đắc lai khứ xứ, Phương danh học đạo nhân. Dịch: Sanh từ chỗ nào đến? Chết sẽ đi về đâu? Biết được chỗ đi đến, Mới gọi người học đạo. Chúng ta tu bao nhiêu năm rồi có biết ḿnh sanh từ đâu đến chưa? Có biết chắc chết ḿnh đi về đâu chưa? Mù mù mịt mịt. Ở đây nói nếu người học đạo th́ phải biết từ đâu đến, chết đi về đâu. Biết được hai cái này th́ trong Tam minh ít nhất cũng chứng được Túc mạng minh. Chúng ta tu không phải là làm cho có công đức, có phước đức để dành đời sau hưởng, mà phải phăng t́m cho ra trước khi đến đây ḿnh là ǵ? Ở xứ nào đến đây? Đó là câu hỏi thứ nhất. Khi chúng ta nhắm mắt đi rồi sẽ về đâu? Đó là câu hỏi thứ hai. Nếu thấy được như vậy, biết được như vậy, mới là người học đạo chân thật. Trọng tâm của người học đạo là phải giải quyết những vấn đề đó. Tôi đă dẫn khi Thái tử Tất-đạt-đa đi tu, Ngài thắc mắc những vấn đề đó. Nghĩa là con người từ đâu mà đến, chết sẽ đi về đâu? Và làm sao giải quyết được vấn đề sanh tử. Đó là những vấn đề thắc mắc mà mỗi người tu, ai cũng phải ôm ấp trong ḷng, không bao giờ tự măn. Không phải tu cất được chùa to, được số bổn đạo lớn, tự măn bao nhiêu đó đủ rồi. Đó chỉ là phước đức hữu lậu thôi, không giải thoát sanh tử được. Muốn giải thoát sanh tử th́ phải biết được chỗ đến chỗ đi, mới gọi là người học đạo chân chính. * * * Một hôm Sư thảnh thơi ngâm hai bài kệ dặn ḍ người tại gia: BÀI 1: Thành thị du lai ngụ tự chiền Tùy cơ ứng hóa mỗi thời nhiên. Song chiêu nguyệt đáo sàng thiền mật, Tùng tiếu phong xuy tĩnh khách miên. Sắc ánh lâu đài minh sắc diệu, Thanh truyền chung cổ diễn thanh huyền. Nguyên lai tam giáo đồng nhất thể, Nhậm vận hà tằng lư hữu thiên. Dịch: Từ thành thị đến nghỉ chùa chiền, Tùy cơ ứng hóa lẽ đương nhiên. Song vời trăng đến giường thiền mát, Gió thổi thông cười khách ngủ yên. Lầu đài rực rỡ, màu huyền diệu, Chuông trống vang rền, tiếng thâm uyên. Ba giáo nguyên lai đồng một thể, Hồn nhiên đâu có lẽ nào thiên. Từ thành thị đến nghỉ chùa chiền, Tùy cơ ứng hóa lẽ đương nhiên. Đây là Ngài nhắc nhở người tại gia, cốt diễn tả lại cái cảnh người ở thành thị rồi dừng nghỉ lại ở chùa chiền, tùy cơ mà ứng hóa, đó là lẽ thường. Song vời trăng đến giường thiền mát, Gió thổi thông cười khách ngủ yên. Ban đêm có ánh trăng soi cửa sổ, chiếu vào giường thiền êm đềm ngọt ngào. Khách là bậc đạo nhân (tĩnh khách) nằm ngủ dưới tùng reo gió thổi, h́nh ảnh rất đẹp. Lầu đài rực rỡ, màu huyền diệu, Chuông trống vang rền, tiếng thâm uyên. Nhà cửa màu sáng rỡ để biện minh sắc vi diệu, rồi tiếng chuông trống vang lên diễn bày tiếng nhiệm mầu. Nương sắc, nương thanh cụ thể để nhận ra sắc thanh vô tướng. Ba giáo nguyên lai đồng một thể, Hồn nhiên đâu có lẽ nào thiên. Ba giáo tức là Phật – Khổng – Lăo. Đây là chủ trương tam giáo đồng nguyên của Phật giáo đời Trần. Ba giáo tuy khác, nhưng thể vẫn đồng. Dù cho có giáo này, giáo kia khác biệt, nhưng không có lệch, không có riêng, chỉ cùng một thể. BÀI 2: Thượng sĩ thường du Bát nhă lâm, Trần cư bất nhiễm liễu thiền tâm. Liêm Khê Tŕnh thị minh cao thức, Tô Tử Hàn Văn khế diệu âm. Vạn tượng sâm la cao dị hiển, Nhất biều tạo hóa mật nan tầm. Nho nguyên đăng đăng đăng di khoát, Pháp Hải trùng trùng nhập chuyển thâm. Dịch: Thượng sĩ từng chơi cảnh tùng lâm, Phong trần không vướng hội thiền tâm. Liêm Khê, Tŕnh Hiệu người thông suốt, Tô Tử, Hàn Văn hiểu diệu âm. Muôn ngàn cảnh vật cao dễ thấy, Tạo hóa một bầu kín khó tầm. Nguồn Nho thăm thẳm lên càng rộng, Bể Thích trùng trùng xuống lại thâm. Bài này nói thêm cho rơ ư nghĩa Phật với Khổng không có khác và cũng đều là cao siêu, rộng răi. Thượng sĩ từng chơi cảnh tùng lâm, Phong trần không vướng hội thiền tâm. Những hàng thượng sĩ đi dạo những cảnh chùa. Đến cảnh chùa mà không dính ǵ với gió bụi - phong trần tức là gió bụi, th́ người đó hiểu được tâm thiền. Đây Ngài nói về hàng thượng sĩ là các bậc Nho gia đến viếng cảnh chùa, ḷng không vướng bận gió bụi thế tục th́ người đó có thể hội được tinh thần thiền. Liêm Khê, Tŕnh Hiệu người thông suốt, Tô Tử, Hàn Văn hiểu diệu âm. Liêm Khê tên là Chu Đơn Duy, một học giả nổi tiếng thời Bắc Tống, ở miền sông Liêm Khê cho nên người ta kêu ngài là Liêm Khê. C̣n Tŕnh Hiệu là Tŕnh Y Xuyên. Hai vị đó đều là nhà Nho nổi tiếng ở thời Tống. Rồi tới Tô Tử, Hàn Văn. Tô Tử là Tô Thức, tự là Tử Chiêm, hiệu là Tô Đông Pha, là thi nhân đời Tống làm đến chức Binh bộ thượng thư. Sau này ngộ lư thiền, ông tu thiền. C̣n Hàn Văn là Hàn Văn Công tức Hàn Dũ, ông này làm quan đời Đường Hiến Tông, rất ghét Phật giáo sau gặp ngài Đại Điên, ngộ được lư thiền. Diệu âm là tiếng ǵ? Như ông Tô Đông Pha nghe tiếng suối chảy liền ngộ làm bài thơ có câu: “Khê thinh tiện thị quảng trường thiệt, …” tức là “Tiếng suối chính là tướng lưỡi rộng dài của chư Phật”, hay như Tuệ Sĩ dịch: “Suối reo vẫn pháp âm bất tuyệt”. C̣n Hàn Văn Công th́ nghe tiếng gơ giường thiền của thị giả Tam B́nh mà biết đường vào. Như vậy đó là những nhà Nho mà hiểu được đạo Phật, thâm nhập được lư Thiền. Muôn ngàn cảnh vật cao dễ thấy, Tạo hóa một bầu kín khó tầm. Muôn cảnh muôn vật th́ hiện rơ dễ biết dễ thấy. C̣n cái bầu tạo hóa ḿnh t́m không ra, khó mà biết được. Nguồn Nho thăm thẳm lên càng rộng, Bể Thích trùng trùng xuống lại thâm. Hai câu này khen Nho và khen Phật: Nho th́ thăm thẳm, Thích th́ trùng trùng, bên nào cũng thênh thang, bên nào cũng cao siêu hết. Đó là chủ trương tam giáo đồng nguyên không khen bên nào, không chê bên nào. * * * Lại một hôm Sư rảnh rang dạy chúng: - Muốn cầu thấy Phật cứ nhận nơi chúng sanh, chỉ v́ chúng sanh mê không tự biết có Phật, chớ Phật đâu có làm mê chúng sanh. Ngộ được tự tánh của ḿnh th́ chúng sanh là Phật, mê tự tánh của ḿnh Phật là chúng sanh. Giữ được tự tánh của ḿnh b́nh đẳng th́ chúng sanh là Phật, để tự tánh ḿnh gian hiểm th́ Phật là chúng sanh. Muốn cầu thấy Phật cứ nhận nơi chúng sanh. Nghĩa là đừng t́m Phật ở chỗ nào, cứ ngay nơi chúng sanh mà thấy mà nhận. Chỉ v́ chúng sanh mê không tự biết có Phật, chớ Phật đâu có làm mê chúng sanh. Sở dĩ chúng ta không biết ḿnh có Phật là tại v́ ḿnh mê. Ngay nơi ḿnh đă có Phật mà không chịu nhận, không chịu biết cho nên mê. Mê tức là ḿnh quên Phật, thật ra Phật lúc nào cũng hiện tiền, lúc nào cũng sẵn sàng không có giấu diếm, không có trốn tránh ở đâu. Ngộ được tự tánh của ḿnh th́ chúng sanh là Phật, mê tự tánh của ḿnh Phật là chúng sanh. Hai câu này xác nhận, ngộâ được tự tánh của ḿnh th́ chúng sanh là Phật. Quư vị thử xác định xem, hiện giờ chúng ta là chúng sanh hay là Phật? Không ai dám nói. Không dám nói ḿnh là Phật, mà cũng không dám nói ḿnh là chúng sanh. Đây nói rất rơ, ngộ được tự tánh của ḿnh th́ chúng sanh là Phật. Nếu ngay nơi tánh của ḿnh - tánh ḿnh tức là tánh giác của ḿnh - ngộ được th́ chúng sanh là Phật. C̣n ngay tánh giác sẵn có của ḿnh mà quên, th́ Phật là chúng sanh. Q uư vị là “chúng sanh là Phật” hay là “Phật là chúng sanh”? Chúng ta đang Chúng sanh mà nói là Phật, th́ có vẻ cao quá. Nhưng sự thực, tự tánh của ḿnh tức là tánh giác, mà giác là Phật. Nếu nhận được tánh giác hay ngộ được tánh giác của ḿnh tức là nhận ra Phật. Tức là chúng sanh biến thành Phật. Có tánh giác tức là Phật rồi mà quên bẵng th́ Phật là chúng sanh! Như vậy chúng sanh và Phật cách nhau chừng bao xa? Thấy như bên cạnh thôi nhưng kiếm không ra! Chúng ta tu để thành Phật, không phải là chuyện thiên nan vạn nan, ngay nơi ḿnh mà nhớ tánh giác th́ chúng sanh là Phật, quên tánh giác th́ Phật là chúng sanh, gọn làm sao! Chỉ cần đổi chữ “quên” thành chữ “nhớ” là được. Chỉ có một chữ nhớ với chữ quên thôi. Thí dụ chúng ta học thuộc bài, lâu ngày quên, nếu ai nhắc một hai chữ, sực nhớ lại, đâu có khó. Chỉ cần nghe người ta gợi vài tiếng liền sực nhớ lại, như trở bàn tay. Từ chúng sanh trở thành Phật, là chuyện dễ dàng như trở bàn tay, để xuống là úp, lật lại là ngửa, úp là quên, lật ngửa lại là nhớ. Nhớ quên bên cạnh đó thôi mà không chịu nhớ mới đau! Năm này quên, năm nọ quên, cứ quên hoài và nhớ những chuyện hơn chuyện thua, chuyện phải chuyện quấy, chuyện được chuyện mất, chuyện vui chuyện buồn, chuyện thương chuyện ghét. Mấy chuyện đó th́ nhớ, c̣n tánh giác không chịu nhớ. Nhớ tánh giác là làm Phật, quên tánh giác là làm chúng sanh, mà nhớ chúng sanh th́ quên Phật chắc chắn rồi không nghi. C̣n nếu tất cả buồn thương giận ghét buông hết th́ trở lại nhớ Phật. Như vậy người tu chỉ khéo tỉnh, khéo giác th́ ngay nơi hiện đời thấy ḿnh với Phật không xa. Nếu không th́ muôn đời cũng không thấy Phật, lúc nào cũng thấy chúng sanh, khi nhắm mắt đi th́ theo nghiệp đi gặp chúng sanh nữa, tiếp tục vui buồn thương ghét nữa. Mất cái thân đó qua đời khác tiếp tục vui buồn thương ghét nữa nên gặp chúng sanh hoài, những mặt đó thay đi đổi lại thôi, mà cứ luẩn quẩn luân hồi. Nếu chúng ta nhớ Phật nhớ tánh giác th́ mọi cái vui buồn, thương ghét chỉ là đồ bỏ, không có giá trị ǵ hết, không thèm nghĩ tới, không thèm bàn luận th́ ngay nơi đây là Phật chớ đâu xa. Giữ được tự tánh của ḿnh b́nh đẳng th́ chúng sanh là Phật, để tự tánh ḿnh gian hiểm th́ Phật là chúng sanh. Tánh b́nh đẳng là sao? Như ở trong nội viện tăng, nội viện ni, mỗi bên trên năm mươi. Ai đối với năm mươi người này, không có thương ghét, b́nh đẳng như nhau, th́ người đó cũng gần thành Phật rồi. Nếu có người thân người sơ, có người thương người ghét, đó là gian hiểm. Bởi v́ có thương có ghét nên người nào chúng ta thương th́ che chở, người nào ghét, có lỗi một chút ḿnh bươi móc ra thành hai. Người ḿnh thương, họ hỏi một ḿnh muốn nói tới hai c̣n người ḿnh ghét họ tới hỏi, ḿnh làm thinh không muốn trả lời. Như vậy là gian hiểm chứ ǵ? Chúng ta nghe nói gian hiểm tưởng đâu là chỉ những kẻ lưu manh, nhưng không phải, hễ có thương có ghét là có gian có hiểm. Đó là một lẽ thực. Bởi vậy cho nên giữ được cái tâm b́nh đẳng th́ chúng sanh là Phật. Tâm ta sẵn có Phật. Phật sẵn nơi ḿnh đó là chân Phật. Nếu tự tâm không Phật th́ t́m chân Phật nơi nào? Nên kinh nói: “Tâm sanh th́ các pháp sanh, tâm diệt th́ các pháp diệt”. Phàm phu tức là Phật, phiền năo tức Bồ-đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật. Niệm trước chấp cảnh là phiền năo, niệm sau ĺa cảnh là Bồ-đề. Tâm ta sẵn có Phật. Phật sẵn nơi ḿnh đó là chân Phật. Ngài chỉ Phật cho chúng ta thấy tường tận, tâm ta sẵn có Phật. Ai cũng đều có Phật hết v́ ai cũng có tâm. Phật sẵn nơi ḿnh mới là Phật thật. Tại sao? Bởi v́ Phật sẵn nơi ḿnh mới là Phật giác, giác mới thật. Vậy mà Phật thật chúng ta lại coi thường, c̣n ông Phật ngồi làm thinh trên bàn th́ ḿnh lạy ḿnh thích. Nếu tự tâm không Phật, th́ t́m chân Phật nơi nào? Tự tâm ḿnh không Phật, c̣n t́m ở đâu ra chân Phật. Buồn thương giận ghét, hơn thua phải quấy là cái tướng tạm bợ sanh diệt hay là cái tướng thật? Có khi buồn có khi thương, có khi giận có khi ghét, chợt cái này chợt cái kia. C̣n cái hằng giác hằng tri tạm bợ hay là chân thật? Bỏ cái tạm bợ sống với cái chân thật là dễ hay khó? Như vậy th́ Phật không xa, ở bên cạnh thôi, chúng ta khéo một chút sẽ thấy rơ ràng. Những câu này là những câu chỉ thẳng. Tất cả cái tâm buồn thương giận ghét, hơn thua phải quấy đó lặng hết th́ ngay tâm này là Phật rồi, ngay đó cũng là thiền rồi, c̣n t́m đâu nữa? Nên kinh nói: “Tâm sanh th́ các pháp sanh, tâm diệt th́ các pháp diệt”. Ngay tâm chân thật mà để cho niệm khởi gọi là tâm sanh, tâm sanh th́ tất cả các pháp buồn thương giận ghét… đều theo đó sanh, c̣n nếu tâm diệt th́ các pháp buồn thương giận ghét theo đó diệt, chớ không có ǵ lạ hết. Phàm phu tức là Phật, phiền năo tức Bồ-đề. Hai chữ “tức” này có nhiều người cho là không hợp lư. Tại sao chúng sanh tức là Phật? Tại sao phiền năo tức là Bồ-đề? Phật với phàm phu khác, phiền năo với Bồ-đề khác. Đó là cái nh́n theo đối đăi. C̣n đúng với tinh thần của Thiền tông hay là của Đại thừa th́ như trên đă nói. Nếu chúng ta c̣n có tâm buồn thương giận ghét, hơn thua phải quấy… th́ chúng ta là phàm phu. Nếu tâm buồn thương giận ghét… lặng xuống th́ vô tâm, vô tâm là Phật. Như vậy th́ người nào nhạy dễ buồn, dễ thương, dễ ghét, th́ người đó chắc chắn là phàm phu, phàm phu thứ thiệt. C̣n nếu người nào thản nhiên, tất cả buồn thương giận ghét không dính mắc th́ từ phàm phu dễ chuyển thành Phật. Cho nên phàm phu tức là Phật. V́ buông hết những niệm buồn thương giận ghét… th́ vô tâm, mà vô tâm tức là Phật. Phiền năo tức là Bồ-đề, phiền năo chính là những bứt rứt, bực bội, lo buồn; Bồ-đề tức là sáng suốt giác ngộ. Hai cái đó không tách rời nhau. Thí dụ như có người bị những điều bức bách buồn khổ quá không thể chịu nổi, liền vô chùa xin xuất gia, họ tu hành tinh tấn, rất thanh tịnh. Như vậy ở cảnh phiền năo bức bách nhờ đó họ chuyển, đi tu rồi được thanh tịnh, th́ phiền năo tức Bồ-đề. Đó là tôi ví dụ xa, c̣n ví dụ gần, như chúng ta tu mà ai đó thấy ḿnh tu tinh tấn đáng khen, nhưng thay v́ khen, họ thử. Hôm nào ḿnh đang đi nghiêm trang tề chỉnh, nghe họ nói: Gă đó tu giả dối, thấy người ta làm bộ nghiêm chỉnh. Ḿnh dễ phiền năo không? Người ta chọc cho ḿnh phiền năo, nhưng nghe xong ḿnh cười, không buồn, không giận ǵ hết th́ có phải Bồ-đề không? Như vậy th́ bên cạnh phiền năo mà chúng ta không lầm, không khởi buồn thương giận ghét th́ đó là Bồ-đề, không phải t́m Bồ-đề ở đâu. Đức Phật giác ngộ ngay trong thế gian này. Ngay trong cảnh đau khổ của chúng sanh mà Ngài giác ngộ, đó là trong phiền năo mà Ngài đạt Bồ-đề. Chúng ta tu cũng vậy, có nhiều người cứ nghĩ nguyện làm sao đời tu từ khi vào đạo cho tới khi thành Phật đừng có ǵ trở ngại hết. Nếu nguyện như vậy tu chừng bao nhiêu kiếp thành Phật? Phật dạy ba vô số kiếp, nếu nguyện như vậy th́ chắc mười vô số kiếp. Bởi v́ tu mà mọi việc đều êm xuôi vui vẻ hết, thấy ḿnh ngon lành quá rồi cứ chơi thong thả, có ǵ đâu mà tu! C̣n bị kẻ này rầy, kẻ kia mắng, đáng khóc, đáng buồn v.v…, nếu những lúc đó chúng ta vẫn tỉnh, vẫn sáng, không buồn, không phiền, th́ đó là cơ hội để thấy phiền năo tức Bồ-đề, gặp suôn sẻ hết th́ chắc không bao giờ thành Bồ-đề được. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau giác là Phật. Ở trên nói một đời người chuyển phiền năo thành Bồ-đề hay là chuyển phàm phu thành Phật. Bây giờ chỉ cần trong từng tâm niệm, tâm niệm trước mê là phàm phu, tâm niệm sau giác là Phật. Làm phàm phu từng tâm niệm, làm Phật cũng từng tâm niệm. Huynh đệ nói vài câu xúc phạm bản ngă chúng ta một chút, vừa chớm giận, đó là niệm phàm phu rồi. Ngay sau đó ḿnh nghĩ “tu mà c̣n bản ngă sao?” liền dừng, hết giận th́ niệm đó là niệm Phật. Như vậy đang làm phàm phu chuyển qua làm Phật. Nhưng làm Phật một lúc lại quên. “Ờ hồi năy nói hơi nặng” th́ thành phàm phu trở lại. Rồi lại tỉnh “Nói đâu có ǵ nặng nhẹ, qua rồi mất đâu có thiệt” th́ lúc đó làm Phật. Như vậy th́ một ngày ḿnh có mấy lần làm phàm phu, mấy lần làm Phật? Không biết phàm phu nhiều hay Phật nhiều? Nếu ngày nào Phật cũng nhiều hết, niệm Phật được liên tục th́ càng hay. Niệm trước chấp cảnh là phiền năo, niệm sau ĺa cảnh là Bồ-đề. Chấp cảnh tức là trần cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc. Nếu niệm trước ḿnh chấp sắc thanh hương vị xúc th́ đó là phiền năo. Niệm sau ĺa th́ Bồ-đề. Thí dụ như hôm nào có ai cúng dường được một món ăn hơi vừa miệng thôi không dám nói ngon, huynh đệ chia vừa tới ḿnh th́ hết trơn, ai cũng ăn ngon lành mà ḿnh không có ǵ hết, th́ lúc đó ra sao? Nếu mà chấp cảnh th́ có phiền năo không? Chấp món ăn đó là thiệt, món ăn đó là ngon, th́ tự nhiên phiền năo. Vừa khởi cái chấp tại sao món đó cho người kia không cho ḿnh, liền sanh phiền năo. Nhưng sau đó nói: “Ôi ăn uống một chút rồi cũng tiêu mất hết, có ǵ thậät đâu?” Không thèm chấp nữa th́ Bồ-đề liền. Từ những ví dụ nhỏ quư vị xét ra những việc lớn. Nghĩa là phiền năo với Bồ-đề kế một bên, nên người biết tu th́ một ngày khởi chừng năm lần phiền năo, mà phải mười lần Bồ-đề th́ tốt, rồi lần lần cho tới mười hai, hai mươi lần Bồ-đề. Phiền năo giảm, Bồ-đề tăng mới được. Đó là câu cầu chúc cho nhau. Cầu chúc Bồ-đề tăng trưởng là vậy đó. Bởi v́ chúng ta ngày nào cũng có những cái vừa ư, không vừa ư. Không vừa ư th́ phiền năo, nếu chúng ta biết xả, không chấp vào đó, chúng ta bị thiệt tḥi, mà không cho là quan trọng th́ ĺa phiền năo được Bồ-đề, như thế là niệm Bồ-đề. Mong rằng tất cả quư vị từ đây về sau Bồ-đề tăng trưởng luôn luôn, c̣n phiền năo th́ suy giảm mỗi ngày, giảm cho thấy được chớ không phải giảm chầm chậm. Lúc chưa hiểu th́ mỗi ngày một trăm lần phiền năo, giờ hiểu rồi c̣n chín mươi, c̣n tám mươi, chừng mười bữa th́ hết trơn. Giảm như vậy là hay tuyệt. Tự thể của chân tâm chẳng phải chỗ ta nói bày đến được, trong suốt như hư không không bờ mé, như tấm gương trong sạch tṛn sáng, khen chê khó đến kịp, nghĩa lư khó suốt thông. Bây giờ Ngài chỉ tâm thể của chúng ta, tự thể của chân tâm không thể chỉ bày ra được, mà cũng không thể nói đến được. Nó luôn luôn trong suốt như hư không, không có bờ mé. Như vậy th́ sao? Cụ thể một chút th́ thấy ngay tâm thể của ḿnh. Như con mắt chúng ta thấy cảnh, lỗ tai chúng ta nghe tiếng, lưỡi chúng ta nếm vị, mũi chúng ta ngửi mùi, thân chúng ta xúc chạm. Nếu con mắt không bệnh, không mù th́ có lúc nào không thấy? Nếu lỗ tai không điếc th́ lúc nào không nghe? Nếu cơ thể ḿnh lành lặn không bệnh th́ lúc nào không biết xúc chạm? Như vậy cái tướng nghe, ngửi, nếm, xúc chạm hiện tiền. Đưa một vật ǵ vào lưỡi là biết ngọt chua ngay. Lúc nào cũng biết. Ở mũi th́ thơm, hôi ǵ ḿnh cũng nghe. Như vậy cái biết nó hiện ở mắt, hiện ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, luôn luôn lúc nào cũng hiện tiền. Nhưng cái biết đó có sinh có diệt, có động có tịnh ǵ không? Chúng ta nh́n ra thấy núi, thấy hồ, thấy cây cối, cái thấy đó tướng mạo ra sao? Không có một chút h́nh tướng. Không có h́nh tướng mà mờ đục hay trong suốt? Cái hay thấy này không bị cái ǵ làm cho mờ đục hết. Như vậy th́ nó có không? Bây giờ có người hỏi: “Khi thấy núi thấy hồ, thấy rừng thấy cây, cái thấy của Thầy ra sao?” Chúng ta trả lời thế nào? Không có lời để diễn tả! Khi không diễn tả được th́ người ta cho ḿnh là nói dóc, nói vô lư. Cái diễn tả không được, th́ nó không có nhưng tuy dường như vô lư mà thực t́nh có. Nếu nói cái thấy tôi thế này thế kia, cái thấy tôi xanh, vàng, đỏ, trắng, th́ dường như có lư mà thật ra là vô lư là sai, là trật. Cái thấy này trong suốt, hiện tiền, không giới hạn cho nên giống như tấm gương trong sạch tṛn sáng, khen chê khó đến kịp, nghĩa lư khó suốt thông. Đó là nói ở mắt, c̣n ở tai, ở mũi, ở lưỡi cũng vậy, làm sao mà diễn tả được cái đó ở nơi ḿnh. Không thể lấy cái có không, nơi này chốn nọ mà xét tột được chỗ u huyền của nó. Cũng không thể lấy trí khôn và ngôn ngữ mà bàn đến chỗ huyền diệu của nó. Chỉ có ai ngộ được chân tâm th́ hiểu ngay nơi ḿnh. Ví như muôn thứ hương thơm chỉ đốt một ḷ là hiểu hết mùi thơm. Như vào bể cả tắm, chỉ cần hớp một ngụm nước là biết hết toàn vị của bể cả. Không thể lấy cái có không, nơi này chốn nọ mà xét tột được chỗ u huyền của nó. Tự thể chân tâm của chúng ta không thể lấy cái có, cái không hoặc là nơi này, chốn nọ để mà xét tột cái chỗ u huyền của nó được. Chỉ lấy cái thấy mà nói, chúng ta đă không thể diễn tả nổi. Cũng không thể lấy trí khôn và ngôn ngữ mà bàn đến chỗ huyền diệu của nó. Dù khôn đến đâu cũng không có cách ǵ mà diễn tả ra được nó, cho nên không có dùng ngôn ngữ mà diễn tả. Thấy th́ cứ thấy thôi. Chỉ có ai ngộ được chân tâm th́ hiểu ngay nơi ḿnh. Ai mà nhận ra được chân tâm ḿnh th́ người đó biết rơ nó đang hiện tiền, không nghi ngờ một tí nào hết. Ví như muôn thứ hương thơm chỉ đốt một ḷ là hiểu hết mùi thơm. Như vào bể cả tắm, chỉ cần hớp một ngụm nước là biết hết toàn vị của bể cả. Cái chân thật của ḿnh hiện tiền sẵn, khi nào ngộ được th́ ḿnh mới biết, không ngộ th́ không biết. Ngộ được tức biết ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ư đều có cái đó giống như đốt chừng vài ba miếng trầm, lên khói th́ biết trầm thơm. Cũng như hớp một ngụm nước biển th́ biết toàn thể nước biển cũng mặn như thế. Chốn chân thật thâm sâu lặng lẽ, giác ngộ th́ bụi trần lắng sạch tâm thể trong ngần; dứt hết mối manh danh tướng của ngoại cảnh, sạch hết những năng sởû ở trong tâm. Hiểu lư này rồi, mới thấy thương mọi người chung quanh, có tâm thể trong suốt hiện tiền mà cứ để bị che phủ hoài. Ngồi lại hai người ba người th́ nói chuyện huynh này, huynh nọ, huynh kia. Huynh này hơn huynh nọ thua, huynh này phải huynh kia quấy. Ngồi lại cứ bao nhiêu đó mà bàn, tới gần đi ngủ cũng c̣n tiếc, muốn bàn thêm một vài chuyện nữa cho hết ư. Lúc tôi c̣n đi học, ở tại trường không đi đâu, lâu lâu có huynh đệ đi về quê trở lại, tôi mừng lắm, không phải mừng bánh trái, mà cốt để hỏi thăm chuyện này chuyện nọ ở quê ra sao. Như vậy đó, người này đi về kể cho người kia nghe, người kia nghe cũng hơi phấn khởi rồi kể người nọ. Như thế mới vui, chứ c̣n mỗi người một góc cú rũ, mạnh ai nấy sống buồn lắm. Cho nên cứ đem chuyện này chuyện nọ, kể cho nhau nghe đầy lỗ tai. Tối ngủ cũng nhớ chuyện đâu đâu, ngồi thiền tụng kinh cũng nhớ chuyện thiên hạ. Như vậy tức là cứ để cho bụi phủ lấp măi măi, tâm không bao giờ được yên lặng, được trong sáng. Cho nên người biết tu, mọi chuyện hơn thua phải quấy xem như tṛ trẻ con, không có ǵ là quan trọng hết. Điều quan trọng là làm sao ḿnh đừng mê. Đừng mê tức là đừng để cho bụi trần chen vào. Bao nhiêu bụi trần v́ chúng ta ham phủ quá nó mới dính, chớ nếu người ta kể mà ḿnh không quan tâm, không có chú ư th́ có dính đâu? Tôi hay nói chúng ta thích làm cảnh sát quốc tế. Chuyện ǵ của thiên hạ đâu đâu ḿnh cũng muốn chen vào để phân xử, chuyện phải quấy ở xứ nào, cũng muốn ngồi phê b́nh, cho vậy là khôn. Mà không ngờ ḿnh cứ phủ măi, cái tâm trong sáng bị vùi lấp trở thành mờ tối. Khi chúng ta giác ngộ, tất cả những bụi trần bên ngoài được lắng sạch xuống, tâm thể được trong ngần, dứt hết mối manh danh tướng của ngoại cảnh, sạch hết những năng sở trong tâm. Bởi ban đầu bất giác, bỗng khởi ra vọng động, chiếu soi lại tự tâm, theo cái chiếu soi ấy mà sanh ra tâm trần nên gọi là chúng sanh. Như gương hiện h́nh tượng, chợt có thân căn. Đây là theo kinh Lăng Nghiêm. Chúng ta sẵn có tánh giác, nhưng tánh giác đó không giữ tự tánh, không giữ cái nguyên vẹn của nó, bỗng khởi niệm chiếu soi lại nó, xem tánh giác ḿnh là ǵ? Đó là từ bất giác bỗng khởi ra vọng động, bởi có chiếu soi lại cho nên có năng có sở, chiếu soi lại tự tâm. Rồi theo cái chiếu soi ấy mà sanh ra tâm, trần. Trong th́ tâm, ngoài th́ cảnh, có tâm có trần nên gọi là chúng sanh. Như gương hiện h́nh tượng, chợt có thân căn. Lúc đó giống như cái gương để ở ngoài trời, có bao nhiêu h́nh người, h́nh cảnh đều hiện trong đó hết cho nên nói là có thân căn. Từ đó chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, chấp tướng đuổi theo danh, chứa măi những vọng trần ứ đọng, kết măi những vọng thức liên miên. Đem túm bọc chân giác vào giấc mê đêm, đắm ch́m mê muội trong tam giới. Làm mù ḷa con mắt trí ở trong ngơ tối, khúm núm cúi ḷn trong chín loài. Ở trong cơi chẳng đổi dời, bỗng dưng luống chịu kiếp luân hồi. Từ cái giác minh mà bỗng khởi lên minh giác, dấy niệm thành ra có năng có sở biến thành chúng sanh, giống như gương là năng và cảnh hiện vào gương là sở, cho nên nói có thân có tâm. Khi thấy trong có thân ngoài có cảnh rồi, từ đó chân tâm bị dời đổi, căn tánh bị sai lạc, rồi chấp vào tướng đuổi theo danh. Có cảnh phải đặt tên cảnh, cảnh ǵ, tên ǵ? Rồi theo cảnh, theo danh đó chứa măi những vọng trần ứ đọng. Những vọng từ h́nh ảnh ḿnh tích lũy trong ḷng, ứ đọng kết măi những vọng thức liên miên. Đến giờ ngồi thiền, những cái đó nó trào lên, trào lên hoài không ngừng, không hết. Đem túm bọc chân giác vào giấc mê đêm, đắm ch́m mê muội trong tam giới. Thể chân giác của ḿnh là cái thật rỗng thênh mà bây giờ túm bọc nó lại, đi vào chỗ mê. Rồi từ đó đắm ch́m mê muội trong tam giới, lăn lộn qua lại không dừng, khi nào dứt được chúng mới giải thoát được. Làm mù ḷa con mắt trí ở trong ngơ tối. Chúng ta đă có con mắt trí, bây giờ nó dồn lại thành một con người, một con vật, th́ tự nhiên con mắt trí bị mù ḷa, bị hạn chế ở trong một người, một thân thể, cho nên nói đi trong ngơ tối. Khúm núm cúi ḷn trong chín loài. Lẽ ra th́ chúng ta thênh thang tự tại mà không chịu, lại chui ḷn đầu này, đầu kia để làm người, làm thú khổ chưa? Đó là đi trong chín loài. Ở trong cơi chẳng đổi dời, bỗng dưng luống chịu kiếp luân hồi. Cái thể thanh tịnh chân giác là cái không đổi dời, không sanh diệt mà bỗng dưng chui vào trong chỗ sanh tử, chịu kiếp luân hồi. Chúng ta rất thảnh thơi, rất tự tại mà không giữ được cái thảnh thơi tự tại để đi vào trong chỗ xấu xa khổ sở, chịu những luân hồi rồi than thân trách phận. Như vậy chúng ta than trách ai? Có nhiều người nói chán cái kiếp người quá, không muốn làm người nữa, rồi muốn làm chim, làm cây thông… đủ thứ. Ai xúi giục chúng ta làm kiếp người đây? Chỗ khác th́ nói tại cái này, tại cái kia, theo nhà Phật th́ chính cái mê dẫn chúng ta đi, làm cho chúng ta phải chịu khổ. Cho nên: Trong pháp vô thoát mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân. Như con tằm mùa xuân làm kén tự giam ḿnh, con thiêu thân mùa thu tự nhào vô đèn thiêu xác. Đem những sợi tơ nhị kiến buộc lấy nghiệp căn khổ sở, dùng đôi cánh của ḷng tham mù quáng toan dập tắt ṿng lửa tử sanh. Trong pháp vô thoát mà tự chuốc sự trói buộc nơi thân. Vô thoát tức là không có mở. Tại sao không có mở? Bởi v́ có cái ǵ trói đâu mà mở. Trong pháp vô thoát là trong chỗ không có trói, không mở mà bây giờ tự ḿnh trói buộc lấy thân ḿnh. Tâm thể không sanh không diệt, không thương không ghét, không phải không quấy, không có cái ǵ gọi là trói buộc. Bởi không trói buộc cho nên không có giải thoát chỉ tự ḿnh chuốc lấy sự trói buộc. Như con tằm mùa xuân làm kén, tự giam ḿnh. Như con tằm tới mùa Xuân làm kén, khi kén đầy đủ rồi, người ta lấy kén bỏ vô nồi nước sôi luộc lên lấy tơ. Như vậy, chúng ta làm kén để nhốt ḿnh, rồi giết ḿnh luôn chớ có ai làm cho ḿnh! Nếu con tằm không có kén th́ chắc không ai nấu nó để lấy tơ. Con thiêu thân mùa thu tự nhào vô đèn thiêu xác. Mùa thu con thiêu thân nhiều lắm, nó bay vô đèn thiêu xác. Đem những sợi tơ nhị kiến. Nhị kiến tức là chấp hai bên. Buộc lấy nghiệp căn khổ sở, dùng đôi cánh của ḷng tham mù quáng toan dập tắt ḍng lửa tử sanh. Khi c̣n mang cái chấp hai, th́ luôn luôn dẫn ḿnh đi trong cái khổ, trong cái trói buộc. Dùng đôi cánh của ḷng tham mù quáng, mà mong dập tắt ḍng lửa tử sanh th́ không bao giờ thoát sanh tử được. Chúng ta lỡ ở trên thế gian này, cái ǵ cũng thấy hai hết. Thấy hai là nhân của sanh tử. Nếu không c̣n thấy hai th́ hết sanh tử. Chúng ta cứ mở miệng là thấy hai, cho đóù là lẽ thật nên khó mà diệt được. V́ thế chúng ta cứ tiếp tục đi trong sanh tử liên miên không có ngày dừng. Tu không phải khó, mà khó v́ huân tập đă quá sâu, bàn nói cái ǵ cũng hỏi cái này có hay không, phải hay quấy, thiệt hay giả, luôn luôn tạo cớ cho ḿnh phải thấy hai. Người ta nói phải th́ ḿnh chịu, người ta nói quấy th́ ḿnh không ưa, rồi có tham có sân. Như vậy là cái nhân để ḿnh tạo nghiệp, c̣n nếu hết thấy hai th́ thôi hết tạo nghiệp. Đó là chuyện hiển nhiên. Lại có những kẻ tà căn ngoại chủng, tiểu trí quyền cơ; chúng không hiểu rơ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến chấp của ngă nhân (ta người). Chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng tướng tách từng mảnh bụi của từng vật thể để t́m hiểu biết. Làm như thế, tuy nói rằng nếm được mùi tĩnh lặng, thầm hợp với lư không, nhưng không biết đó là cái lối làm chôn vùi chân tánh, trái ngược chân giác, chẳng khác nào kẻ đă biện rơ sắc xanh đỏ trong mắt, chỉ lo tắt quầng sáng của ngọn đèn, không lo xét tột cùng cái huyễn thân ở trong thức, lại luống chạy trốn cái bóng rỗng dưới mặt trời. Như thế chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực. Chẳng khác nào đổ nước vào băng, ném củi vào lửa. Có biết đâu, bóng ḷa hiện ra màu xanh, bóng rỗng theo nơi thân. Nếu chữa khỏi bệnh ḷa ở mắt th́ bóng xanh kia tự mất, diệt thân huyễn chất này th́ bóng nọ không c̣n. Lại có những kẻ tà căn ngoại chủng, tiểu trí quyền cơ; chúng không hiểu rơ nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến chấp của ngă nhân (ta người). Những người có chủng tử tà ma ngoại đạo, tiểu trí quyền cơ, không hiểu được nguồn bệnh của sanh tử, không biết gốc kiến chấp của ngă nhân - nghĩa là kiến chấp từ hai bên mà ra. Chỉ muốn tránh chỗ huyên náo, bỏ nơi hoạt động, cố phá từng tướng, tách từng mảnh bụi của từng vật thể để t́m hiểu biết. Cho trong chúng ồn ào quá, khó tu quá, đi kiếm trong non, trong núi cất cái am nho nhỏ ngồi tu, rồi phân tích từng mảnh bụi, từng sự vật để quán chiếu, nghĩ như vậy là hay. Làm như thế tuy nói rằng nếm được mùi tĩnh lặng, thầm hợp với lư không, nhưng không biết đó là cái lối làm chôn vùi chân tánh, trái ngược chân giác, chẳng khác nào kẻ chẳng biện rơ xanh đỏ trong mắt, chỉ lo tắt quầng sáng của ngọn đèn. Ví dụ như chúng ta đốt đèn dầu, nếu mắt ḿnh nhậm, th́ nh́n thấy có quầng xanh quầng đỏ, chúng ta lại cho là tại cái đèn, tắt đèn để không thấy quầng xanh quầng đỏ. Như vậy đúng không? Quầng xanh, quầng đỏ từ đèn hay từ mắt của ḿnh? Không biết gốc từ mắt bệnh để trị, mà cứ chấp cái đèn có ṿng xanh ṿng đỏ th́ có thông minh không? Cũng vậy, không biết cái chấp hai bên của ḿnh sanh ra đủ thứ phiền năo, không chịu lo diệt nó, lại nói ở đây ồn quá tu không được, chạy tránh chỗ khác dễ tu. Như vậy chỉ tránh cảnh mà không tránh cái mê cái loạn của tâm. Ư này rất là rơ, chúng ta có nhiều người mắc bệnh đó. Cho nên mới nói rằng chỉ tránh chỗ huyên náo, bỏ hoạt động rồi ngồi quán phân tích, lúc đó cũng được chút ít yên ổn hợp với lư không, nhưng làm như vậy th́ đă chôn vùi chân tánh, trái ngược với chân giác. Chân tánh, chân giác giống như cái đèn, cái đèn không có hiện màu xanh màu đỏ, tại con mắt bệnh. Không lo trị bệnh mà cứ lo tắt đèn. Không lo xét tột cùng cái huyễn thân ở trong thức, lại luống chạy trốn cái bóng rỗng ở dưới mặt trời. Như chúng ta đi dưới ánh mặt trời thấy có bóng. Chúng ta ghét cái bóng ḿnh muốn chạy trốn nó, mà cứ chạy măi ngoài trời chừng nào hết bóng? Có người nói không cần chạy đâu, chỉ vào trong chỗ mát th́ hết bóng. Nhưng ở đây Ngài muốn nói sợ bóng không bằng sợ thân. Thân này từ huyễn thức tạo nên, bây giờ không biết dẹp trừ cái huyễn thức đó, mà cứ sợ cái bóng vô lư. Cái gốc không sợ mà sợ cái ngọn. Bởi có thân mới có bóng, chúng ta sợ bóng th́ phải biết chuyển cái thân. Nếu thân không c̣n, th́ bóng làm ǵ có. Như thế chỉ lao nhọc tinh thần, tốn hao sức lực. Như vậy th́ tốn công mà không có lợi. Chẳng khác nào đổ nước vào băng, ném củi vào lửa. Cho nên đây mới giải thích lại. Có biết đâu bóng ḷa ở ngay màu xanh, bóng rỗng theo ngay nơi thân, bóng ḷa tức là bóng xanh vàng, nó từ cái ḷa ở con mắt. C̣n cái bóng ở bên cạnh thân ḿnh, đó là cái bóng rỗng theo thân. Có biết đâu ḷa hiện ra màu xanh, bóng rỗng theo nơi thân, nếu chữa khỏi bệnh ḷa ở mắt th́ bóng xanh kia tự mất, diệt thân huyễn này th́ bóng nọ không c̣n. Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi ḿnh, bỏ ngoại cảnh mà xem ở tự tâm, th́ Phật nhăn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt. Ta phải lấy lưỡi dao trí của tâm tự giác mà rạch lấy ra tâm châu trong những mối dây quấn chặt. Phải dùng mũi giáo tuệ chặt đứt lưới kiến chấp trong trần cảnh. Ấy chính là tông chỉ cùng tâm cái chân thuyên đạt thức đó vậy. Nếu biết quay ánh sáng soi lại nơi ḿnh. Kết thúc Ngài nói rất rơ: Chúng ta tu nếu biết quay ánh sáng xoay lại nơi ḿnh, là phải phản quang tự kỷ. Bỏ ngoại cảnh mà xem ở tự tâm. Nghĩa là lúc nào cũng đừng chạy theo trần cảnh, phải sống với tự tâm. Phật nhăn sáng suốt, bóng nghiệp tự tan, pháp thân hiện ra, những vết trần tự diệt. Chúng ta sống ở cơi đời này mà muốn quay lại tự tâm rất là khó. Tại sao? Bởi v́ con mắt lúc nào cũng ngó ra, bắt nó ngó vào nó không chịu. Lỗ tai cũng vểnh ra ngoài đón tiếng. Con mắt th́ đón h́nh tướng, lỗ tai th́ đón âm thanh, lỗ mũi th́ đón mùi, lưỡi th́ chờ vị, rồi thân đợi xúc chạm. Như vậy luôn luôn nó đ̣i hỏi theo năm trần ở ngoài, chớ không chịu quay trở lại. Bây giờ tu, thay v́ phóng ra chúng ta phải quay lại, chiếu lại. Chư tăng chư ni tự nhiên quay lại không nổi, cho nên bắt ngồi thiền. Ngồi ngó xuống để nh́n lại ḿnh, theo hơi thở để biết lại ḿnh. Đó là cái thuật quay lại chớ c̣n phóng ra ngoài th́ quên ḿnh. Nếu đi đứng nằm ngồi đều biết quay lại ḿnh th́ khỏi ngồi thiền cũng được. Nếu đi đứng mà quên ḿnh th́ phải ngồi thiền, ngồi đủ, ngồi đúng giờ đúng giấc đàng hoàng. Người biết bỏ ngoại cảnh mà xem ở tự tâm ḿnh th́ Phật nhăn sáng suốt. Ngài Đạo Nguyên ở Nhật Bản khẳng định: “Một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật”. Bởi v́ biết quay lại để mở sáng mắt trí tuệ của ḿnh. Một giờ ngồi thiền là một giờ làm Phật, c̣n ngồi thiền, gật lên gật xuống th́ không làm Phật, không sáng suốt. Cho nên chúng ta phải biết rơ ngồi thiền là quay lại ḿnh, biết phản chiếu lại ḿnh, đó là giác, giác là Phật. Chạy theo ngoại trần th́ mê, mà mê là chúng sanh. Ngồi hai giờ là giác luôn hai giờ. Phải làm sao giờ làm Phật nhiều hơn giờ làm chúng sanh mới được. Chúng ta quay lại th́ đó là Phật nhăn, nếu Phật nhăân sáng suốt th́ bóng nghiệp tự tan. Bây giờ khi chúng ta quay lại, ngồi thiền soi lại ḿnh, nh́n hơi thở, nh́n niệm. Những niệm buồn thương giận ghét dấy lên đều nói vọng không theo th́ nó tan, niệm tan là tan nghiệp. Niệm lặng xuống rồi đâu c̣n nghiệp, như vậy phá vọng tưởng cho tan là làm cho bóng nghiệp tự tan, th́ Pháp thân tự hiện, đơn giản như vậy. Nếu ḿnh hằng tri, hằng giác không có niệm nào, th́ pháp thân hiện tiền, những vết trần tự diệt; v́ niệm th́ duyên theo bóng, nhớ người th́ có bóng người, nhớ cảnh th́ có bóng cảnh, bóng người bóng cảnh là vết trần ở ngoài. Đâu có khi nào khởi niệm mà không duyên bóng bên ngoài. Như vậy nếu ḿnh làm chủ được niệm th́ niệm tan, bóng trần ở ngoài hết th́ Pháp thân hiện không có nghi ngờ. Ta phải lấy lưỡi dao trí của tâm tự giác mà rạch lấy ra tâm châu trong những mối dây quấn chặt. Tức là hạt châu sáng có sẵn của tâm bị quấn chặt trong những mối dây thập triền thập sử. Phải dùng mũi giáo tuệ chặt đứt lưới kiến chấp trong trần cảnh. Chấp trần cảnh tức là chấp sắc, thanh, hương, vị, xúc… Nếu được như vậy ấy chính là cái tông chỉ cùng tâm, cái chân thuyên đạt thức đó vậy. Nếu chạy trốn chỗ này chỗ kia để cho được yên, được thảnh thơi, hay là được nhẹ nhàng dễ tu, đó chưa phải là cùng tâm, chưa phải là đạt lư. Như vậy là Ngài đă chân t́nh chỉ dạy cho chúng ta cách tu thế nào là đúng, thế nào là không đúng. Sư lại nói: Trí hay chiếu vốn không, cảnh bị duyên cũng lặng. Lặng mà không phải lặng, bởi không có người hay lặng. Soi mà không soi, bởi không có cảnh bị soi. Cảnh và trí đều lặng, tâm lo nghĩ an nhiên, đây chính là con đường cốt yếu trở về nguồn. Đây Ngài dạy từng đoạn, từng đoạn để cho chúng ta nhận ra cứu kính của sự tu hành. ? |
[A.Chương1][A.Chương2][A.Chương3][A.Chương4][A.Chương5][A.Chương6][A.Chương7]
[B.Chương 1][B.Chương 2][B.Chương 3][B.Chương 4][B.Chương 5]
[B.Chương 6-phần 1][B.Chương 6-phần 2][B.Chương 6-phần 3][B.Chương 6-phần 4][B.Chương 7]