HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
GIẢNG GIẢI
[A.Chương1][A.Chương2][A.Chương3][A.Chương4][A.Chương5][A.Chương6][A.Chương7]
[B.Chương 1][B.Chương 2][B.Chương 3][B.Chương 4][B.Chương 5]
[B.Chương 6-phần 1][B.Chương 6-phần 2][B.Chương 6-phần 3][B.Chương 6-phần 4][B.Chương 7]
B. GIẢNG GIẢI (tt) VI. KHAI THỊ NGỘ NHẬP ĐƯỢC DUYÊN TỐT TRUYỀN TRAO ẤN CHỨNG. (tt) Sư lại nói: - Chí đạo gốc ở tâm, tâm pháp gốc ở vô trụ. Tâm thể vô trụ đó, tánh tướng đều lặng lẽ, chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt, t́m nó th́ chẳng được, bỏ đi cũng chẳng rời. Mê hiện lượng th́ hoặc và khổ lăng xăng. Ngộ chân tánh th́ rỗng rang tỏ suốt. Tuy tâm tức là Phật, Phật tức là tâm, song chỉ có người chứng mới biết. Ở đây Ngài chỉ tột cùng cho chúng ta thấy. Chí đạo gốc ở tâm, tức là đạo tột cùng là gốc ở tâm. “Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch”. Nghe nói có người đi cầu đạo, ḿnh tưởng đạo ở trên non trên núi thực ra là đạo ở tâm. Tâm pháp gốc ở vô trụ, thể của tâm tức là vô trụ, là không kẹt không mắc, không ở một nơi một chốn nào. Tâm thể vô trụ đó, tánh tướng đều lặng lẽ chẳng phải có chẳng phải không, chẳng sanh chẳng diệt, t́m nó th́ chẳng được, bỏ đi cũng chẳng rời. Tâm tại sao gọi là vô trụ? V́ trụ là có nơi chốn mà tâm thể trùm khắp không có nơi chốn, không có thể do t́m kiếm mà được, chỉ lặng hết mê vọng th́ thấy; muốn bỏ tâm thể, bỏ cũng không được. Chúng ta tạm thí dụ như hư không là hữu trụ hay vô trụ? Hư không ở đâu cũng trùm hết nên nói là vô trụ. Ḿnh muốn chạy trốn hư không, được không? Muốn nắm bắt hư không được không? Bắt cũng không được mà trốn cũng không được, nó cứ như vậy. Chúng ta sống trong hư không cứ thản nhiên mà sống, hít thở không khí trong hư không rồi vui với hư không, biết ḿnh đang ở trong hư không là đủ rồi! Nhưng hư không thể nó thênh thang không có tri giác, c̣n tâm thể th́ thênh thang có tri giác, không có tướng mạo. Như khi chúng ta dấy niệm duyên theo người th́ có bóng người hiện, dấy niệm duyên theo cảnh th́ có bóng cảnh hiện. Tâm duyên theo bóng người bóng cảnh là tâm hư dối. Khi tâm hư dối lặng th́ cái biết vẫn như nhiên, trong đây dùng từ “hiện lượng”. Mê hiện lượng th́ hoặc và khổ lăng xăng. Ngộ chân tánh th́ rỗng rang tỏ suốt. Tức là quên tâm hiện tại, tâm sẵn có đây th́ chạy theo hoặc, hoặc là mê lầm, hoặc th́ tạo khổ nên hoặc khổ lăng xăng. Nơi mắt chúng ta thấy, nơi tai chúng ta nghe, nơi mũi chúng ta ngửi, nơi lưỡi chúng ta nếm… Tất cả các cơ quan đều có sẵn tri giác hiện lượng, không mê, không thiếu. Nhưng v́ chúng ta không biết, khi mắt thấy liền dấy niệm duyên theo, thấy người phân biệt người, thấy cảnh phân biệt cảnh, đó là tâm sanh diệt, rồi khởi niệm thương niệm ghét, đó là mê hoặc. Từ thương ghét sanh ra khổ đau, lăng xăng không cùng. Chúng ta ngộ tức nhận nơi ḿnh có tâm thể hằng c̣n không vắng thiếu và luôn luôn trong sáng không bị ngầu đục. Nhận ra rồi chúng ta mới thấy chân tánh rỗng rang sáng suốt. Tuy tâm tức Phật, Phật tức là tâm, song chỉ có người chứng mới biết. Ai biết câu đó, ai nhận câu đó? Những chú điệu nhỏ ở chùa nghe quư thầy đọc “Tâm tức Phật, Phật tức tâm” nói cũng được, quí vị cư sĩ cũng nói được vậy! Nhưng hỏi cái ǵ là Phật, cái ǵ là tâm th́ không biết, chỉ có người chứng mới biết được lẽ thật, c̣n người chưa chứng nghe nói bắt chước nói theo thôi! Song c̣n chấp có chứng, có biết th́ mặt trời trí tuệ rơi vào đất có. Nếu tâm mờ mịt không chiếu, không sáng th́ đám mây hôn trầm che lấp ở cửa không. Chúng ta c̣n chấp có chứng có biết th́ mặt trời trí tuệ rơi vào đất có. Có tức là bị giới hạn, có h́nh tướng. Mặt trời trí tuệ đang lang thang và mắc kẹt nơi có. Nếu tâm mờ mịt không chiếu, không sáng th́ đám mây hôn trầm che lấp ở cửa không. V́ tâm mờ mịt không chiếu không sáng nên biến thành đám mây che cửa không. Đó là hai thứ bệnh. Chỉ có tâm không sanh một niệm th́ không c̣n ngăn cách trước sau, chân tánh chiếu thể đứng riêng th́ ta người nào khác. Muốn tránh hai bệnh có không đó chỉ có tâm không sanh một niệm. Tâm là chỉ cái biết, tâm tri giác sẵn có của chúng ta. Không dấy một niệm th́ không bị ngăn cách trước sau. Chân tánh chiếu thể đứng riêng th́ ta người nào khác. Chân tánh không bị kẹt bên nào, lúc đó mới thấy ta người ai cũng có đủ. Nhưng mê đối với ngộ, ngộ trông vào mê, vọng đối với chân, chân nương nơi vọng. Nếu ta cầu chân mà bỏ vọng như người chạy trốn bóng luống nhọc ḿnh. Nếu ta nhận chân chính nơi vọng, như người vào chỗ mát th́ bóng mất. Nếu tâm không vọng chiếu th́ vọng lự tự hết. Nếu mặc t́nh lặng biết th́ các thiện hạnh phát khởi. Thế nên cái ngộ tịch mà không tịch, cái chân tri dường như vô tri. Đoạn này thật sâu, chí thiết đối với người tu. Nhưng mê đối với ngộ, ngộ trông vào mê. V́ chúng ta mê nên lập ngộ để đối đăi, nếu chúng ta không mê, ai nói ngộ? Nói “ngộ trông vào mê” tức là nhắm vào kẻ mê nên nói ngộ. Vọng đối với chân, chân nương nơi vọng. Như niệm dấy lên chúng ta gọi là vọng, khi không dấy gọi là chân. Chân nương nơi vọng, vọng tựa vào chân mà sanh. Nếu cầu chân bỏ vọng th́ chân rời vọng, có chân riêng có vọng riêng giống như mặt nước dấy sóng, chúng ta muốn t́m nước bỏ sóng th́ sao? Nếu ta cầu chân mà bỏ vọng như người chạy trốn bóng luống nhọc ḿnh. V́ vọng đâu ngoài chân cũng như sóng đâu ngoài nước. Chúng ta muốn cầu chân bỏ vọng, tách nó ra, giống như muốn lấy nước mà đùa sóng qua một bên, khi đó gió ào ào, sóng bủa giăng, muốn t́m chỗ không có sóng để lấy nước. Ngay nơi vọng chúng ta nhận ra chân, chớ đừng đi t́m đâu khác. Tôi thường dạy cho tất cả “Biết vọng, không theo là đủ!”, chớ không bỏ không lấy ǵ hết. Nếu nói “Cái đó là vọng, phải đuổi đi chỗ khác rồi cái chân hiện ra” th́ không được. Chúng ta bỏ vọng mà không cầu chân, nhận chân chính nơi vọng như người vào chỗ mát th́ bóng mất. Chúng ta ghét bóng, thấy bóng xấu muốn bỏ mà cứ chạy ngoài trời măi th́ chừng nào mất bóng? Giả sử từ đây chạy xuống Sài G̣n bóng vẫn c̣n, chỉ có vô nhà ngồi mới t́m bóng không ra. Vậy th́ chúng ta biết cái bóng là hư dối, chỉ cần tránh chỗ nắng th́ bóng không có. Cũng như chúng ta biết sóng từ nước mà ra, muốn t́m nước th́ ngay nơi sóng mà lấy, không cần chạy đi đâu hết. Nếu ta nhận chân chính nơi vọng, như người vào chỗ mát th́ bóng mất. Nếu tâm không vọng chiếu th́ vọng lự tự hết. Nếu mặc t́nh lặng lẽ hằng biết th́ cái thiện hạnh được phát khởi. Thế nên cái ngộ tịch mà không tịch, cái chân tri dường như vô tri. Ngộ tịch tức là ngộ lặng lẽ mà không lặng lẽ, v́ nó hằng giác nên nó đâu có lặng lẽ. Cái chân tri dường như vô tri, cái biết thật dường như không biết. Nếu chúng ta nh́n người nh́n cảnh mà không khởi niệm phân biệt người thế nào, cảnh thế nào th́ người cảnh đi qua rồi, chúng ta c̣n nhớ hay quên? Biết mà không phân biệt như là không biết, cho nên thấy tất cả mà không nhớ, không biết. Thấy tức là biết mà nói không biết là sao? V́ không có khởi ư niệm chăm chú phân tích vào người nào, cảnh nào. Không phân tích người, cảnh th́ tự nhiên ḿnh không nhớ, nên nói Chân tri dường như vô tri. Biết bằng lẽơ thật lại dường như không biết. C̣n cái biết hư ảo th́ dường như nhớ dai. Do một tâm không phân chia tịch và tri, khế hợp với lẽ huyền diệu dung thông cả có và không, không chấp, không mắc, không nhiếp, không thu, phải quấy đều quên, năng sở cũng dứt. Cái dứt ấy cũng bặt luôn th́ Bát-nhă hiện tiền, mỗi tâm đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải tâm Phật; chốn chốn đều thành đạo, không một hạt bụi nào chẳng phải cơi Phật. Do một tâm không phân chia tịch và tri, tức là không phân chia đây là lặng lẽ kia là hiểu biết, nên khế hợp với lẽ huyền diệu dung thông cả có và không, không chấp, không mắc, không nhiếp, không thu, phải quấy đều quên, năng sở cũng dứt, hết đối đăi. Cái dứt ấy cũng bặt luôn th́ Bát-nhă hiện tiền, lúc đó bặt luôn tâm dụng công. Mỗi tâm đều thành Phật, không tâm nào chẳng phải tâm Phật. Lúc nào cũng là Phật hết, không lúc nào không phải Phật. Chốn chốn đều thành đạo, không một hạt bụi nào chẳng phải cơi Phật. Tu ở đây không phải chạy đi t́m kiếm một nơi nào là cảnh Phật, mà ngay nơi tâm ḿnh nếu dứt cả đối đăi, dứt cả phân biệt th́ tri và tịch không hai. Lúc đó không c̣n dính mắc - th́ nơi nào, ở đâu cũng đều là quốc độ của Phật hết, không c̣n t́m kiếm chi nữa. Thế nên chân với vọng, vật với ngă, đều do ở một tâm ta. Phật với chúng sanh cũng đều chung nhau một tâm ấy. Nếu mê th́ người theo sự vật, sự vật th́ vô vàn nên người chẳng giống nhau. Nếu ngộ th́ sự vật theo người, người đem một trí mà dung ḥa muôn cảnh. Đến đây th́ hết chỗ nói năng, bặt đường tư tưởng c̣n ǵ mà nói nhân trước quả sau. Tâm thể rỗng lặng, c̣n ǵ là người này giống, kẻ kia khác? Thế nên chân với vọng, vật với ngă, đều do ở mộât tâm ta. Chân vọng đều ở tự tâm chúng ta. Phật với chúng sanh cũng đều chung nhau một tâm ấy. Nếu mê th́ người theo sự vật, sự vật th́ vô vàn nên người chẳng giống nhau. Khi chúng ta mê tức quên tâm nên chạy theo sự vật, sự vật ở bên ngoài th́ vô cùng vô số, mỗi cái đều khác nên người không giống nhau. Nếu ngộ th́ sự vật theo người, người đem một trí mà dung ḥa muôn cảnh. Thí dụ khi chúng ta ngộ thấy tất cả sự vật ở bên ngoài, cái nhà, cây thông, cái bàn, cái ghế… chúng ta chỉ dùng một trí thấy là duyên hợp, là tứ đại ḥa hợp, nhà cũng do tứ đại, cây thông cũng do tứ đại, cái bàn cũng tứ đại ḥa hợp, không có cái ǵ khác, không có cái ǵ ngoài. Như vậy chúng ta dùng một trí mà dung thông tất cả mọi vật, không cần phải nhiều thứ. Đến đây th́ hết chỗ nói năng, bặt đường tư tưởng c̣n ǵ mà nói nhân trước quả sau. Nếu người đến chỗ đó rồi sống không c̣n phân chia đối đăi. Lúc đó không c̣n ngôn ngữ để nói, không c̣n tư tưởng để suy lường th́ c̣n cái ǵ là nhân là quả mà nói nhân trước quả sau. Nói nhân nói quả là nói sự thể của muôn vật, khi sanh khi diệt có trước có sau. Tâm thể rỗng lặng, c̣n ǵ là người này giống, kẻ kia khác. Nếu tâm ḿnh rỗng lặng thấy ai cũng như ai, không nói rằng người này giống, người kia khác, người này đẹp, người kia xấu… Chỉ c̣n một tâm trong sáng, tăng giảm chan ḥa. Như tấm gương sáng, tuy không có hoa mà bóng hoa hiện, gương vẫn vô tâm; tuy thấy ảnh tượng chiếu trong gương, mà ảnh tượng vẫn hằng không. Ở đây nhờ thí dụ chúng ta thấy rơ chỉ c̣n một tâm trong sáng, tăng giảm chan ḥa nghĩa là chỉ một tâm trong sáng th́ cái tăng cái giảm ḥa lẫn nhau. Ví dụ như một tấm gương sáng trong đó có hiện trăm bóng hoa nào đỏ nào xanh nào vàng… tuy trăm thứ hoa hiện trong gương mà gương không có ghét cái này, chịu cái kia. Bao nhiêu ảnh tượng hiện trong gương nào hoa hồng, hoa cúc v.v…, không có hoa nào thật, đều là bóng hết. Tất cả bóng hoa hiện trong gương đều là bóng, gương vẫn vô tâm. Đây chỉ cho người tu dứt bặt đối đăi không c̣n phân biệt, chỉ một tâm trong sáng th́ mọi việc đều đầy đủ mà không dính mắc. Hơn nữa, đạo th́ luận nói cũng chẳng được, im lặng cũng chẳng được; dù cho quên cả hai nói và im cũng không dính dáng. Tại sao? Quang minh của bậc Cổ Phật, phong thái của hàng Tiên đức, mỗi mỗi đều từ trong chỗ không muốn, không nương mà được phát hiện. Hoặc có khi cao vút ṿi vọi trọn không thể nhổ lên, hoặc có khi bao trùm ḥa lẫn trọn không chỗ thấy. Đoạn này nói xa hơn một chút. Hơn nữa, đạo th́ luận nói cũng chẳng được, im lặng cũng chẳng được. Tại sao nói không được? Nói không được th́ nín, mà nín cũng không được, như vậy th́ làm sao? V́ chúng ta quen sống với đối đăi, hoặc là nói, hoặc là nín. Ở đây luận nói chẳng được, vậy muốn nói chuyện đạo lư phải làm sao đây? Người xưa hay nói “Cả ngày ăn mà không nhai nát một hộït cơm một hộït gạo”. Nói mà không dính mắc th́ nói mà như không nói, c̣n im lặng mà mắc kẹt th́ im lặng cũng sai. Chúng ta không được nói để cho người ta dính kẹt, cũng không được im lặng v́ im lặng làm sao truyền bá chánh pháp. Nên nói mà không dính đầu lưỡi th́ cái nói đó không sao hết. Các Thiền sư nói có khi ḿnh nghe điếc lỗ tai, chúng ta không biết các ngài nói ǵ hết. Bởi v́ nói để người ta suy nghĩ đó là dính mắc, nói để người dứt suy nghĩ th́ hết dính mắc, như vậy có quyền nói. Những cái nói đó tùy cơ nên nói nín ǵ lại không được. Bởi vậy không được nói không được nín tức là dù cho quên cả hai, nói và im cũng không dính dáng. Tại sao? Giải thích: Quang minh của bậc Cổ Phật, phong thái của hàng Tiên đức, mỗi mỗi đều từ trong chỗ không muốn không nương mà được phát hiện. Nói mà không có tâm muốn được, không có chỗ nương tựa để chỉ bày ra. Hoặc có khi cao vút ṿi vọi trọn không thể nhổ lên, hoặc có khi bao trùm ḥa lẫn trọn không chỗ thấy. Có những chỗ cao vút ṿi vọi ở trên chúng ta không với tới được, hoặc có chỗ bao trùm hết chúng ta không nắm bắt nổi. Đó là ư cho thấy rằng các ngài nói mà không mắc kẹt hai bên, không dính mắc một chỗ nào. Cuối cùng chẳng cố định một chỗ, cũng chẳng dính mắc ở hai đầu, không phải mà không ǵ chẳng phải, không quấy mà không ǵ chẳng quấy, được cũng không chỗ được, mất cũng không chỗ mất. Cái ǵ mà không phải không ǵ chẳng phải? Thí dụ có người nói: Thầy đó, chú đó là Lê Văn An. Lại có người khác nói: Bậy! Thầy đó, chú đó là tứ đại. Như vậy Lê Văn An là tên con người đặt ra. C̣n thân người do tứ đại hợp thành, nói tứ đại là phải hay không phải? Nói Lê Văn An là bậy, nói tứ đại là phải rồi. Nhưng người khác cũng là tứ đại, biết ai là Lê Văn An? Như vậy mới nghe dường như phải mà chẳng phải, không quấy mà không ǵ chẳng quấy. Ai đứng mặt này nh́n th́ thấy như phải, đứng mặt khác nh́n th́ thấy như quấy. Tất cả thế gian là như vậy, không có pháp cố định mà chúng ta luôn chấp cố định, phải là phải quấy là quấy… nên sanh ra bao nhiêu chuyện căi lẫy. Bởi vậy ở trong thiền viện xử kiện dễ lắm. Hai người căi nhau đem đến tôi xử, tôi hỏi: Tại sao căi nhau? - - Tại con tức quá! Tôi chỉ xử một câu: Có tức, là lỗi rồi! Hai người căi với nhau đều có tức th́ đều phiền năo, giống nhau hết, có hơn thua ǵ? Cả hai đều có lỗi tôi xử phạt hết, chỉ có người không căi th́ không phiền năo thôi. Hiểu rồi không có ǵ cố định. Thế gian có bệnh đứng khía cạnh này nh́n qua khía cạnh khác. Thí dụ có một khối thủy tinh bát giác trong sáng. Bên ngoài, phía này để một hoa hồng, phía kia để hoa xanh, phía nọ hoa tím, rồi hỏi người đứng mỗi góc nh́n bên trong khối thủy tinh thấy hoa màu ǵ? Người th́ nói có hoa màu hồng, người khác nói có hoa màu xanh, màu tím…, như vậy cái nh́n nào đúng? Khối thủy tinh màu ǵ? Màu hồng, màu tím, màu xanh? Thủy tinh không có màu mà tùy chỗ ḿnh và hoa bên ngoài, màu xanh hiện màu xanh, màu tím hiện màu tím. Thế gian này, mọi sự việc người ta làm, tùy góc độ nh́n rồi cho cái nh́n của ḿnh là đúng, ai ở góc độ khác nh́n lại nói sai, cái nh́n của họ mới đúng. Hai cái đúng gặp nhau th́ tranh căi. Trong chùa nhiều chuyện xảy ra thấy tức cười: Những người làm rẫy th́ thầy khuyến khích trồng rẫy cho nhiều nhiều để có ăn, vườn th́ khuyến khích chăm sóc để cây có trái, có kết quả tốt, hoa th́ khuyến khích trồng nhiều hoa cho dễ coi. Được khuyến khích ai cũng muốn làm cho có kết quả. Sáng ra phân công tác, ban rẫy đ̣i cho nhiều người, bởi v́ đâu dám căi lời thầy bảo. Rồi ban vườn cũng đ̣i nhiều người, hỏi tại sao? Tại thầy bảo ráng chăm sóc cho cây có trái! Ban hoa đ̣i nhiều người nữa. Ai cũng đ̣i nhiều người và ai cũng phải hết. Khi đó tri sự không có người rồi làm sao? Ba cái phải đưa tới không biết kết thúc thế nào. Ai đ̣i người cũng phải hết, nhưng chấp cái phải đó th́ thành ra rối mù không sắp đặt được. Thôi th́ dung thông nhau, phải vừa thôi, đừng phải quá. Ban này có một người, ban kia có hai người cũng được, châm chước với nhau để cùng làm th́ được, chớ ai cũng dành phần phải về ḿnh, được như ư ḿnh th́ có chuyện lôi thôi, không giải quyết nổi. Cố chấp th́ trở thành bệnh mà thiên hạ luôn luôn cố chấp. Lănh một trách vụ ǵ, một công tác ǵ chúng ta đều cho là quan trọng. Ba bốn cái quan trọng căi lẫy suốt ngày không làm được việc ǵ hết. Chỉ có dung thông với nhau, ḥa với nhau để cùng làm công việc th́ được, đừng có đ̣i tuyệt đối. Trong cuộc sống chúng ta đừng cố chấp, v́ những cố chấp sanh ra các thứ khổ, đủ thứ phiền năo. Chẳng từng cách xa một mảy tơ, chẳng từng đổi dời một sợi tóc, sáng ngời lối xưa, chẳng thuộc nhiệm mầu sâu kín (huyền vi), ngay trước mặt đem lại, chợt đó liền qua, chẳng ở nơi chánh vị, đâu rơi vào lối tà, chẳng đi nơi thênh thang, đâu đạp vào lối nhỏ, xoay đầu chẳng gặp, chạm mắt lại không đối trước, một niệm xem khắp, thênh thang rỗng lặng. Tâm thể, cuối cùng không dính, không kẹt một góc nào, một đầu nào mà trùm khắp thênh thang. Một chút tông yếu này, ngàn Thánh chẳng truyền, thẳng đó rơ biết, ngay đây vượt lên. Mới biết, chỗ sạch trọi trơn thế ấy tức dễ, chỗ sáng rỡ rơ ràng thế ấy tức khó. Nếu là việc bổn phận th́ tay chân buông đi mà không cái ǵ thu chẳng đến, mỗi mỗi phóng ánh sáng hiện tướng lành, mỗi mỗi dứt bặt dấu vết, trên cơ trọn chẳng dừng, trong lời không thể bày, tột đáy khuấy chẳng đục, toàn thân đập chẳng nát, rốt ráo là cái ǵ được tinh thông thế ấy, được kỳ đặc thế ấy? Một chút tông yếu này, ngàn thánh chẳng truyền. Chỗ tông yếu ngàn Thánh cũng trao nhau không được. Thẳng đó rơ biết, ngay đây vượt lên. Không ai trao cho ta được mà chính ta nhận ra, th́ ngay đó liền vươn lên được. Nếu ḿnh không nhận th́ không vượt lên được. Mới biết chỗ sạch trọi trơn thế ấy tức dễ, chỗ sáng rỡ rơ ràng thế ấy tức khó. Nghĩa là ḿnh tu mà buông sạch, bỏ sạch là dễ, nhưng ngay chỗ buông sạch, bỏ sạch đó vẫn c̣n sáng, vẫn c̣n rơ ràng mới là khó. Phải buông sạch, bỏ sạch mà vẫn c̣n sáng rỡ, c̣n rơ ràng. Nếu là việc bổn phận th́ tay chân buông đi mà không cái ǵ thu chẳng đến. Nghĩa là việc bổn phận, việc chánh của ḿnh, tay chân ḿnh buông, ḿnh xả hết, nhưng tâm vẫn có hiện tiền. Mỗi mỗi phóng ánh sáng hiện tướng lành, mỗi mỗi dứt bặt dấu vết, trên cơ trọn chẳng dừng, trong lời không thể bày tột đáy khuấy chẳng đục, toàn thân đập chẳng nát, rốt ráo là cái ǵ được tinh thông thế ấy, được kỳ đặc thế ấy? Trả lời câu này Ngài nói: Này các Ngài! Chẳng cần biết mặt mũi y, chẳng cần đặt tên cho y, cũng chớ t́m chỗ nơi củûa y. Tại sao? V́ y không chỗ nơi, y không tên tuổi, không mặt mũi, ta vừa dấy niệm đuổi t́m liền cách mười đời, năm đời. Cái đó nó không có tên, không có mặt mũi, không chỗ nơi, làm sao mà t́m? T́m th́ cách mười đời, năm đời. Bởi v́ vừa đặt tên là theo h́nh tướng, do h́nh tướng sự vật mà đặt tên. Cái này không phải h́nh tướng, th́ làm sao đặt tên? Cho nên nó không có tên. Không h́nh tướng th́ làm sao có chỗ nơi? Nên ai t́m kiếm nó th́ muôn đời không gặp. Chi bằng buông đi tự do, cần bước liền bước, cần dừng liền dừng, tức thiên nhiên mà chẳng thiên nhiên, tức như như mà chẳng phải như như, tức trong lặng mà chẳng phải trong lặng, tức bại hoại mà chẳng phải hư hoại, không thích sống không sợ chết, không cầu Phật, không sợ ma, chẳng cùng hợp với Bồ-đề, chẳng đồng chung với phiền năo, chẳng nhận một pháp, chẳng ghét một pháp, không ở đâu mà ở tất cả, chẳng phải ĺa mà chẳng phải chẳng ĺa. Nếu ai hay thấy được như thế th́ Thích-ca tựï Thích-ca, Đạt-ma tự Đạt-ma. Đây là chỗ cứu kính mà Ngài muốn chúng ta thấy, nhưng chỉ thấy mới được, chớ không phải lư luận mà được. Nói để cho chúng ta nghe mà không cho chúng ta dính, không cho chúng ta chấp. Cuối cùng Thích-ca tự Thích-ca, Đạt-ma tự Đạt-ma. Phật tự Phật, Tổ tự Tổ mà chúng ta tự chúng ta. Chớ không phải các Ngài tự mà ḿnh không tự. Tóm lại, khi ngồi lại tu, chúng ta mới thấy rơ nơi ḿnh có cái chân thật, không mắc kẹt vào ngôn ngữ, không mắc kẹt vào h́nh tướng, không mắc kẹt vào văn tự. Cái đó không có ngôn ngữ, h́nh tướng, văn tự th́ làm sao diễn tả? Nhưng nó vẫn hiện tiền. Khi tâm chúng ta thanh tịnh, không dấy niệm, không nghĩ tưởng th́ tự nó sáng. Tai vẫn nghe, mắt vẫn thấy, mọi cái biến động bên ngoài đều biết hết mà cái đó không nói được là cái ǵ, nói là cái ǵ cũng trật. Gượng nói là Phật tánh, là chân tâm. Nhưng đă có Phật tánh th́ phải có chúng sanh tánh, có chân tâm th́ phải có vọng tâm, câu ǵ nói ra cũng có đối đăi. Cho nên nói đủ thứ tên mà không phải tên nào hết. Cuối cùng rồi chỉ nói Phật tự Phật, Tổ tự Tổ, ta tự ta chớ không nói cái ǵ là trúng. Sư lại nói: Tám mươi bốn ngàn pháp môn Ba-la-mật, mỗi môn luôn mở ra các đức Phật nhiều như bụi nhỏ trong cơi Tam thiên Đại thiên. Mỗi đức Phật nói pháp đều chẳng nói có, chẳng nói không, chẳng nói không phải có không phải không, chẳng nói cũng có cũng không. Sao vậy? Ly tứ cú tuyệt bách phi, Tương phùng cử mục thiểu nhân tri. Tạc nhật sương phong lậu tiêu tức, Mai hoa y cựu xuyết hàn chi. Dịch: Ĺa bốn câu bặt trăm quấy, Gặp nhau nhướng mắt mấy ai hay. Hôm qua sương gió thông tin tức, Cành đông như cũ điểm hoa cười. Kết thúc lại, tám muôn bốn ngàn pháp môn Ba-la-mật, tức là pháp môn cứu kính, mỗi môn mở ra các đức Phật nhiều như bụi nhỏ trong cơi Tam thiên Đại thiên. Pháp môn vô lượng, chư Phật vô lượng. Mỗi đức Phật nói pháp đều: Một là không nói có, hai là không nói không, ba là chẳng nói không phải có không phải không, bốn là chẳng nói cũng có cũng không. Như vậy th́ chư Phật ĺa tứ cú. Ngài nói thêm bài kệ: Ly tứ cú là ĺa bốn câu. Tuyệt bách phi tức là bặt trăm quấy. Gặp nhau nhướng mắt mấy ai hay. Nếu thấy mặt nhau, chỉ nh́n một cái, khéo th́ ngộ. Điều này ít người biết được. Như đức Phật khi đưa cành hoa nh́n khắp th́ cả hội chúng không có ai biết, chỉ có ngài Ca-diếp biết thôi, nó sẵn như vậy đó. Hôm qua sương gió thông tin tức. Hôm qua có mưa, có gió, có sương báo cho ḿnh biết tin. Cành đông như cũ điểm hoa cười. Tức là cành mai mùa đông như cũ trổ hoa tươi. Chỗ tột cùng không c̣n mắc kẹt trong tứ cú, dứt tuyệt bách phi. Chúng ta là phàm phu nói ra th́ kẹt hết, nói câu nào cũng kẹt trong có, trong không, chẳng phải có, chẳng phải không… Mắc kẹt cho nên tranh căi, phiền năo. C̣n Phật Tổ nói không cho kẹt, cho nên không phiền năo. Không tất cả phiền năo tranh căi th́ tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh là pháp môn vi diệu đưa chúng ta đến chỗ giải thoát sanh tử. Nếu c̣n tranh căi là c̣n phiền năo, đó là các pháp đưa chúng ta đi trong luân hồi. Vậy nên người học đạo phải khéo nhận, khéo hiểu, không có mắc kẹt. Tóm lại, tâm phàm của chúng ta luôn luôn nằm trong đối đăi, hơn thua, phải quấy. Phật Tổ muốn chỉ chúng ta chỗ vượt qua cả phải quấy, vượt qua cả bốn câu, thoát ra đối đăi, cho nên ḿnh khó hiểu. Bao giờ chúng ta gỡ được đối đăi không c̣n dính th́ lời Phật Tổ nói dễ hiểu, không có ǵ khó. Cho nên người họïc Phật là người phá ngă, gỡ bỏ tất cả cái chấp đối đăi, gỡ bỏ tất cả cái chấp hơn thua, đúng sai… th́ người học Phật sẽ đạt được kết quả, đạo sẽ không xa. * * * Rảnh rang Sư thường ngâm lại những bài kệ dạy chúng: Ngài đọc lại những bài kệ của người xưa. Trong nhà thiền thường có câu: “Mỗi lần nhắc lại mỗi lần mới”. Dù bài kệ đó là của vị nào, của người xưa, nếu chúng ta đọc bài kệ đó có tâm đắc th́ nó liền có ư nghĩa mới, không phải bài kệ có nghĩa mới, mà chính là người nhắc lại gởi gắm tâm tư ḿnh trong đó nên gọi là mới. Những bài kệ của Ngài đọc trong lúc rảnh rang này, không phải của Ngài mà là của các vị Tổ sư trước và gần Ngài, nhưng v́ thích nên Ngài rảnh rang ngâm nga lại để dạy chúng. BÀI 1: Nhất thiết vô tâm tự tánh Giới, Nhất thiết vô ngại tự tánh Tuệ. Bất tăng bất giảm tự Kim Cang, Thân khứ thân lai bổn Tam-muội. Dịch: Tất cả không tâm tự tánh Giới, Tất cả không ngại tự tánh Tuệ. Chẳng thêm chẳng bớt tự Kim Cang, Thân đi thân lại gốc Tam-muội. Bài kệ này là bài kệ của Lục Tổ trả lời sư Chí Thành ở trong Pháp Bảo Đàn hỏi về Giới - Định - Tuệ. Tất cả không tâm tự tánh Giới. Khi tâm chúng ta không có dấy niệm đuổi theo ngoại cảnh là chúng ta giữ giới, giới ngay trong tự tánh. Tại sao nói tự tánh? Bởi v́ giới không có h́nh tướng. Thường thường ở trong nhà Phật nói tới giới tướng. Những hành động, những ngôn ngữ chúng ta có khi sai trái, giữ không cho hành động, ngôn ngữ sai trái gọi là giới tướng. Trong tâm ḿnh không dấy niệm, đó là tự tánh giới. Tại sao? Bởi v́ tâm vừa dấy niệm, nó biến ra h́nh tướng, chớ niệm lặng lẽ, đâu có phạm lỗi. Đó là giữ giới ngay trong tự tánh của ḿnh chớ không phải ở đâu. Tất cả không ngại tự tánh Tuệ. Ở đây dạy giới trước, tuệ sau. Tuệ là ǵ? Tuệ là tất cả không ngại. Trí tuệ giúp cho chúng ta đối với mọi người, mọi cảnh không dính, không kẹt, không có cái ǵ trói buộc, tự tại vô ngại. Như vậy là tuệ. Nói tuệ mà dường như không có tuệ ǵ hết. Thường người ta nói tuệ là ánh sáng, là thông minh, những hiểu biết cao xa, ở đây nói không có ngại th́ gọi là tuệ. Tại sao? V́ trong nhà thiền, người ngu th́ cho việc này, việc nọ, việc kia là đúng là sai cho nên mắc kẹt. C̣n người trí tuệ th́ không chấp, cho nên được vô ngại. Chấp là ngu, ngược lại là trí tuệ. Tóm lại ai chấp nhiều th́ đó là ngu hay là thiếu tuệ. Người nói ra hay chấp phải, chấp quấy, chấp hơn, chấp thua, chấp được, chấp mất th́ không có sáng. C̣n nếu tất cả đều không dính, không kẹt ǵ hết là trí tuệ. Chẳng thêm chẳng bớt tự Kim Cang. Đây nói đủ là Kim Cang Tam-muội là sức định vững chắc như Kim Cang không có ǵ phá hoại được. Muốn được cái định đó phải chẳng thêm chẳng bớt. Bất tăng, bất giảm mà trong kinh Bát-nhă chúng ta thường đọc đó. Chúng ta ở trên thế gian này luôn luôn thấy cái này là được, cái kia là mất. Có được có mất là có thêm bớt. Được, mất, thêm, bớt làm cho tâm ḿnh loạn động. V́ vậy không thấy có thêm, không thấy có bớt, đó là Kim Cang. Thân đi thân lại gốc Tam-muội. Nếu mọi cái thêm bớt, được mất không bận ḷng th́ thân ḿnh có đến, có đi vẫn là ở trong chánh định. Như vậy ở đây giới, định, tuệ khác với sách Phật nói về giới định tuệ. Kinh nói Giới là giới tướng, Định là định tâm, Tuệ là mở sáng tâm. Ở đây nói Giới là tự tánh, không có tất cả niệm, Tuệ là tự tánh không tất cả chướng, Định là không có tăng, không có giảm, không có đi lại… Như vậy phần này Lục Tổ giảng cho Thiền sư Chí Thành về giới, định, tuệ. BÀI 2: Bất kiến nhất pháp tồn vô kiến, Đại tự phù vân giá nhật diện. Bất tri nhất pháp thủ không tri, Hoàn như thái hư sanh thiểm điện. Thử chi tri kiến miết nhiên hưng, Thác nhận hà tằng giải phương tiện. Nhữ đương nhất niệm tự tri phi, Tự kỷ linh quang thường hiển hiện. Dịch: Chẳng thấy một pháp c̣n thấy không, Giống in mây nổi che mặt nhật. Chẳng biết một pháp giữ biết không, Lại như hư không sanh điện chớp. Cái thấy biết này chợt dấy lên, Lầm nhận đâu từng rơ phương tiện. Ông nên một niệm tự biết lỗi, Tự kỷ linh quang luôn hiển hiện. Bài kệ này của Lục Tổ. Ngài giải thích cho Thiền sư Trí Thường về “không”, trong kinh Pháp Bảo Đàn. Chẳng thấy một pháp c̣n thấy không. Nếu ḿnh không thấy có một pháp nào, c̣n thấy có cái không là thật. Giống in mây nổi che mặt nhật. Giống như là có một cụm mây che mặt trời làm cho mặt trời tối. C̣n chấp một pháp không cũng là c̣n kẹt, che mờ trí tuệ của ḿnh. Chẳng biết một pháp giữ biết không, Lại như hư không sanh điện chớp. Nếu ḿnh không thấy có một pháp nào thật mà c̣n giữ một pháp không, cho tánh không là thật, cũng như hư không trong trẻo, bỗng dưng có lằn điện chớp, mất cái yên tĩnh, trong trẻo của hư không. Cái thấy biết này chợt dấy lên, Lầm nhận đâu từng rơ phương tiện. C̣n khởi các niệm chấp không, là ḿnh đă nhận lầm, không biết được các phương tiện đầy đủ. Ông nên một niệm tự biết lỗi, Tự kỷ linh quang luôn hiển hiện. Tức là ông bây giờ một niệm tự nhận lỗi chấp không, th́ ánh sáng linh diệu của chính ḿnh sẽ hiển hiện luôn luôn. Như vậy, tất cả chúng ta tu, ban đầu chấp tất cả là có, có ḿnh, có người, có đủ thứ. Qua giai đoạn thứ hai, phá cái chấp có, cho tất cả tự tánh là không, rồi xoay qua chấp không. Cái có thật bị phá, song cái chấp không là thật cũng là kẹt. V́ vậy mà cuối cùng một niệm “chấp không” không c̣n th́ cái linh quang của chính ḿnh mới luôn luôn sáng suốt. BÀI 3: Kiến văn tri giác vô chướng ngại, Thanh hương vị xúc thường Tam-muội. Như điểu không trung chỉ ma phi, Vô thủ vô xả vô tắng ái. Nhược hội ứng xứ bổn vô tâm, Thủy đắc danh vi Quán Tự Tại. Dịch: Thấy nghe hiểu biết không ngăn ngại, Thanh hương vị xúc thường Tam-muội. Như chim trong không chỉ thế bay, Không lấy, không bỏ không yêu ghét. Nếu rơ chỗ hiện vốn không tâm, Mới được gọi là Quán Tự Tại. Bài này của Thiền sư Bổn Tịnh (?-761) đệ tử Lục Tổ. Thấy nghe hiểu biết không ngăn ngại. Ở đây dạy chúng ta rằng: Thấy, nghe, hiểu, biết không ngăn ngại, th́ đối với Thanh, hương, vị, xúc thường Tam-muội, được ở trong chánh định. Sở dĩ ngày nay tâm ta loạn, là v́ chúng ta thấy nghe hiểu biết đều dính mắc. Thấy dính với sắc, nghe dính với thanh, hiểu biết th́ dính với cảnh. Nếu thấy, nghe, hiểu, biết mà không dính mắc đối với năm trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc th́ luôn luôn tâm được an định. Định đó là tam-muội. Như chim trong không chỉ thế bay, Không lấy không bỏ không yêu ghét. Như chim giương cánh bay trong hư không thảnh thơi, bởi v́ nó không lấy, không bỏ, không yêu ghét, tự tại trong không, không có chướng ngại. C̣n chúng ta quen thấy cái ǵ đẹp th́ lấy, cái ǵ xấu th́ bỏ. Cái ǵ bằng ḷng th́ yêu, thấy cái ǵ không bằng ḷng th́ ghét rồi bay không được, giống như con chim bị rụng cánh, có vỗ cách mấy bay cũng không nổi. Đó là bệnh. Nếu rơ chỗ hiện vốn không tâm, Mới được gọi là Quán Tự Tại. Nếu đối với tất cả sự vật hiện tiền nơi nào, chốn nào ḿnh cũng không niệm dính kẹt, đó là không tâm. Được như vậy th́ lúc nào ḿnh cũng là Bồ-tát Quán Tự Tại. Kệ này dạy chúng ta giữ đừng để năm căn dính kẹt năm trần. Năm căn không kẹt với năm trần th́ chúng ta được tự tại, thảnh thơi như con chim bay không vướng mắc. Năm trần không kẹt th́ chúng ta là Quán Tự Tại. BÀI 4: Cô viên khiếu lạc nham trung nguyệt, Dă khách ngâm tàn bán dạ đăng. Thử cảnh thử thời thùy hội đắc, Bạch vân thâm xứ tọa thiền tăng. Dịch: Vượn lẻ hú rơi trăng lưng núi, Khách quê ngâm lụn ngọn đèn khuya. Cảnh đấy người đây ai biết được. Thiền tăng ngồi lặng núi sâu ḱa. Bài này của Vĩnh Minh Diên Thọ (904-975) c̣n gọi là Vô Lượng Thọ, làm khi ở núi Tuyết Đậu. Vượn lẻ hú rơi trăng lưng núi, Khách quê ngâm lụn ngọn đèn khuya. Đây tả cảnh vượn hú ở trong rừng, trăng lặn xuống. C̣n người khách miền quê ngâm thơ cho tới khuya, đèn lụn bấc. Cảnh đấy người đây ai biết được, Thiền tăng ngồi lặng núi sâu ḱa. Không ai biết được trong núi sâu có một Thiền tăng không dính kẹt, không trói buộc muôn sự muôn vật ở bên ngoài, đang ngồi lặng lẽ trong núi. Nhưng bây giờ Thiền sư không ngồi lặng lẽ trong núi, mà ngồi lặng lẽ trong Thiền đường, vậy có dính kẹt không? Một Thiền tăng ngồi lặng lẽ tức là chỉ c̣n một ông chủ, t́m không có cái ǵ dấy động, không có niệm sanh trói buộc lẫn nhau, đó là một h́nh ảnh hoàn toàn giải thoát. Nhưng bây giờ ngồi con mắt ngó xuống mà con vượn, con khỉ hiện ra hoài, buông cành này nắm cành kia, nên cũng không tự tại. Nếu không dính không mắc th́ tự tại. BÀI 5: Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân, Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân. Vô minh thật tánh tức Phật tánh, Huyễn hóa không thân tức Pháp thân. Pháp thân giác liễu vô nhất vật, Bản nguyên tự tánh thiên chânPhật. Ngũ ấm phù vân không khứ lai, Tam độc thủy bào hư xuất một. Dịch: Dứt học không làm đạo nhân nhàn, Chẳng trừ vọng tưởng chẳng cầu chân. Thật tánh vô minh tức Phật tánh, Thân không, huyễn hóa tức Pháp thân. Pháp thân giác rồi không một vật, Cội nguồn tự tánh thiên chânPhật. Năm ấm mây trôi luống lại qua, Ba độc bọt nổi dối ch́m mất. Đoạn này trích trong Chứng Đạo Ca của ngài Huyền Giác, rất thú vị. Chúng ta biết tu thiền chút chút đi dạo ngoài vườn hoa, hoặc là ngồi dưới gốc tùng có hứng cũng nên ngâm lên. Dứt học không làm, đạo nhân nhàn. Tuyệt học nói dứt học nghe cũng hơi yếu một chút. Tuyệt học là bặt không c̣n dính ǵ mới gọi là tuyệt học. Vô vi là không làm, nghĩa là bặt hết cái học, vị đó là đạo nhân nhàn. Người ta lại hiểu lầm đạo nhân nhàn là đạo nhân làm biếng v́ không học, cũng không chịu làm ǵ hết. Bởi vậy nếu hiểu theo chữ theo nghĩa th́ cũng tội. Sáng vác cuốc ra đám rẫy, cuốc đất gọi là đạo nhân nhàn được không? Lao động quá chừng mà nhàn chỗ nào? Chỗ đây phải hiểu tuyệt học vô vi là đối với sự t́m kiếm văn tự, chữ nghĩa không có, không c̣n. Vô vi là không có tất cả những tâm động, theo những hành động hay theo ư niệm sanh diệt. Cái ǵ c̣n sanh trụ diệt là hữu vi, không sanh trụ diệt là vô vi. Bặt hết những tâm đuổi theo chữ nghĩa, theo cái sanh trụ diệt của thế gian th́ gọi là đạo nhân nhàn. Nếu ḿnh cuốc rẫy trồng khoai, nhổ cỏ, lặt rau mà không dính mắc với chữ nghĩa văn tự, không kẹt với tâm sanh diệt, vẫn là đạo nhân nhàn. Tuy là lặt rau, tuy là nhổ cỏ mà vẫn nhàn. Đừng nên nói: “Ngài Vĩnh Gia đă dạy như vậy, bây giờ tôi muốn làm đạo nhân nhàn, đừng kêu tôi học, mọi người làm cho tôi ăn thôi, để tôi thành đạo nhân nhàn”. Đó là cái nhàn lười biếng, không phải cái nhàn giải thoát. Quư vị hiểu cho kỹ, cho nên học mà không hiểu cũng khổ lắm. Chẳng trừ vọng tưởng chẳng cầu chân. Không cầu chân tức là yên lặng. V́ vô vi không sanh diệt, đâu c̣n cái ǵ là vọng tưởng, mà không vọng th́ chân hiện tiền. Người nào tới chỗ không c̣n tâm dính kẹt ngôn ngữ, không c̣n tâm dính kẹt tướng sanh diệt, th́ người đó đâu c̣n vọng tưởng mà trừ, cái chân thật liền hiện tiền, c̣n ǵ mà phải cầu. Ai được như vậy tôi cũng cho tự do không ngồi thiền nữa, c̣n chưa được th́ ráng ngồi thiền khá một chút, chừng nào được th́ khỏi. Thật tánh vô minh tức Phật tánh. Cái tánh thật của vô minh là tánh Phật. Tại sao vậy? Bởi v́ vô minh là mờ mịt, mà cái mờ mịt là từ cái sáng. Cũng như tánh thật của ngủ đáng lư là mê, sao tôi lại nói là thức, bởi v́ không có thức th́ ḿnh có ngủ không? V́ có thức nên mới có ngủ, thật tánh cái ngủ gốc từ cái thức, không có thức th́ không có ngủ, không có ngủ th́ không có thức. V́ vậy nên cái này sanh th́ cái kia sanh. V́ ḿnh mê cho nên nói giác, tỉnh hết mê th́ không c̣n giác. Vậy th́ vô minh từ giác mà ra. Đương thức mà bỗng dưng mờ mịt, buồn ngủ. Đó là từ gốc tỉnh mà sanh ra mê, như vậy hết mê th́ trở lại tỉnh chớ ǵ? Thân không huyễn hóa tức Pháp thân, ngay nơi thân huyễn hóa không thật này là Pháp thân. Tại sao? Thân huyễn hóa là thân duyên hợp, tụ rồi tan, nên không thậät. Đó là tướng giả hợp có tụ có tan, c̣n thể Pháp thân, cái chân thật bất sanh bất diệt, không bao giờ có tụ có tan. Nhận được ngay cái thân tụ tan đó là huyễn hóa không thật th́ Pháp thân hiện tiền chớ không đâu xa. Pháp thân giác rồi không một vật. Khi chúng ta giác ngộ Pháp thân rồi mới thấy thế gian không có một vật thật, tất cả các pháp đều duyên hợp, mà duyên hợp th́ đều hư ảo, đều là không thật. Cội nguồn tự tánh thiên chân Phật. Pháp thân là cội nguồn, là tự tánh thiên chân. Chữ “thiên chân” này có chỗ người ta cũng hiểu lầm, v́ thường thường người tu mà hay chấp là lệch một bên. Như tu quán tất cả các tướng ngă của thân là duyên hợp hư dối, nói cách đơn giản là thấy thân vô ngă, đó cũng là giác nhưng giác c̣n thiên lệch. Chừng nào giác ngộ được pháp vô ngă, thân vô ngă th́ cái giác đó mới tṛn. Cho nên thường thường hay nói các vị Nhị thừa được cái giác thiên chân. Nhưng mà chữ “thiên chân” ở đây là cái chân sẵn có. Chữ “thiên” ở đây tương tự như trời, thiên chân là cái sẵn từ thuở nào cho nên là cái chân thật. Tự tánh thiên chân Phật là ông Phật từ thuở nào, chớ không phải ông Phật lệch. Năm ấm mây bay trôi luống qua, Ba độc bọt nổi dối ch́m mất. Nghĩa là thân năm ấm này như là mây trôi, luống qua lại không có ǵ thật hết. Tất cả chúng ta ai cũng có sẵn thân năm ấm, là cái không thật, hư dối, nó c̣n nó mất, sanh diệt nơi này, nơi nọ, nơi kia như là áng mây trôi. C̣n ba độc giống như là ḥn bọt nổi ch́m, chỉ là hư dối, có rồi mất. Như vậy hai câu này cảnh tỉnh chúng ta. Chúng ta biết Pháp thân là tánh giác, là đức Phật có sẵn, là cội nguồn, th́ thân năm ấm và ba độc trong chúng ta là mây, là bọt, mất c̣n không có giá trị ǵ hết. Nhưng bây giờ ngược lại, ông Phật thiên chân ở đâu chưa thấy, mà chỉ thấy thân năm ấm và ba độc, cho nên cả ngày cứ lộn xộn, lôi thôi với nhau. Bám vào thân năm ấm cho là thân ta thật, ba độc cũng cho là thật nên loay hoay lẩn quẩn hoài năm này tháng nọ, khổ này hết qua khổ kia. Một khi chúng ta biết được pháp thân sẵn có, chừng đó mới thấy thân này là hư giả, ba độc là dối không thật. Đó là ư nghĩa đoạn này trong Chứng Đạo Ca. Nói Chứng Đạo Ca nghĩa là chứng đạo rồi mới hát được những câu này. C̣n bây giờ ḿnh hát học lóm, chớ không phải ḿnh hát thật. C̣n Ngài được rồi Ngài mới hát, cho nên câu nào cũng là tột cùng, là chí lư. BÀI 6: Ngộ tâm dung dị tức tâm nan, Tức đắc tâm nguyên đáo xứ nhàn. Đẩu chuyển tinh di thiên dục hiểu, Bạch vân y cựu phú thanh san. Dịch: Ngộ tâm là dễ, khó dừng tâm, Dừng được nguồn tâm mọi chốn nhàn. Sao Đẩu chuyển dời trời sắp sáng, Như xưa mây trắng che núi xanh. Ngộ tâm là dễ, khó dừng tâm, Dừng được nguồn tâm mọi chốn nhàn. Bài này dạy cho chúng ta thấy ngộ tâm là dễ mà dứt tâm lại khó. Sao vậy? Đây là câu mà tôi thường nhắc cho tất cả Tăng Ni. Phật dạy, Tổ dạy, ai cũng nhận ra ḿnh có cái tâm chân thật. Có ai không nhận không? Nhận biết ḿnh có tâm chân thật rồi, mà muốn dứt tâm lăng xăng dễ hay khó? Rất khó, cái tâm chân thật của ḿnh hiện ra tuy khó mà c̣n dễ hơn cái tâm lăng xăng dừng được sạch. Nếu dừng được tâm, chừng đó tới đâu cũng thảnh thơi, nhàn hạ. Sao Đẩu chuyển dời trời sắp sáng, Như xưa mây trắng che núi xanh. Hai câu này, dường như tả cảnh chơi không nói ǵ sự tu hành. Đêm khuya chúng ta nh́n, thấy ngôi sao Bắc Đẩu chuyển dần th́ biết trời sắp sáng, mây trắng vẫn che ngọn núi xanh như cũ. Hai h́nh ảnh này nói ǵ? Khi chúng ta dừng được tâm rồi, an nhàn tự tại, chừng đóù chúng ta nh́n trời sắp sáng, xem mây trắng che ngọn núi xanh, là h́nh ảnh tự nhiên của trời đất. Nghĩa là tâm lăng xăng dứt th́ thấy trời, mây, sao, trăng, cái ǵ cũng an nhiên tự tại, không c̣n bận rộn, không c̣n nuối tiếc, không có chán chường hay ham muốn. Cả trời đất trăng sao hiện tiền, đều là tự tại. BÀI 7: Ngu nhân trừ cảnh bất trừ tâm, Trí giả trừ tâm bất trừ cảnh. Bất tri tâm cảnh bổn như như, Xúc mục ngộ duyên thường trấn định. Dịch: Kẻ ngu trừ cảnh chẳng trừ tâm, Người trí trừ tâm chẳng trừ cảnh. Đâu biết tâm cảnh vốn như như, Chạm mắt gặp duyên luôn vững định. Kẻ ngu trừ cảnh chẳng trừ tâm, Người trí trừ tâm chẳng trừ cảnh. Ở đây nói kẻ ngu, người trí, quư vị xét xem! Nếu ai than kẻ tới người lui, lăng xăng lộn xộn, ồn quá tu không được, rồi kiếm hốc núi chui vô ở một ḿnh để tránh cảnh ồn ào của thiền viện, th́ đó thuộc hạng người nào? Ở đây có ai thuộc hạng đó không? Vậy mới thấy nhiều khi ḿnh ngu mà không hay. Cứ tưởng rằng tránh cảnh ồn ào t́m cảnh yên là khôn ngoan lắm, đó là ḿnh biết tu. Nhưng đâu có ngờ. Như tôi thường kể, nếu vô đó mà hít thở thôi, đừng uống nước, đừng ăn cơm th́ chắc dễ tu thật. C̣n vô ngồi trong hốc núi, không có nước uống phải ra múc nước suối, phải kiếm ly hũ đựng là đă phiền rồi. Nhưng uống nước sống cũng chưa được, phải ăn cơm. Cơm ở đâu? Cũng phải lội ra xóm. Không có tiền mua gạo th́ sao? Phải chạy tới người này, người kia mua gạo, về dọc đường lỡ té…, đủ thứ hết. Như vậy rồi phải tảo tần lo cho sự sống, c̣n tu cái ǵ được! Tưởng tu hay, không ngờ lại c̣n đa sự hơn. Rốt cuộc là dở, là ngu, ai có tâm niệm đó th́ xét biết nghe! C̣n ở đây, tới giờ th́ ngồi thiền, tới giờ th́ nấu cơm, làm việc ǵ cũng không có bận lo ǵ hết. Người trí th́ trừ tâm mà không trừ cảnh. Tại sao vậy? Bởi v́ người trí thấy cái rộn ràng lăng xăng nơi tâm chớ không phải do cảnh ở ngoài. V́ vậy mà phải lo dọn dẹp, đuổi trừ tâm, đó là cái gốc. Đâu biết tâm cảnh vốn như như. Nhưng nếu biết tâm nào cảnh nào cũng như như th́ khỏi trừ tâm trừ cảnh ǵ hết. Nghĩa là cứu kính như vậy. Đến đây th́: Chạm mắt gặp duyên luôn vững định. Tức là gặp người này hay gặp việc kia tâm đều an định, không c̣n rối rắm khó khăn. Tóm lại, người tu nếu khéo th́ trước cảnh ḿnh vẫn không động, những tâm lăng xăng khéo trừ sạch, th́ đến đâu cũng là chỗ an vui, là chỗ vững định, tức là ở trong Tam-muội. BÀI 8: Nhất diệp biển chu phiếm diểu mang, Tŕnh nhiêu vũ trạo biệt cung thương. Vân sơn thủy nguyệt đô phao khước, Doanh đắc Trang Chu điệp mộng trường. Dịch: Một chiếc thuyền con vượt bể khơi, Quẫy chèo múa nhịp hát ca chơi. Núi mây trăng nước đều ném quách, Giành được Trang Chu giấc mộng dài. Bài này của bà ni Diệu Tổng, đệ tử ngài Đại Huệ đời Tống. Một chiếc thuyền con vượt bể khơi, Quẫy chèo múa nhịp hát ca chơi. Chúng ta sống giữa biển trần lao này, làm tất cả việc mà thảnh thơi không bận bịu, không dính mắc, không lo buồn, như chiếc thuyền con ra khơi vung chèo quẫy nhịp, hát ca vượt khỏi lề luật âm vận thông thường – cung thương là hai âm trong ngũ âm của âm nhạc Trung Quốc. Núi sông trăng nước đều ném quách, Giành được Trang Chu giấc mộng dài. Không kẹt ở núi, ở mây, ở nước tức là không có dính, không quyến luyến ǵ bên ngoài hết. Người tu, nhất là người tu thiền, trong cuộc sống cũng gặp bao nhiêu người, cũng làm đủ thứ công tác, không dính, không mắc, không bận rộn, khi đó ḿnh hiểu được giấc mộng dài hóa bướm của Trang Chu. Ông nằm mơ thấy ḿnh hóa bướm, lúc tỉnh dậy thắc mắc không biết ḿnh là bướm hay bướm là ḿnh mới nghiệm ra đời chỉ là giấc mộng dài. BÀI 9: Nam Đài tĩnh tọa nhất lô hương, Chung nhật ngưng nhiên vạn lự vong. Bất thị tức tâm trừ vọng tưởng, Đô duyên vô sự khả tư lương. Dịch: Đài Nam tĩnh tọa một ḷ hương, Lặng lẽ suốt ngày niệm lự không. Chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng, Chỉ v́ không việc đáng lo lường. Bài kệ này chỉ cho sự tu rất là hay. Đài Nam tĩnh tọa một ḷ hương. Chữ “đài” này chúng ta phải hiểu, theo nghĩa trong đạo chớ đừng hiểu theo ngoài đời. Ngoài đời th́ “đài” là chỗ quan trọng. C̣n trong đạo nói “Đài Nam” là chỗ ḿnh ngồi thiền trong núi hay là trên một góc của nhà thiền. Lặng lẽ suốt ngày niệm lự không. Ngồi đó trọn ngày không c̣n một chút niệm lự nào, lúc đó th́ sao? Chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng, Chỉ v́ không việc đáng lo lường. Chỗ này hết sức là khéo. Chúng ta ngồi cố gắng dứt tâm, việc ǵ đến ḿnh cũng nghĩ cho nên phải đè xuống. Mới đi ra ai nói câu ǵ đó, hơi xúc chạm, lúc ngồi thiền, vừa yên liền nhớ, rồi đè xuống, nói “không được”, rồi lại nhớ nữa, cứ đè nữa, đè hoài, đè hoài. Tại sao phải đè? V́ thấy lời nói đó là thật, cảnh ngoài là thật, gỡ không được. Thí dụ lúc ngồi thiền, nhất là bên Tăng, chiều chiều nghe bên ngoài lâu lâu có tiếng cười rộ lên, lúc đó nói “đừng nghĩ, đừng nghĩ”, rồi “đừng nghĩ”. Lát nữa tiếng cười lại rộ lên, xả thiền ra đau cái đầu. Khổ quá phải không? Người ta cười kệ họ, chuyện ǵ dính tới ḿnh, như tṛ đùa không có ǵ thật hết. Không có ǵ quan trọng, đừng bận tâm th́ có ǵ đâu mà phải đè? Sở dĩ có đè tại v́ cho là thật. Cho nên ở đây nói rằng: “Chẳng phải dứt tâm trừ vọng tưởng”. Tâm không cần dứt ǵ hết, mà “chỉ v́ không việc đáng lo lường”. Không có ǵ quan trọng để bận tâm. Nếu không có việc th́ nghĩ cái ǵ đây? Nghĩ tới người th́ người hư ảo, nghĩ tới cảnh th́ cảnh hư ảo, lời nói th́ lời nói hư ảo, không có ǵ đáng bận tâm cả. Có cần dứt vọng tưởng không? Cho nên người nào cũng thấy cần mẫn tu, cần mẫn mà c̣n thấy cảnh ngoài thật th́ khổ sở, chỉ hết khổ khi thấy ngoại cảnh hư ảo không có ǵ thật. Chửi ḿnh là tṛ chơi, khen ḿnh cũng tṛ đùa, ai làm ǵ th́ làm, ḿnh cứ ngồi tự tại, yên lặng, đó mới thật là ngồi thiền. Nếu c̣n phải đè, phải kềm, phải dứt, tu như vậy rất nhọc công. Quư vị kiểm lại có cái ǵ thật nói tôi nghe! T́m không ra! Không có cái thật, th́ bận tâm cái ǵ? Người nào khôn ngoan, lấn lướt người khác mấy chục năm cũng tắt thở, cũng bị chôn xuống. Nếu người thật thà bị người khinh chê, được ít chục năm cũng qua mất có ǵ đâu mà quan trọng. Chỉ có một cái c̣n măi măi mà ḿnh không biết cứ lo chuyện người này, người kia, người nọ, hơn thua phải quấy tạm bợ cứ bận bịu măi. Muốn tâm yên, nó không yên, rồi tự khổ “tu hoài mà sao không yên”. Tại c̣n nghĩ, c̣n tin mọi sự là thật, là lâu dài, cho nên ḿnh cứ bị quấy nhiễu. Nếu không bận tâm nữa, th́ không cần dứt tâm trừ vọng tưởng, tâm tự yên. Đó là lời rất chí lư để cho ḿnh hiểu mà tu. BÀI 10: Sấu trúc trường tùng trích thúy hương, Lưu phong sơ nguyệt độ vi lương. Bất tri thùy trụ Nguyên Tây tự, Mỗi nhật chung thanh tống tịch dương. Dịch: Tre gầy thông cỗi nhỏ giọt hương, Gió lướt trăng lên chút lạnh lùng. Nguyên Tây chùa ấy ai ở đó? Chiều chiều chuông đánh tiễn tịch dương. Bài kệ này là của Thiền sư Chuyết Công (1590-1644) sau này ngài Hương Hải thích nên đọc thuộc. Tre gầy thông cỗi nhỏ giọt hương, Gió lướt trăng lên chút lạnh lùng. Trước chùa có một bụi tre già, sương lâu lâu rớt xuống một hai hạt thơm nhè nhẹ. Thỉnh thoảng gióù lướt qua, trăng lên mát mẻ. Nguyên Tây chùa ấy ai ở đó? Chiều chiều chuông đánh tiễn tịch dương. Chùa Nguyên Tây không biết ai ở trong, chiều nào cũng nghe dộng chuông boong boong, ánh trời chiều lần lần lặn mất, thật đẹp. Mỗi buổi chiều tà nghe tiếng chuông chùa gióng mà không biết ai ở trong chùa. Miễn nghe có tiếng chuông th́ biết có người trong chùa, dù không biết tên. Thân tứ đại hoạt động tới lui, qua lại, nói năng cũng có người làm chủ. Nếu không có ông chủ, thân làm ǵ hoạt động, nói năng. Tất cả chúng ta đây có ông chủ không? Ai ai cũng có ông chủ, mà hiện giờ chúng ta sống với chủ hay với tớ? Nếu nói theo Duy Thức học, chủ là Tâm vương, c̣n tớ là tâm sở lệ thuộc. Sống với một đám nô bộc mê vọng ồn ào buồn thương giận ghét, quấy rầy mà nhận là chủ, trong khi ông chủ đang sáng suốt thảnh thơi th́ không chịu nhận, mà cứ theo cái đám đủ thứ nhận nó là ḿnh. Khổ không? Vậy là phải hiểu để trở lại phăng t́m con người thật của ḿnh, đừng để lệ thuộc vào đám nô bộc trăm thứ, chúng sẽ làm cho ḿnh phải khổ sở. BÀI 11: Trụ mộng na tri mộng thị hư, Giác lai phương giác mộng trung vô. Mê thời kháp đắc mộng trung sự, Ngộ hậu hoàn đồng thùy khởi phu. Dịch: Trong mộng đâu hay mộng dối hư, Tỉnh rồi mới biết có ǵ ư? Khi mê hợp với việc trong mộng, Đă ngộ lại đồng ngủ dậy chừ! Trong mộng đâu hay mộng dối hư, Tỉnh rồi mới biết có ǵ ư? Trong mộng đâu biết mộng là dối. Thí dụ mộng thấy đang ngồi ăn tiệc, vui vẻ quá không biết dối. Chừng giật ḿnh thức dậy mới biết dối. Biết dối là khi nào tỉnh, c̣n mê th́ không biết. Chúng ta mấy mươi năm ở đây, tưởng chừng như dài lắm, nh́n kỹ so với tánh giác, với Pháp thân th́ chỉ là một trường mộng mà thôi. Mới ngày nào đó thấy đầu xanh, nh́n lên th́ tóc bạc rồi, lật bật đă lụm cụm, chuẩn bị đi về chỗ vĩnh biệt ngàn thu. Cứ tưởng rằng thật, nhưng thức th́ mới biết mộng là dối. Như vậy thức là khi chúng ta biết cuộc đời, biết thân này không lâu dài. Biết rơ như vậy để trở lại sống với cái chân thật. Biết đời là giả là mộng, như vậy là tỉnh. Nếu ḿnh cứ chạy theo danh theo lợi của trần tục rồi chết, th́ mộng hoài không có ngày tỉnh. Khi mê hợp với việc trong mộng, Đă ngộ lại đồng ngủ dậy chừ. Đối chiếu cuộc sống này ḿnh đang mê, chạy theo tài sắc danh lợi ở thế gian, giống hệt như người đang say trong cơn mộng vậy. Khi ngộ rồi th́ giống như người ngủ thức dậy. Tṛ chơi giả dối không có giá trị. Chưa ngộ tức là c̣n mê, thấy mộng tưởng là thật. Mộng tỉnh là lấy việc thế gian để dụ cho mê ngộ của người tu. Người thế gian chỉ biết mộng là giả khi nào họ tỉnh. Người tu khi ngộ th́ biết được cuộc đời là giả, nếu mê th́ thấy cuộc đời cũng thật như ai vậy thôi. BÀI 12: Khô mộc nham tiền sai lộ đa, Hành nhân đáo thử tận tha đà. Lộ tư lập tuyết phi đồng sắc, Minh nguyệt lô hoa bất tự tha. Liễu liễu liễu thời vô sở liễu, Huyền huyền huyền xứ diệc tu ha. Ân cần vị xướng huyền trung khúc, Không lư thiềm quang yết đắc ma? Dịch: Cây khô trước núi dễ lạc đàng, Người đi đến đó thảy mơ màng. Tuyết trong c̣ trắng đâu cùng sắc, Trăng sáng hoa lau màu chẳng đồng. Liễu liễu, khi liễu không chỗ liễu, Huyền huyền, chỗ huyền cũng phải buông. Ân cần hát khúc huyền trung ấy, Ánh trăng giữa trời nắm được không? Bài này của Thanh Nguyên Hành Tư (660-740), là bài Chính Vị Tiền trong Thập Huyền Luận. Cây khô trước núi dễ lạc đàng. Ở đây diễn tả cảnh người tu đi tới chỗ không c̣n thấy tâm niệm dấy khởi nữa. Lúc đó giống như cây khô, chỗ vô sanh người ta dễ lầm mà buông hết mọi việc. Người đi đến đó thảy mơ màng. Ngài Duyên Quán ở núi Lương Sơn, đệ tử tông Tào Động, khi vị Tri sự hỏi “Giặc nhà khó giữ th́ phải làm sao?” Ngài trả lời: “Biết nó th́ không phải oan gia?” Hỏi: “Sau khi biết th́ phải làm ǵ?” “Đày đến nước vô sanh đi!” Tri sự nói: “Nước vô sanh đâu không phải là chỗ an thân lập mạng của y?” Thường ḿnh tu tới chỗ yên lặng thanh tịnh th́ ưa thích, hài ḷng. Đây là vô sanh, là chỗ người ta dễ lầm cho nên Ngài mới nói: “Nước chết không chứa được rồng”. Chỗ nước vô sanh đó là nước chết không chứa được rồng, tới chỗ im phăng phắc, không c̣n niệm khởi như cây khô, như núi lạnh chưa phải là rồi, phải có cái ǵ nữa. Ngài Duyên Quán nói chỗ đó là nước chết. Những nơi khác nói đó là Niết-bàn của Nhị thừa, c̣n hỏi: “Thế nào là nước sống?” Ngài nói: “Dậy ṃi mà không thành sóng”. Nghĩa là tới chỗ lặng lẽ rồi c̣n phải giác, chớ không phải là vô tri, chỗ đó mới là chứa được rồng, dậy ṃi mà không thành sóng (sóng ví dụ cho tâm niệm theo duyên), dậy ṃi mà hằng giác, không có cái im lặng như nước chết. Rồi hỏi thêm: “Khi đầm nghiêng núi đổ th́ sao?” Ngài bước xuống giường thiềàn nắm đứng nói: “Không ướt cái góc ca-sa của lăo tăng”, chừøng nàøo được nước sống chứa rồng chừng đó mới thong dong tự tại, không có cái ǵ quấy nhiễu được, đó là chỗ chí lư. Tuyết trong c̣ trắng đâu cùng sắc. Tuyết đóng trên cây trên lá trắng phau phau, với con c̣ trắng, cả hai đều trắng hết, nhưng tuyết là vô tri, c̣ trắng là hữu tri. Hai thứ dường như không khác mà khác. Đứng về màu trắng th́ như nhau, nhưng một bên vô tri một bên hữu tri. Trăng sáng hoa lau màu chẳng đồng. Hoa lau và trăng cũng sáng cũng trắng nhưng hai cái khác. Trăng là cái sáng trùm cả bầu trời. C̣n cái sáng của hoa lau chỉ một cành nhỏ. Như vậy chúng ta đừng lầm, tới chỗ yên tưởng đó là cùng tột, giống như là lầm tuyết trắng với c̣ trắng, hoa lau với trăng sáng. Như vậy th́ phải c̣n cái ǵ nữa? Liễu liễu, khi liễu không chỗ liễu. Ḿnh phải liễu liễu, mà khi liễu không có cái ǵ để liễu. Huyền huyền, chỗ huyền cũng phải buông. Ngộ tức là liễu ngộ tuy thâm thúy sâu xa, nhưng chỗ huyền đó cũng cần quở trách. Ân cần hát khúc trong huyền ấy, Ánh trăng giữa trời nắm được không. Tới chỗ cứu kính th́ ḿnh mới hát khúc mầu nhiệm, nhưng chỗ đó như ánh trăng trong hư không, không nắm bắt được. Người tu phải đến nơi đến chốn đừng có mắc kẹt, được một chút chớ tưởng đó là xong, mà phải tiến tới chỗ cuối cùng. Liễu liễu, liễu tức là liễu ngộ mà rốt cuộc không c̣n sở liễu. Huyền huyền tức là mầu nhiệm, huyền diệu được một lần, hai lần, nhưng rồi cũng dẹp huyền diệu đó đi, v́ c̣n có ngộ c̣n có nhiệm mầu, th́ chưa phải là chỗ cứu kính chân thật. Cứu kính chân thật là chỗ tự tại, trong sáng trùm khắp không có giới hạn. Bài kệ này là cảnh tỉnh những người tu được ít cho là đủ, rồi hài ḷng thỏa măn, cho nên bị kẹt. BÀI 13 : Nhàn tọa yến nhiên thánh mạc tri, Túng ngôn vô vật tỉ phương y. Thạch nhân bă bảng vân trung phách, Mộc nữ hàm sanh thủy để xuy. Nhược đạo bất văn cừ vị hiểu, Dục tầm kỳ hưởng nhĩ hoàn nghi. Giáo quân xướng họa nhưng tu họa, Hưu vấn cung thương trúc dữ ti. Dịch: Thảnh thơi ngồi lặng Thánh biết chi, Dẫu rằng không vật so sánh y. Trong mây người đá cầm phách gơ, Đáy nước nàng gỗ miệng thổi sênh. Nếu bảo chẳng nghe, y chưa hiểu, Muốn t́m vang đó, anh lại nghi. Cho anh xướng họa th́ cứ họa, Chớ hỏi cung, thương, trúc với ti. Thảnh thơi ngồi lặng Thánh biết chi. Khi ḿnh đến chỗ chân thật rồi th́ ngồi thảnh thơi yên lặng dù chư Thánh cũng không biết được. Tại sao vậy? Bởi v́ tâm của người đă sống với thể chân thật th́ tự ḿnh biết, không ai khác biết được, v́ tâm thể không có tướng, không có h́nh cho nên đâu ai biết được. Dẫu rằng không vật so sánh y. Nghĩa là không có thể đem vật ǵ để so sánh, bởi vậy “Bản lai vô nhất vật”. Đến chỗ đó là diệu dụng. Trong mây người đá cầm phách gơ, Đáy nước nàng gỗ miệng thổi sênh. V́ diệu dụng nên người đá trong mây cũng biết cầm phách, nàng gỗ đáy nước cũng biết thổi sênh. Như vậy bốn câu trên nói lên chỗ cuối cùng, hay chỗ tột cùng của người tu, đến đó rồi th́ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nếu bảo chẳng nghe, y chưa hiểu, Muốn t́m vang đó, anh lại nghi. Nghĩa là người nghe muốn nghe muốn biết cũng không thể hiểu được; muốn t́m tiếng vang cũng t́m không ra, cho nên nghi ngờ; v́ chỗ đó không cho hiểu, không cho biết. Cho anh xướng họa th́ cứ họa. Bây giờ anh cần xướng cần họa th́ cứ xướng họa đi. Chớ hỏi cung, thương, trúc với ti. Như vậy bài kệ này cho chúng ta thấy, người tu đến chỗ chân thật rồi, như “người uống nước nóng lạnh tự biết”, không ai biết cho ḿnh được, Thánh cũng không biết, tuy vẫn có diệu dụng, như người đá biết cầm phách gơ, người gỗ biết thổi sênh. Tất cả âm vận đều có thể diễn bày một cách mầu nhiệm mà không ai có thể hiểu, không ai có thể biết, không ai có thể họa được, bởi v́ âm thanh kia vượt ngoài tất cả dụng cụ đàn sáo cung, thương, trúc, ti, thứ đó không thể sử dụng được. ? |
[A.Chương1][A.Chương2][A.Chương3][A.Chương4][A.Chương5][A.Chương6][A.Chương7]
[B.Chương 1][B.Chương 2][B.Chương 3][B.Chương 4][B.Chương 5]
[B.Chương 6-phần 1][B.Chương 6-phần 2][B.Chương 6-phần 3][B.Chương 6-phần 4][B.Chương 7]