HƯƠNG HẢI THIỀN SƯ NGỮ LỤC
GIẢNG GIẢI
[A.Chương1][A.Chương2][A.Chương3][A.Chương4][A.Chương5][A.Chương6][A.Chương7]
[B.Chương 1][B.Chương 2][B.Chương 3][B.Chương 4][B.Chương 5]
[B.Chương 6-phần 1][B.Chương 6-phần 2][B.Chương 6-phần 3][B.Chương 6-phần 4][B.Chương 7]
B. GIẢNG GIẢI (tt) VI. KHAI THỊ NGỘ NHẬP ĐƯỢC DUYÊN TỐT TRUYỀN TRAO ẤN CHỨNG. (tt) Trí hay chiếu vốn không, tức là trí hay chiếu soi của chúng ta xét kỹ nó là không thật, nó vốn không. Cảnh bị duyên cũng lặng. Cảnh bị duyên là cảnh bên ngoài, hay là tâm tư lự của ḿnh. Như chúng ta thường ứng dụng tu biết vọng, th́ cái vọng là cảnh bị duyên, biết vọng là trí hay chiếu. Nếu vọng lặng th́ trí hay chiếu cũng không, cho nên có cảnh th́ mới có chiếu, không cảnh th́ trí chiếu cũng không. Lặng mà không phải lặng, bởi không có người hay lặng. Tại sao? V́ trí chiếu soi lặng th́ cảnh bị chiếu soi cũng lặng. Soi mà không soi, bởi không có cảnh bị soi. Chúng ta chiếu soi mà thực sự không có cái chiếu soi, bởi v́ cảnh bị chiếu soi là không th́ cái hay chiếu soi cũng là không. Đó là một lẽ thực. Cảnh và trí đều lặng, tâm lo nghĩ an nhiên, đây chính là con đường cốt yếu trở về nguồn. Cảnh và trí đều lặng th́ tâm ḿnh được an nhiên tự tại, mà chính cái tâm an nhiên tự tại đó, là con đường cốt yếu về nguồn. Như nói rằng: “Trước khi chưa gặp thiện hữu tri thức thấy núi sông là núi sông, gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy biết được lối vào th́ thấy núi sông không phải là núi sông”. Đó là cái trí chiếu soi và cái cảnh bị chiếu soi. Khi trí chiếu soi biết tất cả cảnh là duyên hợp hư ảo không thật, biết được như vậy th́ lần lần cái tâm hay chiếu soi cũng lặng luôn. Khi tâm và cảnh đều lặng th́ núi sông mới thật sự là núi sông. Chúng ta có thể ứng dụng tu một cách dễ dàng là khi có cảnh, phải quán để biết cảnh là hư dối, th́ trí là năng quán, cảnh là sở quán, c̣n năng c̣n sở đối đăi. Nhưng khi cảnh yên lặng th́ trí năng quán cũng dừng; như vậy th́ cảnh và trí đều lặng, lặng th́ tâm ḿnh trở lại chỗ an nhiên, mà chính cái chỗ an nhiên đó mới là chỗ cốt yếu về nguồn, nếu c̣n quán c̣n chiếu th́ chưa phải về nguồn. Thế nên trong kinh Bát Nhă dạy chiếu kiến ngũ uẩn giai không th́ ngũ uẩn là cái bị chiếu, c̣n cái hay chiếu là trí tuệ Bát-nhă gọi là trí quán. Đọc kinh Bát Nhă qua lời qua câu đó là Văn tự Bát-nhă, ứng dụng trí chiếu soi năm uẩn đều không đó là Quán chiếu Bát-nhă, khi trí năng chiếu và ngũ uẩn bị chiếu hai cái đều lặng th́ đó là Thật tướng Bát-nhă. Cho nên ngài Thái Hư ví dụ như người muốn qua sông trước tiên là bước xuống thuyền, chiếc thuyền ví dụ cho Văn tự Bát-nhă; rồi tay chèo hay là cầm dầm bơi để cho thuyền đi qua bờ kia, th́ lúc chèo bơi gọi là Quán chiếu Bát-nhă; khi đến bờ dừng chèo, dừng bơi bước lên bờ là Thật tướng Bát-nhă. Pháp tu rất rơ ràng, nhưng bây giờ chúng ta đang tu cái ǵ, Quán chiếu hay Văn tự Bát-nhă? Nếu chỉ đọc thuộc ḷng th́ là Văn tự Bát-nhă. Nếu tu Quán chiếu Bát-nhă th́ phân tích chiếu soi năm uẩn không thật, quán tới quán lui, bao giờ thấy năm uẩn là không rồi, th́ cái trí năng chiếu cũng dừng v́ đâu c̣n cái ǵ nữa để quán. Năng sở đều dừng th́ tâm an nhiên tự tại mới tới Thật tướng Bát-nhă. Như vậy th́ tu thiền, dù cách này hay cách khác, cũng rất phù hợp với kinh, nhưng v́ lâu nay chúng ta cứ nghĩ học kinh giáo là để tụng, thí dụ tụng kinh Pháp Hoa có phước, c̣n tụng Bát Nhă th́ qua hết khổ ách. Cứ tụng chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách, tin rằng tụng làu làu như vậy sẽ qua hết khổ nạn. Nhưng cứ rên cứ than, cảnh này khổ, cảnh kia khó là đâu có chiếu kiến! Hiểu rơ ràng chỗ này th́ mới biết tu là phải vận dụng trí. Nhiều người cố chấp nói tu thiền mà c̣n chiếu soi, c̣n có trí năng chiếu và có cảnh sở chiếu th́ c̣n đối đăi, chưa phải là thiền. Nói vậy đúng không? Nói đúng là khi nào tu đến cứu kính, chưa đến cứu kính th́ nói không đúng. Đến chỗ cứu kính th́ không c̣n năng sở, nếu chưa đến cứu kính mà bỏ chiếu soi th́ làm sao tu, làm sao được như như? Cho nên khi tu th́ phải quán chiếu, quán chiếu đến nơi rồi th́ năng sở hết, đó mới gọi là cứu kính. Phải hiểu rơ ràng, v́ có nhiều người nói tôi chỉ cho Tăng Ni Phật tử tu, soi thấy cái vọng tưởng, biết nó là hư dối nên không theo, th́ cho là c̣n hai bên đối đăi v́ có vọng tưởng và có cái trí chiếu soi, đối đăi là chưa phải thiền. Nếu ḿnh chưa hiểu kỹ th́ nghe cũng có lư. Ở ngoài thấy núi sông là núi sông, vô đạo cũng thấy núi sông là núi sông th́ có khác nhau không? Phải ba mươi năm gặp thiện hữu tri thức chỉ dạy thấy núi sông không phải núi sông, rồi đến chỗ cuối cùng mới thấy lại núi sông là núi sông th́ đó là thứ thật. Nếu mới bước vào đạo liền thấy núi sông là núi sông, đó là không biết tu. Hiểu như vậy mới thấy lời nào đúng, lời nào sai. Nếu không có giản trạch, cái đúng không biết, cái sai không rành, chúng ta sẽ lẫn lộn nghi ngờ khó tu. Lại nói: Lặng lặng sanh vô kư, tỉnh tỉnh sanh loạn tưởng. Lặng lặng dù hay trị loạn tưởng mà trở lại sanh vô kư. Tỉnh tỉnh dù hay trị vô kư mà trở lại sanh loạn tưởng. V́ vậy nói: “Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, vô kư lặng lặng sai. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải, loạn tưởng tỉnh tỉnh sai.” Mấy chỗ này hết sức là tế nhị, người nghe không khéo th́ không biết nói cái ǵ. Ngài nói rằng: Lặng lặng sanh vô kư, th́ dễ hiểu rồi, bởi v́ yên yên măi rồi không biết ḿnh đi tới đâu, nó trở thành mơ mơ là vô kư. Tỉnh tỉnh sanh loạn tưởng. Tỉnh quá, lại sanh nghĩ bậy. Như vậy lặng nhiều sanh vô kư, tỉnh nhiều phải sanh loạn tưởng không nghi ngờ. V́ vậy mà phải nói: Lặng lặng dù hay trị loạn tưởng mà trở lại sanh vô kư. Bởi v́ loạn tưởng là dấy động, mà lặng lặng th́ dừng cái động, cho nên lặng lặng th́ trị được loạn tưởng, nhưng lặng nhiều quá th́ sanh ra bệnh khác là vô kư. Tỉnh tỉnh dù hay trị vô kư mà trở lại sanh loạn tưởng. Khi vô kư th́ tâm mờ mờ không sáng, nhờ tỉnh mà sáng, nhưng tỉnh măi rồi khởi loạn tưởng. Đây là cách tu đối trị hai bệnh vô kư và loạn tưởng, nhưng nếu cứ đặt nặng về trị bệnh th́ lại trở thành bệnh. Bởi v́ loạn tưởng nhiều th́ cố lặng, lặng măi lại thành vô kư. Vô kư nhiều th́ cố tỉnh, tỉnh măi lại trở thành loạn tưởng. Như vậy chỉ có lời ngài Vĩnh Gia Huyền Giác là chí lư. Tỉnh tỉnh lặng lặng phải, người nào ngồi thiền tỉnh mà lặng là trúng. Vô kư lặng lặng sai, nếu tâm lặng mà mờ mờ không sáng, ngồi yên mà đầu cứ gục lên gục xuống là bệnh vô kư. Lặng lặng tỉnh tỉnh phải. Nghĩa là tâm ḿnh lặêng lặng nhưng lặng trong cái tỉnh th́ phải. Loạn tưởng tỉnh tỉnh sai. Nếu cứ loạn tưởng nhớ chuyện này chuyện kia mà nói tôi ngồi thiền tỉnh th́ chưa trúng. Những chỗ này người tu phải chú tâm ghi nhớ để ứng dụng, mới không mắc kẹt bệnh vô kư và bệnh loạn tưởng, v́ người tu nếu không mắc kẹt vô kư tức là hôn trầm, th́ cũng mắc kẹt loạn tưởng. Hai bệnh đó cứ đổi qua đổi lại măi, cho nên chúng ta phải luôn luôn giữ tỉnh tỉnh lặng lặng, hoặc ngược lại lặng lặng tỉnh tỉnh. Lặng mà tỉnh, tỉnh mà lặng phải đi theo nhau chớ không tách rời được. Cho nên Lục Tổ dạy pháp môn định tuệ đồng thời, chớ không phải trước có định rồi sau mới có tuệ. Chúng ta tu hay nói được định rồi sau mới có tuệ, nhưng được định mà mắc kẹt trong vô kư th́ làm sao khởi tuệ? V́ vậy phải tỉnh tỉnh lặng lặng. Tỉnh tỉnh là tuệ, lặng lặng là định, hai cái theo nhau. Hoặc ngược lại lặng lặng tỉnh tỉnh, lặng lặng là định mà tỉnh tỉnh là tuệ, hai cái không tách rời. Chỗ này là trọng tâm của sự tu, cho nên ai là người ham tu, quyết tu cho có kết quả th́ phải nắm cho thật vững, không nên coi thường. Chúng ta tu mà nhiều khi có ai hỏi hoặc nhờ chỉ dạy th́ lúng túng là v́ không nắm vững những chỗ này. Người tập tu thiền thường bị hai bệnh, hoặc loạn tưởng hoặc hôn trầm. Loạn tưởng th́ ồn ào không yên, c̣n hôn trầm có vẻ yên hơn. Có nhiều người chịu cái yên, nhưng thật ra người tu thiền sợ hôn trầm hơn loạn tưởng. Bệnh hôn trầm nhà Phật gọi là vào hang tối của ma, khi hôn trầm không biết ǵ hết. C̣n tỉnh tỉnh dù loạn tưởng mà cũng c̣n thấy c̣n biết chút chút, chớ hôn trầm th́ không biết ǵ hết. Giả sử ngồi thiền một giờ mà hôn trầm luôn th́ giờ đó thành giờ ngủ, ngủ tức là giờ mê, mê trọn giờ th́ không thể gọi là tu. Khi loạn tưởng th́ chúng ta thấy loạn tưởng này liền bỏ, đến loạn tưởng khác cũng bỏ, c̣n thấy c̣n bỏ là c̣n tỉnh hơn, đỡ hơn. Nếu ngồi thiền mà lặng lặng một mạch, mở mắt ra là hết giờ rồi, thấy ngồi thiền có vẻ khoẻ, không nhớ ǵ hết, nhưng không ngờ đó là đang vào hang ổ của ma, không phải là tu. Nên biết cho thật kỹ, phải sợ hôn trầm! Đoạn này Ngài rút tỉa những kinh nghiệm then chốt của sự tu chỉ dạy cho chúng ta. Sư lại nói: Người phàm phần nhiều ở nơi sự làm ngại lư, nơi cảnh làm ngại tâm, nên thường muốn trốn cảnh để an tâm, bỏ sự để giữ lư. Song chẳng biết, chính tâm ấy làm ngại cảnh, lư làm ngại sự. Chỉ cần tâm không th́ cảnh tự không, lư lặng th́ sự tự lặng, chợt liền trở ngược lại tự tâm. Đây là những chỗ mà người tu chúng ta mắc kẹt. Người phàm phần nhiều ở nơi sự làm ngại lư, nơi cảnh làm ngại tâm, nên thường muốn trốn cảnh để an tâm, bỏ sự để giữ lư. Sự là ǵ? Lư là ǵ? Như trong kinh Bát Nhă nói “Ngũ uẩn” là sự, mà “Soi thấy ngũ uẩn giai không”, tánh không là lư, gọi là lư không. Sự là h́nh thức của ngũ uẩn, tánh không là lư của ngũ uẩn. Sự làm ngại lư v́ năm uẩn này làm trở ngại tánh không. Cảnh làm ngại tâm v́ tu là cốt phải an định, mà sống ở trong huynh đệ năm bảy chục người, tới lui gặp nhau qua lại thưa hỏi làm chướng ngại sự tu, nên thích vô trong hang ở một ḿnh, không có ǵ chướng ngại. Sự làm ngại tâm v́ thấy người này người nọ, rồi suy nghĩ bàn luận qua lại khiến tâm bất an. Trốn cảnh để an tâm, một ḿnh vô núi, kiếm hang ngồi tu không thấy ai th́ chắc chắn nhất. Đây là một sai lầm lớn! Như ở đông người ồn quá không thể yên tu, nên từ giă lên núi kiếm một cái hang ngồi tu. Khi đi th́ xin ít gạo, ít muối gói theo, nhưng vẫn chưa đủ cần có lửa có nước. T́m nước th́ phải có đồ chứa, rồi phải có nồi niêu, phải kiếm rau luộc, có thêm sự, có trở ngại chưa? Như vậy trốn vô hang núi có được yên đâu! Rồi tới nạn muỗi nữa, nếu sợ bệnh sốt rét phải kiếm mùng, phải kiếm cái hang có thể giăng mùng. Nếu bị bệnh sốt rét th́ cũng phải đi bệnh viện xin thuốc. Rồi ít hôm hết muối hết gạo lại tính tiếp, phải xách gói đi xuống núi kiếm ăn. Ngồi kiểm lại có biết bao nhiêu chuyện. Như vậy tu hang núi vẫn phải gặp người gặp cảnh không thể trốn. Nếu chỉ cần thở để sống th́ vô núi tu được; c̣n phải ăn, phải uống, phải mặc, rất nhiều nhu cầu th́ trốn trong hang núi tâm cũng khó an. Ở núi mới nghe th́ dường như tu lắm mà rốt cuộc không tu được ǵ, phải lo đủ thứ. Thế nên chúng ta chỉ làm sao ngay nơi sự mà ḿnh đừng để cho ngại lư th́ được, chớ c̣n nếu bỏ sự để giữ lư th́ cái đó không thể được. Hay là trốn cảnh để an tâm cũng không được. Song chẳng biết, chính tâm ấy làm ngại cảnh, lư làm ngại sự. Chính cái tâm làm ngại cảnh. Thí dụ như ở giữa chỗ đông người, nếu chúng ta cứ nghĩ rằng mọi người làm chướng ḿnh th́ đó là cảnh làm ngại tâm, nhưng nếu ngay cảnh mà biết cảnh không có ǵ quan trọng th́ đâu có ngại. Thấy cảnh không thật, tâm ḿnh luôn luôn đối cảnh không dính không kẹt, ai khen cũng cười, chê cũng không giận. Không mừng không giận th́ tâm ở giữa thiên hạ vẫn không có ngại, ngại là tại ḿnh. Hồi xưa tôi đọc trong các kinh A Hàm, nói tiếng động là cái mũi nhọn trở ngại của người tu thiền. Tiếng động cũng như mũi nhọn châm vô người ḿnh, nên người tu thiền sợ tiếng động lắm. Bởi vậy khi tu tôi thích kiếm chỗ nào không có tiếng động, nên mới lên Phương Bối cất Thiền Duyệt Thất. Tưởng ở trong rừng ngồi tu chắc khoẻ lắm v́ không có tiếng động. Nhưng đầu hôm th́ những chiếc xe hàng chở rau cải về Sài G̣n, tới dốc Bảo Lộc, rú ga ù ù rất ồn. Vừa hừng sáng th́ vượn khỉ la oát oát trên cây. Ban đêm th́ ếch nhái kêu, nhiều khi cọp beo đi xuống suối lâu lâu gầm lên một tiếng, nên ngồi trong thất cũng hơi rờn rợn, không yên. Như vậy th́ biết có chỗ nào yên? Về sau tôi ra Vũng Tàu cất Pháp Lạc Thất, mấy rạp hát ở dưới phố tối mở loa hát la om ṣm. Tôi nghĩ hết chỗ trốn, chỉ c̣n cách tu quán tất cả tiếng đều là hư ảo không thậät, mặc kệ âm thanh ca hát ồn ào, chúng ta chỉ cần thấy nó hư ảo rồi sẽ quen, hết sợ tiếng ồn, chỉ cần tâm chúng ta yên th́ đến đâu cũng yên. Như vậy chỉ tâm ngại cảnh, đừng nói cảnh ngại tâm. Ở trong chúng, khi ngồi thiền chung trong chỗ đông, có kẻ th́ lâu lâu ngứa găi, có người th́ đau trở chân cũng chướng cho chúng ta lắm. Nhưng ai làm ǵ th́ làm, ḿnh cứ lo phận ḿnh, nếu chấp nhận th́ không có ǵ chướng. Ở đây Ngài nói cho chúng ta thấy rơ, trốn cảnh để an tâm th́ không thể được, bỏ sự để trở về lư cũng không được. Chỉ cần tâm không th́ cảnh tự không, lư lặng th́ sự tự lặng, chợt liền trở ngược lại tự tâm. Tức là hướng về nội tâm ḿnh chớ không có đi đâu khác. Như vậy, trọng tâm tu là phải tâm “không” trước rồi cảnh mới “không” sau, muốn t́m chỗ nào “không” để cho tâm yên th́ t́m suốt đời không có. Vọng thân đem đến gương soi bóng, bóng chẳng khác với vọng thân. Chỉ muốn bỏ bóng ghét vọng, có biết đâu thân cũng vốn hư dối, thân nào khác với bóng mà muốn một có, một không? Vọng thân đem đến gương soi bóng, bóng chẳng khác với vọng thân. Chúng ta đến trước gương soi th́ thấy thân ḿnh đứng ở ngoài gương, bóng ḿnh hiện ở trong gương, th́ cái nào thậät cái nào giả? Luôn luôn chúng ta cứ nghĩ bóng ở trong gương là giả, cái thân này là thật, mà đâu biết rằng bóng chẳng khác với vọng thân. Bóng mà nói giả v́ tuy thấy mà không thể sờ mó, c̣n thân lại cho là thậät, chúng ta có thể thấy nó, sờ mó xúc chạm được, nhưng khi phân tích th́ thân cũng giả. Chỉ muốn bỏ bóng, ghét vọng, có biết đâu thân cũng vốn hư dối, thân nào khác với bóng mà muốn một có, một không. Chúng ta lúc nào cũng nghĩ bóng là giả cho nên bỏ bóng, thân là thật nên giữ lại. Như vậy là cái giả th́ bỏ, cái thậät th́ giữ lại. Nhưng cái thân có đúng là thật hay chưa? Xét cho tường tận thân chúng ta cũng là hư dối. Bóng dối, thân cũng dối th́ hai cái dối đâu có khác nhau? Không khác tại sao lại bỏ cái này để giữ cái kia? Chỗ này người tu chúng ta cần hiểu rơ. Như tôi nói vọng tưởng phải bỏ, có người nói vọng tưởng là vọng, là giả nên bỏ vọng tưởng, c̣n cái biết vọng tưởng là thật nên giữ lại. Cái biết đó đối với vọng tưởng là trí, trí hay soi, vọng tưởng là cảnh bị soi, nhưng mà trí và cảnh cả hai đều lặng hết mới là thật. Bỏ vọng mà giữ cái trí biết vọng cũng là sai. Cho nên nói bỏ bóng giữ thân cũng là sai. Đó là chỗ rất tế nhị trên đường tu. Khi tu biết vọng, nếu bỏ vọng giữ trí biết vọng là không đúng, bởi v́ đối với cái vọng mà khởi trí dẹp bỏ, khi vọng hết th́ trí dẹp vọng cũng buông luôn. Chỉ c̣n tâm thể sáng mà thanh tịnh, thanh tịnh mà sáng soi trùm khắp th́ đúng, nếu c̣n giữ trí biết vọng chăm chăm th́ chưa được. Hiểu như vậy mới thấy tu rất là vi tế, chớ không phải là đơn giản như chúng ta lầm hiểu. Nếu muốn lấy một bỏ một hằng cùng chân lư cách xa. Lại mến Thánh ghét phàm th́ nổi ch́m trong biển sanh tử. Nếu muốn lấy một bỏ một hằng cùng chân lư cách xa. Bỏ một lấy một th́ c̣n bỏ c̣n lấy, mà c̣n bỏ c̣n lấy th́ c̣n cách xa chân lư. Lại mến Thánh ghét phàm th́ nổi ch́m trong biển sanh tử. Ai tu cũng bắt đầu từ trọng Thánh ghét phàm, v́ trọng Thánh nên tu để thành Thánh, tế nhị. Lỗi ở chỗ chúng ta thấy phàm riêng Thánh riêng. V́ muốn được Thánh phải khinh miệt chán ghét phàm, nhưng đâu ngờ Thánh sẵn ở trong phàm, nếu ghét phàm bỏ phàm th́ t́m Thánh ở đâu ra? Như vậy, con người phàm của chúng ta đă mang sẵn cái mầm Thánh ở trong rồi. Mến Thánh ghét phàm không phải ghét cái thân này, mà ghét cái mầm sanh tử là tham sân si mạn nghi ác kiến. c̣n phàm là si mê nên không ưa thích. Ở đây nói trọng Thánh ghét phàm hay mến Thánh ghét phàm là nổi ch́m trong biển sanh tử, chỗ này hết sức Đó là những cái chúng ta bỏ, bỏ những cái xấu cái nhớp, những cái trói buộc, th́ cái chân thật hiển lộ. Như vậy trong phàm đă có Thánh, bỏ phàm để hiện Thánh, chớ không phải bỏ phàm để đi t́m Thánh. Cho nên ngay trong thân phàm tục, chúng ta khéo luyện lọc, bỏ hết những phiền năo là mầm nhơ nhớp, trói buộc. Bỏ sạch hết th́ cái giải thoát, cái chân thật hiển bày, chớ không t́m cầu ở nơi nào khác. Nếu tưởng Thánh ở ngoài phàm th́ đó là nhân của sanh tử, v́ không biết tu tưởng Thánh là cái ǵ ở trên trời trên mây, c̣n tất cả là phàm tục. Mang cái thân phàm tục rồi phải chờ chết mới thành Thánh, nhưng không chịu dẹp phiền năo để hiển lộ Bồ-đề th́ làm sao thành Thánh được? Cho nên mến Thánh ghét phàm th́ nổi ch́m trong biển sanh tử. Phiền năo nhân tâm cố hữu, Vô tâm phiền năo hà cư? Bất lao phân biệt thủ tướng, Tự nhiên đắc đạo tu du. Phiền năo do tâm nên có, Tâm không phiền năo ở đâu? Chẳng nhọc phân biệt lấy tướng, Tự nhiên được đạo chóng mau. Phiền năo do tâm nên có, Tâm không phiền năo ở đâu? Khi dấy khởi phiền năo th́ suy gẫm hơn thua, phải quấy, tốt xấu, khen chê. Chỗ làm cho ḿnh dấy khởi phiền năo là tâm. Nếu tâm phân biệt hơn thua, phải quấy, tốt xấu, được mất lặng rồi th́ phiền năo không c̣n. Từ tâm mà khởi phiền năo, tâm nếu không dấy khởi th́ phiền năo đâu c̣n chỗ tựa. Bây giờ tôi đi từ đây lên thất, đi một đoạn, có người thấy tôi chào, có người thấy tôi th́ trề môi. Nếu cho người chào tôi là người biết đạo, là dễ thương, c̣n người trề môi tôi là người không biết tu, là dễ ghét. Phân biệt như vậy th́ thương ghét dấy lên, phiền năo sanh khởi; c̣n thấy người ta chào cũng cúi đầu mà đi, thấy người ta trề môi cũng cúi đầu mà đi, không khởi thêm niệm ǵ hết, th́ không có phiền năo. Được khen bị chê không bận tâm, gặp cảnh đều vô tâm hết th́ phiền năo đâu c̣n. Nếu chịu làm như vậy th́ dễ tu quá, Đó là những điều thực tế, gần gũi vô cùng, nhưng v́ tu dở nên cả ngày chúng ta cứ phiền năo. Đâu phải ma quỷ thả mấy con sâu phiền năo lên ḿnh, hoặc thả mấy con vi trùng phiền năo chui vô lỗ mũi sanh ra phiền năo. Chính cái tâm phân biệt tạo thành phiền năo, tâm lặng yên th́ phiền năo tự hết. Nếu xét cho kỹ, nắm được gốc của sự tu, th́ ngọn rất dễ điều phục. Chúng ta lâu nay cứ sợ ngọn mà không phăng tận gốc, như sợ người khác làm ồn tu không được, sợ phiền năo tu không được, nhưng phiền năo gốc từ tâm, người biết tu ở giữa chợ tu cũng được. Tâm không là không phân biệt khen chê, thương ghét… Ai mà không để ư tới khen chê, thương ghét th́ không phiền năo, nếu c̣n bận tâm với thương ghét khen chê th́ không trốn khỏi phiền năo. Chẳng nhọc phân biệt lấy tướng, Tự nhiên được đạo chóng mau. Chúng ta đừng có nhọc nhằn phân biệt tướng mạo, tướng mạo tuy có nhiều, nhưng cũng chỉ là tướng. Chào ḿnh hay trề môi với ḿnh đều là tướng, tướng đẹp, tướng xấu, tướng thấy đáng ghét, đáng yêu… đối với tất cả chúng ta đừng thèm nhọc nhằn phân biệt nữa th́ đạt đạo rất nhanh. Ai tu cũng muốn đạt đạo mà nhạy phân biệt quá th́ làm sao gần với đạo, làm sao chóng được đạo. Như vậy, bốn câu này chỉ cho chúng ta biết rằng khởi tâm phân biệt hơn thua, phải quấy là tâm tạo thành phiền năo, khó đạt được đạo. Nếu cái tâm phân biệt phải quấy hết th́ phiền năo sạch, đối với đạo rất mau có kết quả. Sư lại nói: Thức đắc y trung bảo, Vô minh túy tự tỉnh, Bách hài tuy hội tán, Nhất vật trấn trường linh. Dịch: Biết được báu trong áo, Vô minh say tự tỉnh. Trăm hài dù tan ră, Một vật vững sáng luôn. Biết được báu trong áo, Vô minh say tự tỉnh. Ai tu mà biết được ở trong áo của ḿnh có viên ngọc quư th́ người đó đang sống mê say trong vô minh liền được tỉnh thức. Nếu biết trong áo có viên ngọc hay một hạt châu, th́ chúng ta không đi t́m châu trên núi hay ṃ ngọc dưới đáy biển nữa. Ngay trong thân hư dối này có một cái quư báu vô cùng, biết được như vậy th́ cơn say mê của vô minh liền thức tỉnh. Tại sao? Vô minh là không sáng, là mù mịt. V́ vô minh, chúng ta cứ nghĩ Phật ở một cảnh giới nào khác, c̣n chúng sanh là những kẻ đang ch́m đắm trong cơi Ta-bà này. Phật th́ cao cả, siêu việt, c̣n cuộc sống hiện tại của chúng ta chẳng khác ǵ chiếc áo bẩn, là đồ bỏ. Viên ngọc quư th́ ẩn trong núi, dưới đáy biển chứ không có trong chiếc áo nhơ bẩn này, hiểu như vậy là mê lầm, vô minh. Nếu biết rơ viên ngọc quư sẵn có trong chiếc áo bẩn, th́ mê lầm liền hết. Biết như vậy thôi cũng đă hết mê rồi, huống nữa là lấy ngọc ra xài th́ giàu có vô kể. Bước đầu không phải khó, biết chiếc áo bẩn có viên ngọc, chỉ cần biết, nhưng phải biết chắc trăm phần trăm, chớ không phải biết một cách nửa tỉnh nửa mê. Có khi tin ḿnh có Phật tánh, cũng có khi mờ mịt không biết có hay không. Đó là chưa thật biết. Biết là khẳng định cũng như ḿnh cầm chiếc áo biết trong túi áo có viên ngọc chắc chắn không nghi. Biết rơ rồi tuy chưa lấy ngọc ra bán để sắm đồ đạc nhà cửa, nhưng biết được như vậy là đă hết mê lầm. Ai có nói trời, nói mây, nói trăng, nói cuội ǵ ḿnh cũng không quan trọng. Cứ nói rằng tôi biết tánh giác không nghi, khẳng định như vậy th́ người đó không c̣n vô minh. Vô minh là mê là tối, biếât rơ chính là sáng rồi, đâu c̣n mê tối nữa, th́ đă thoát được kiếp vô minh, huống là biết rồi đem ra dùng nữa, th́ chúng ta giàu có vô kể. Trăm hài dù tan ră, Một vật vững sáng luôn. Trăm hài tức là cái thân này, tính ra th́ nhiều vật lắm nhưng nói tổng quát th́ trăm thứ. Nào xương, gân, da, thịt… cộng lại gọi là trăm hài. Cái thân mang da thịt gân xương này có hoại, có ră, nhưng trong đó có một vật vẫn sáng, vẫn c̣n măi măi. Đó là Phật tánh, là chân tâm. Như vậy ai khéo thấy khéo nhận ra nơi cái thân ô uế tạm bợ vô thường này vẫn có một tánh giác sáng suốt măi măi không hoại, th́ người đó là người đă tỉnh cơn mê của vô minh. Tri cảnh hồn phi thể. Thần châu bất định h́nh Ngộ tắc tam thân Phật, Mê si vạn quyển kinh. Dịch:
Biết cảnh chẳng phải thể, Châu thần chẳng định h́nh. Ngộ ắt ba thân Phật, Si mê muôn quyển kinh. Biết cảnh chẳng phải thể, cái cảnh mà chúng ta giản trạch phân biệt không phải là cái thể chân thật. Châu thần chẳng định h́nh. “Châu thần” tức là hạt thần châu, nó không có h́nh tướng cố định. Như vậy cảnh có thể nói là thân, châu là tâm bất sanh bất diệt, thân này không phải là cái thể thực, chỉ cái tâm bất sanh bất diệt không có h́nh dáng cố định nào mới là cái cứu kính. Ngộ ắt ba thân Phật, Si mê muôn quyển kinh. Nếu ngộ được thần châu sẵn ở trong thân này th́ có đủ ba thân Phật: Pháp thân, Báo thân, Hoá thân hay Ứng thân. Nếu nhận không ra th́ si mê muôn quyển kinh. Không cần nói muôn quyển, chỉ nói tạng kinh thôi, cứ nghiên cứu từ quyển kinh này qua quyển kinh kia để t́m chân lư, t́m đạo. Đâu ngờ kinh không chứa chân lư, không chứa đạo. Kinh chỉ là bản đồ để chúng ta t́m trở về quê. Người muốn về quê mà không biết đường, phải nhờ bản đồ để định được vị trí quê hương nằm ở đâu để trở về. Kinh là cái hướng để đưa chúng ta đến chỗ chân lư cứu kính, nếu chúng ta cứ đọc măi, t́m măi trong đó suốt một kiếp th́ cũng không thấy được quê hương. Bởi v́ bản đồ không phải đích thực là quê hương ḿnh. Ngày nay chúng ta tu, cứ đem kinh ra đọc măi cũng không thể đạt đạo. Ngài Thái Hư phát nguyện ba năm đọc Tam Tạng kinh điển. Trong ba năm đó, Ngài buông hết mọi việc, ở trong thất đọc măi. Một hôm Ngài sáng ra, từ đó Ngài mới đem kinh ra giảng. Như vậy sáng lên đâu phải do kinh mà chính là do ḿnh chuyên cột tâm ở trong đó, rồi một hôm nào bừng sáng. Không phải chữ nghĩa trong kinh là chỗ cứu kính, mà cứu kính là ở tâm. Tâm là gốc của đạo chớ không phải kinh. V́ không thấy được tâm là gốc cứ say mê kinh, nên nói “ngộ ắt ba thân Phật, si mê muôn quyển kinh”. Người ngộ th́ ngay nơi tâm ḿnh nhận ra được tánh giác tức có đủ ba thân Phật, nếu mê có cả muôn quyển kinh vẫn không thấy đạo. Đó là chỉ cho chúng ta biết chỗ nào là gốc, chỗ nào là ngọn. Kế tiếp: Tại tâm tâm khả trắc, Lịch nhĩ nhĩ nan thinh. Vơng tượng tiên thiên địa, Huyền tuyền xuất yểu minh. Dịch: Ở tâm tâm lường được, Qua tai tai khó nghe. Không h́nh trước trời đất, Suối huyền vượt tối tăm. Đây diễn tả khi chúng ta nhận được chỗ chân thật ở ngay nơi tâm của ḿnh. Tâm nhận ra ngay nơi tai, mà tai th́ khó nghe được nó. Thường thường nghe nói “Phản văn văn tự tánh” tức là xoay cái nghe, nghe lại tánh của ḿnh. Nhiều người nghĩ tu phản văn văn tự tánh là ngồi cứ lóng nghe tâm của ḿnh hoài, nhưng tâm đâu phải là âm thanh mà nghe? Chỉ cần ngồi lại nhận ra nơi ḿnh có cái thể thật, chớ lắng nghe tâm muôn kiếp không nghe được. Đó là chỗ nhiều người lầm. Như vậy ngay nơi tâm ḿnh khéo th́ nhận ra, nếu qua lỗ tai tuy sẵn có nhưng nghe lại rất là khó. V́ sao? V́ nó là không h́nh, lại có trước trời đất, chưa có thân này nó đă có, trong suốt không tối tăm. Cho nên gọi là tánh giác. Đó là diễn tả ba thân của ḿnh có sẵn, gốc từ tánh giác mà ra. Những câu kế: Bổn cương phi đoàn luyện, Nguyên tịch mạc trừng đ́nh. Bàn bạc luân triêu nhật, Linh lung ánh hiểu tinh. Dịch: Cứng sẵn không nung luyện, Vốn sạch chớ lóng yên. Mênh mông vầng nhật sớm, Lấp lánh ánh sao mai. Cứng sẵn không nung luyện, tâm thể diễn tả cứng như đá như sắt, nghĩa là không bị tan hoại. Cho nên kinh Kim Cang Bát Nhă nói cứng như kim cương vậy, dù có dùng mọi phương tiện phá cũng không được, đập cũng không bể. Tánh giác đó không phải nung luyện mới cứng, mà sẵn như vậy, không cái ǵ làm cho tan nát được. Vốn sạch chớ lóng yên. Đứng về mặt không sanh không diệt th́ cứng chắc vô kể, c̣n nếu nói là sạch th́ vốn sạch sẵn rồi, không phải lặng yên mới sạch. Như vậy, chúng ta tu để tâm vọng tưởng lặng th́ có phải là đi tới chỗ chân thật không? Lặng yên là yên cái động, c̣n cái chân thật vốn sẵn vậy thôi, bản chất vẫn là yên. Cũng vậy hư không vốn yên sẵn, gió ở trong đó động đậy thôi, không phải ngừng gió hư không mới yên. Như vậy tâm thể của chúng ta nguyên là thanh tịnh, không phải đợi lặng hết những phiền năo mới thanh tịnh. Quư vị nhớ như vậy, lặng là lặng phiền năo th́ tâm thể thanh tịnh đó hiển bày, không phải nhờ lặng phiền năo mới có tâm thanh tịnh. Chúng ta hiểu cho thật kỹ, đừng lầm lẫn. Mênh mông vầng nhật sớm, Lấp lánh ánh sao mai. Tâm thể đó mênh mông như mặt trời buổi sáng, và lóng lánh như ánh sao mai. Đó là diễn tả tâm thể không có ǵ làm cho tan hoại, không có ǵ làm cho trong sạch mà tự trong sạch sẵn, thể là sáng, là chiếu soi. Thụy quang lưu bất diệt, Chân khí xúc hoàn sanh. Giám chiếu không động tịch, La lung pháp giới minh. Dịch: Sáng lành sáng sáng măi, Chân khí chạm lại sanh. Chiếu soi không động lặng, Che trùm pháp giới minh. Sáng lành sáng sáng măi, Chân khí chạm lại sanh. Đoạn này nói từ cái thể trong sáng đó hiện ra muôn loài muôn vật. Tại sao vậy? Tánh giác đó sáng trong lành, sáng măi không bao giờ dừng, không bao giờ hết. Nhưng v́ có cái chân khí chạm tới ánh sáng liền sanh ra thiên h́nh vạn trạng. Theo kinh Lăng Nghiêm giác minh là tánh giác sáng, rồi khởi minh lại tánh giác, soi lại tánh giác nên từ đó có hai, rồi mới sanh ra sơn hà đại địa. Đạo Nho cho rằng chân khí dấy động sanh ra lưỡng nghi, tứ tượng… Như vậy tâm thể nguyên là trong sáng, nhưng do có cái chiếu soi lại mới sanh ra muôn sự muôn vật. Chiếu soi không động lặng, Che trùm pháp giới minh. Cái chiếu soi đó không động cũng không lặng. V́ thể là trong sáng măi, nhưng bởi có chiếu soi nên có ra muôn sự muôn vật. Do đó, những cái chiếu soi không phải là thật. cái thật là ánh sáng trùm hết không có nơi chốn. Giải ngữ phi quan thiệt, Năng ngôn bất thị thanh. Tuyệt biên nhị ô mạn, Vô tế đẳng không b́nh. Dịch: Hiểu lời nào dính lưỡi? Hay nói chẳng phải thanh. Tuyệt bờ dừng nhơ nhiễm, Không mé đồng hư không. Hiểu lời nào dính lưỡi? Hay nói chẳng phải thanh. Cái chân thật không nói đến được, không bàn đến được v́ chỗ đó dứt sạch mọi nhơ nhiễm, đồng với hư không. Người khéo nói th́ không dính ở lưỡi. Người “hay bàn” tức là giỏi bàn, phải không mắc kẹt âm thanh. Như vậy âm thanh từ cái lưỡi, là những h́nh tướng động tịnh, chỗ chân thật nếu nhận biết được th́ không dính với những động tịnh. Tuyệt bờ dừng nhơ nhiễm. Đến chỗ tột cùng, th́ không c̣n nhơ, không c̣n nhiễm. Không mé đồng hư không. Tức không bờ mé đồng với hư không. Như vậy cứu kính chân thật không nói năng được, không nhiễm ô được. Kiến nguyệt phi quan chỉ, Hoàn gia mạc vấn tŕnh. Thức tâm tâm tắc Phật, Hà Phật cánh kham thành. Dịch: Thấy trăng thôi xem ngón, Đến nhà chớ hỏi đường. Biết tâm tâm ắt Phật, C̣n Phật nào để thành? Ngài kết thúc bằng bốn câu này. Đêm mùng 5, mùng 6 âm lịch, trăng lưỡi liềm hiện ở phương Tây, lúc trời nhá nhem chưa tối ánh trăng khó thấy, có người chưa thấy hỏi ở đâu th́ ḿnh phải làm sao? Ḿnh chỉ: Đó, chỗ này! Ngón tay chỉ hướng mặt trăng, nếu muốn nh́n thấy mặt trăng th́ nh́n ở đâu? Nh́n ngay nơi đầu ngón tay, hay là nương đầu ngón tay mà nh́n thẳng tới góc chân trời kia? Như vậy, ngón tay đối mặt trăng th́ cách thiên lư, vạn vạn thiên lư chớ không phải thiên lư thôi. Nhưng chúng ta khéo nương ngón tay nh́n th́ thấy mặt trăng. Kinh của Phật là ngón tay, chân lư hay tánh giác là mặt trăng. Chúng ta nương ngón tay để thấy mặt trăng, không nên bám chặt vào ngón tay cho là mặt trăng. Nếu cho kinh điển là tột cùng, Phật tánh sẵn có trong kinh th́ không được. Người đă được mặt trăng rồi th́ ngón tay đối với họ c̣n cần thiết nữa không? Có nhiều vị Thiền sư không tụng kinh bao giờ, vậy họ có tu không? Khi chúng ta đưa ngón tay để chỉ mặt trăng, thấy được mặt trăng rồi th́ ngón tay vô nghĩa, không c̣n cần thiết nữa. Cho nên nói rằng: Thấy trăng thôi xem ngón, Đến nhà chớ hỏi đường. Chúng ta muốn trở về quê, t́m lại nhà xưa của ḿnh nên nhờ tấm bản đồ giúp cho chúng ta biết hướng. Phải xem đây đi tới đó bao xa? Trải qua những cái ǵ, để biết rơ mà đi. Khi chưa đến nhà, tấm bản đồ là hữu ích, nhưng tới cổng bước vô nhà rồi, tấm bản đồ lúc đó ra sao? Xếp bỏ túi không cần mở ra nữa. Nếu tới nhà rồi mở bản đồ coi hoài, biết chừng nào bước vô nhà. Kinh điển như tấm bản đồ, như ngón tay chỉ mặt trăng giúp cho chúng ta t́m ra cái thật của ḿnh, chớ không phải kinh điển, ngón tay là chân lư, là mặt trăng. Biết kỹ như vậy th́ chúng ta tu mới không lầm lẫn. Biết tâm tâm ắt Phật, C̣n Phật nào để thành. Ngay nơi ḿnh có tánh giác, mà giác tức là Phật. Chúng ta phải làm sao để cho tánh giác hiển lộ tṛn đầy, tánh giác bây giờ bị mấy lùm mây đen tham sân si phiền năo che khuất đi, khi dẹp tan đám phiền năo tham sân si, th́ tánh giác hiện ra, ngay đó là Phật. Cho nên ngay thân phàm đă có ông Phật sẵn. Bỏ phàm cầu Thánh vẫn là sanh tử. Biết ngay nơi phàm sẵn có Thánh, dẹp hết những cái nhân che đậy th́ Thánh hiện ra. Tánh Phật của ḿnh không cần uốn nắn đào luyện ǵ hết, chỉ cần dẹp bỏ những cái phiền năo vô minh. Bởi vậy nên tôi nói tu chỉ có một chữ thôi, là “buông”. Thấy người ta nói chuyện với ḿnh có thiện cảm, ḿnh trầm trồ khen người đó ăn nói có duyên. C̣n ai nói chuyện với ḿnh thấy ác cảm, th́ cho là họ ăn nói vô duyên. Ác cảm, thiện cảm đă gắn vô trong này, th́ mấy thứ tham sân si hưởng ứng liền, cho nên tánh Phật của ḿnh bị che khuất hoài. C̣n bây giờ ai nói chuyện hiền lành hay nói chuyện thô tục, ḿnh cứ bỏ qua, không thèm chứa chấp th́ tánh giác ḿnh có bị che không? Thấy bỏ, nghe bỏ, cái ǵ cũng bỏ, bỏ hết, chỉ cần bỏ hết là xong. Như vậy chỉ có chữ buông thôi, vừa nghĩ nhớ thương ai, giận buồn ai, liền bỏ không thêm ǵ nữa. Tôi không bảo quư vị phải t́m cách này cách kia để tô vẽ thêm cho khéo cho đẹp, chỉ có bỏ thôi, chỉ dùng chữ bỏ mà tu, tu măi là thành. Bỏ ra, bỏ ra, bỏ măi th́ cái chân thật nó hiện. Như vậy tu không có ǵ nhiều, chỉ tại ḿnh không chịu bỏ, bị che rồi mà c̣n kiếm vô thêm nữa, nay chứa cái này, mai chứa cái kia, chứa đủ thứ hết. Đi về thành phố trở lên là có bao nhiêu chuyện che. Thấy cái ǵ thích, cái ǵ không ưa về kể cho huynh đệ nghe. Một người nghe chưa đủ, kể thêm nữa, gặp ai cũng ngoắc lại kể, kể rồi nó thấm vào trong này. Thành ra từ một cái mù mong mỏng mà kể măi rồi thành lớp mù dày che kín ông Phật của ḿnh, nhúc nhích không nổi. V́ không biết tu cho nên chúng ta tạo điều kiện che khuất ông Phật của ḿnh. Nếu biết tu rồi th́ cứ gỡ bỏ gỡ bỏ, bỏ măi th́ sạch, sạch rồi th́ ông Phật của ḿnh tự do tự tại hiện ra. Như vậy kiếm ông Phật ở đâu? Ai có quyền làm cho ông Phật ḿnh được tự tại và ai có quyền trói buộc ông Phật của ḿnh? Chính ḿnh. Ai tu cũng nói tu cho thành Phật mà cứ thêm, chứa chất măi, che lấp không ai thấy được hết, thành Phật sao được. Cho nên hiểu rồi quư vị thấy tu đơn giản vô cùng. Tôi không nói quư vị tụng bao nhiêu biến kinh, cứ ai làm quư vị hơi dấy buồn, bỏ không cho buồn, rồi ai làm cho ḿnh thương, bỏ không thương. Cứ chịu khó bỏ, cái ǵ vừa tới bỏ không cho lấp vô. Như vậy có kinh điển ǵ đâu? Không có tốn một quyển kinh mà tất cả cái ǵ che khuất từ từ tan, ông Phật ḿnh dần hiện, hết sức đơn giản. Mà dễ làm hay khó làm? Ḿnh đem vô rồi, bây giờ bỏ ra nên khó phải không? Pháp thân không h́nh tướng, chẳng thể đem âm thanh cầu. Diệu đạo không lời nói, chẳng thể dùng văn tự hội. Dẫu cho vượt lên Phật Tổ, vẫn rơi vào thềm bậc. Mặc dù nói diệu bàn huyền, cuối cùng cũng dính trên môi lưỡi. Phải là, chẳng phạm công huân, chẳng để dấu vết, như cây khô, gộp đá lạnh, trọn không chút tươi nhuận. Như người huyễn, ngựa gỗ đều không t́nh thức. Được như thế, mới hay buông tay vào chợ, chuyển thân đi trong dị loại. Đoạn này nói sự dễ dàng mà tôi nêu ở trên. Pháp thân không h́nh tướng, chẳng thể đem âm thanh cầu. Muốn cầu Pháp thân mà dùng âm thanh cầu th́ không được. Diệu đạo không lời nói, chẳng thể dùng văn tự hội. Không thể dùng âm thanh cầu, không thể dùng văn tự để hiểu. Dẫu cho vượt trên Phật Tổ, vẫn rơi vào thềm bậc. Dẫu hay vượt hơn Phật Tổ nữa, th́ vẫn rơi vào trong thềm bậc rồi. Mặc dầu nói diệu bàn huyền, cuối cùng cũng dính trên môi lưỡi. Nói cho hay, bàn cho giỏi cũng là ở môi lưỡi thôi. Phải là chẳng phạm công huân, chẳng để dấu vết. Nghĩa là không phải dụng công huân tập. Một chữ “buông” thôi th́ không có huân, cũng không để dấu vết. Cái ǵ cũng buông bỏ th́ đâu có ǵ dính, đâu có ǵ kẹt, đâu có ǵ tỏ ra thương yêu hay chê ghét, người ta tưởng ḿnh như cây khô, như đá lạnh không có một chút tươi nhuần. Như người huyễn, ngựa gỗ đều không có t́nh thức. Bởi v́ t́nh thức là phân biệt để yêu ghét, để khen chê, bây giờ buông không cho phân biệt th́ yêu ghét khen chê đâu c̣n. Được như thế mới hay buông tay vào chợ, chuyển thân đi trong dị loại. Tức là buông tay vào chợ, đi trong các loài khác nhau mà không dính ǵ hết. Đó là tinh thần của tông Tào Động, nghĩa là chúng ta sanh sống trong mọi hoàn cảnh không ǵ trở ngại hết, cho nên dùng hai câu thơ này kết luận: Cũng chẳng nói: Trong cơi vô lậu giữ chẳng dừng, Lại đến trũng sương nằm cát lạnh. (Vô lậu quốc trung lưu bất trụ, Khước lai yên ổ ngọa hàn sa.) Người tu thường thích đi tới chỗ vô lậu. Vô lậu là ǵ? Là vô sanh, không c̣n rớt trong Tam giới. Trong cơi vô lậu giữ chẳng dừng. Trong chỗ vô sanh mời giữ lại cũng không dừng. Các ngài hay nói: “Phải thoát qua nước chết, nước chết không chứa được rồng”. Nước chết là chỗ vô lậu, là Niết-bàn của Nhị thừa, nghĩa là vào đó th́ ch́m luôn, dù được không sanh tử nhưng không lợi ích cho chúng sanh, nên không dừng ở đó. Lại đến trũng sương nằm cát lạnh. Tới những nơi sương mù gối đầu trên cát lạnh mà lại chịu, tức chịu lang thang. Chúng ta nhớ h́nh ảnh thứ mười của mười mục chăn trâu. Tưởng đâu tu rồi được lên Bồng Lai Cực Lạc, ngồi trên ṭa sen hào quang sáng rỡ, thiên hạ quư trọng. Đâu ngờ tới mục thứ mười, chống gậy xách cá chép mang bầu rượu vô chợ, coi tầm thường làm sao! H́nh ảnh này chính là tinh thần của người đạt đạo, không chấp nhận chết ch́m trong chỗ vô sanh mà phải lưu chuyển trong lục đạo để cứu độ chúng sanh. Như vậy tu không cầu Niết-bàn, tuy không cầu mà nếu tâm ḿnh không c̣n dính hai bên th́ có Niết-bàn không? Cho nên Niết-bàn của những vị này gọi là “Vô trụ xứ Niết-bàn”, tức Niết-bàn không nơi chốn. Ở nhân gian cũng có Niết-bàn, lên thiên đường cũng có Niết-bàn, ở đâu cũng có Niết-bàn hết, v́ tâm không c̣n dính hai bên. Chúng ta thường nói “Tu phải đến chỗ tự tại an lạc”. Chỗ tự tại an lạc ra sao? Chỉ buông hết th́ được tự tại an lạc. Chửi buông không giận, khen buông không mừng, th́ có tự tại không? Ngay đó an lạc rồi! Hiểu được lư này th́ sự tu hành quả là đơn giản, nhưng thành công không phải là không khó khăn. Nếu dùng cái biết mà biết lặng, đây chẳng phải là cái biết không duyên. Như tay cầm hạt châu Như Ư, chẳng phải không có cái tay và châu Như Ư. Nếu dùng tự biết mà biết, cũng chẳng phải cái biết không duyên. Như tay tự nắm lại, chẳng phải không có cái tay nắm. Cũng chẳng biết cái lặng lặng, cũng chẳng biết cái biết biết, song không thể cho là không biết. V́ tự tánh tỏ rơ nên chẳng đồng với cây đá. Tay chẳng cầm hạt Như Ư, cũng chẳng tự nắm lại, chẳng thể cho là không có tay. Do cái tay vốn sẵn như vậy nên chẳng đồng với sừng thỏ. Đây là một đoạn rất vi diệu. Chúng ta phải nghiền ngẫm thật kỹ mới thấy lư này. Nếu dùng cái biết mà biết lặng. Như khi ngồi, chúng ta biết vọng tưởng hiện giờ đang yên lặng. Đây chẳng phải là cái biết không duyên. Như vậy th́ cái biết đó có duyên. Như tay cầm hạt châu Như Ư, chẳng phải không có cái tay và châu Như Ư. Khi ḿnh có cái biết biết tâm đang lặng, giống như chúng ta có cái tay và hạt châu Như Ư. Tay cầm hạt châu Như Ư vẫn c̣n hai chớ không phải là không. Đó là chặng thứ nhất. Chặng thứ hai: Nếu dùng tự biết mà biết, cũng chẳng phải cái biết không duyên. Nghĩa là khi chúng ta tọa thiền chỉ c̣n biết cái biết hiện tiền, không có cái ǵ khác. Ngài nói đó cũng c̣n có duyên. Duyên cái ǵ? Như cái tay tự nắm lại, chẳng phải không có cái tay nắm. Cái tay tự nắm, th́ lúc đó không có duyên đối đăi, nhưng c̣n cái tay nắm thành nắm tay. Tuy đó là một mà vẫn c̣n cái tay và nắm tay. Thật là tế nhị. Trước ḿnh biết lặng như c̣n có cái tay và hạt châu Như Ư. Sau đó dùng cái biết để tự biết, th́ cái biết đó cũng vẫn như cái tay tự nắm lại thành nắm tay. Như vậy, khi ngồi thiền nhiều, tới chỗ yên tĩnh nh́n thấy tâm ḿnh lặng lẽ ắt tưởng như xong rồi, nhưng chưa, v́ sao? V́ c̣n có cái hay biết và cái lặng lẽ là hai, cho nên c̣n có duyên. Tới trường hợp không c̣n thấy cái lặng lẽ mà chỉ có một cái biết, biết ḿnh đang có cái biết hiện tiền, bám vào cái biết hiện tiền đó cũng là có duyên. Tại sao? V́ giống như nắm tay, cái tay ḿnh tự nắm lại th́ chỉ có một cái tay chớ không có cái thứ hai, nhưng ḿnh c̣n nắm c̣n giữ tức là c̣n duyên. Quư vị phải nhớ điều này cho thật sâu, rơ ràng. Cũng chẳng biết cái lặng lặng, cũng chẳng biết cái biết biết, song không thể cho là không biết. Ḿnh không cần chú tâm vào cái lặng lặng, nh́n chỗ lặng lẽ, ḿnh cũng không cố giữ riêng cái biết, giữ cái biết cho c̣n hoài. Hai cái biết này không c̣n nữa, lúc đó có biết hay không? V́ tự tánh tỏ rơ nên chẳng đồng với cây đá. Tay chẳng cầm hạt Như Ư, cũng chẳng tự nắm lại, chẳng thể cho là không có tay. Thí dụ rất hay. Khi trước tay ḿnh cầm hạt Như Ư th́ thấy có tay, có hạt Như Ư. Đó là cái biết để biết lặng. Kế đó, không cầm hạt Như Ư mà tay nắm chặt lại. Tức vẫn c̣n có tay và nắm. Đến đây không cầm Như Ư, không nắm tay, như vậy có tay hay không? Tay cũng nguyên vẹn mà không có dụng công. Chỗ đó là chỗ rất vi tế. Người tu không khéo th́ nhận không ra. Bởi v́, chúng ta đang trong lúc chiến đấu với vọng tưởng lăng xăng, cố gắng cho vọng tưởng được dừng, được lặng. Dừng lặng rồi th́ quá hay, quá tốt, ḿnh rất thích, thấy đă thành công lắm rồi, đă thắng được vọng tưởng. Nhưng c̣n thấy chỗ lặng của vọng tưởng là cũng c̣n duyên. Tới trường hợp thứ hai chúng ta không c̣n nh́n vọng tưởng mà chỉ giữ cái biết của ḿnh. Cái biết vốn có sẵn, giữ cái biết th́ chẳng khác nào cái tay ḿnh nắm cứng lại. Tuy nói không có cái thứ hai nhưng có cái tay nắm cứng tức là c̣n bảo thủ hay c̣n ǵn giữ cái biết. Tới chặng thứ ba buông hết mấy thứ đó, buông hết cái thấy lặng, buông cả cái biết cố giữ. Lúc đó người ta tưởng là không c̣n ǵ hết. Nhưng chẳng phải! Tay không nắm hạt châu Như Ư, tay không tự nắm th́ tay tự do chớ đâu phải không tay. Điều này rất là thâm trầm, chúng ta phải nghiền ngẫm cho thật kỹ, nếu không th́ tu dễ mắc kẹt. Bỏ được cái ở ngoài th́ mắc kẹt cái ở trong. Trong là ngồi phải giữ cái biết. Khi tâm hơi yên yên, sợ ḿnh không biết, rồi ráng giữ cái biết. Tức là cái tay nắm cứng lại th́ chưa có tự do tự tại. Chừng nào không nắm hạt châu, tay thả buông xuôi, thong thả tự tại. Lúc đó dường như ḿnh không có dụng công ǵ hết mà tánh giác vẫn hiện tiền. Đó là chỗ quan trọng. Như vậy chúng ta thấy ư nghĩa dạy tu hết sức cụ thể của Ngài. Do cái tay vốn sẵn như vậy nên chẳng đồng với sừng thỏ. Tức là nó sẵn có chớ không phải là không ngơ. Mé trước không phiền năo đáng trừ, mé giữa không tự tánh đáng giữ, mé sau không Phật đáng thành. Đó là dứt bặt cả ba mé, ba nghiệp được mát mẻ. Câu này thật là rơ ràng. Mé trước không phiền năo đáng trừ. Chúng ta tu hiện giờ vận dụng công phu để diệt trừ phiền năo là chặng thứ nhất nên gọi là mé trước. Nhưng khi phiền năo hết rồi ḿnh làm ǵ? Hết phiền năo th́ giữ tánh Phật của ḿnh. Mé giữa không tự tánh đáng giữ. Giữ tánh giác, là chặng thứ hai. Tự tánh vốn có sẵn mà ḿnh muốn giữ. Có nhiều người cứ nghĩ nếu ḿnh không giữ cái hằng biết, hằng giác e nó mất, nên ráng giữ. Cố giữ th́ c̣n dụng công như tay tự nắm, tự gồng lại. Nay không muốn giữ tự tánh nhưng mong mỏi ông Phật tánh giác của ḿnh phải luôn luôn hiện rơ trước mắt. Mé sau không Phật đáng thành. Đến đó Phật tự sẵn có không do đâu mà thành. Chúng ta thấy bước đường tu đến chỗ này rất là vi tế, nghĩa là trừ được phiền năo mà c̣n giữ tự tánh sẵn có của ḿnh cũng chưa được, nên phải buông. Và buông giữ tự tánh với tâm mong mau thành Phật, cũng phải bỏ luôn nữa. Đó là dứt bặt cả ba mé, ba nghiệp được mát mẻ. Như vậy trước, giữa, sau, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều lặng hết. Chỗ chỉ này thật là rốt ráo, ḿnh nghe nhận hiểu cho kỹ th́ sự tu không lầm lẫn. Nếu không th́ thoát khỏi cái này lại mắc kẹt qua cái khác, khó mà vượt qua. Ta vừa mống tâm đă thuộc về quá khứ rồi. Tâm ta chưa mống bèn gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai, tức là tâm quá khứ, vậy tâm hiện tại ở chỗ nào? Người học rơ biết một niệm vừa dấy lên trọn không thật có, đó là Phật Quá Khứ. Quá khứ chẳng có, vị lai chẳng không, đó là Phật Vị Lai. Ngay đây niệm niệm chẳng dừng, đó là Phật Hiện Tại. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Đây chính là cửa phương tiện tột ban đầu. Ta vừa mống tâm đă thuộc về quá khứ rồi. Tức là vừa dấy lên th́ đă thuộc về quá khứ. Cái ǵ ḿnh nghĩ, vừa nghĩ rồi nó qua cho nên thuộc về quá khứ. Tâm ta chưa mống bèn gọi là vị lai, chưa khởi tức chưa có nên gọi là vị lai. Chẳng phải tâm vị lai tức là tâm quá khứ. Vị lai tức là chưa mống, mống tâm tức thành quá khứ. Có khi nào chúng ta mống tâm mà đứng một chỗ không? Niệm vừa dấy là nhảy qua liền. Quư vị kiểm lại thử xem, vừa khởi nghĩ đi qua cổng, kế nghĩ đi xuống hồ, rồi đi lại băng đá ngồi. Cái nghĩ này vừa dấy lên lại chuyển qua cái nghĩ khác. V́ vậy niệm dấy lên là qua quá khứ rồi chớ không c̣n ở hiện tại nữa. Dấy niệm thuộc về quá khứ, c̣n chưa dấy niệm tức là vị lai, chưa đến. Không phải cái này th́ là cái kia, chớ tâm không đứng một chỗ. Vậy tâm hiện tại chỗ nào? Người học rơ biết một niệm vừa dấy lên, trọn không thật có, đó là Phật Quá Khứ. Một niệm dấy lên là không thật có, biết rơ như vậy là Phật Quá Khứ. Sao vậy? Chỗ này dễ hiểu hay khó? Bởi v́ niệm dấy lên là thuộc về quá khứ, nếu ḿnh biết không thật th́ đó là giác, giác tức là Phật. Phật giác được niệm qua th́ không phải Phật Quá Khứ là ǵ? Quá khứ chẳng có, vị lai chẳng không, đó là Phật Vị Lai. Quá khứ chẳng có tức là quá khứ đă qua, vị lai chẳng không tức là vị lai chưa đến, tuy chưa đến nhưng sẽ đến cho nên chẳng không, đó là Phật Vị Lai. Nghĩa là biết quá khứ đă qua, nên không thật có; vị lai cũng chẳng không, v́ nó có nhưng cái có không thật. Như vậy biết quá khứ vị lai đều không thật, đó là ḿnh có được hai Phật: Phật Quá Khứ và Phật Vị Lai. Ngay đây niệm niệm chẳng dừng, đó là Phật Hiện Tại. Vậy th́ ngay khi niệm dấy lên liên tục, biết niệm niệm hư giả không thật là Phật Hiện Tại. Niệm quá khứ, vị lai, hiện tại là niệm phàm tục tức là niệm chúng sanh, tại sao có ba ông Phật? V́ niệm quá khứ ḿnh biết là dối, niệm vị lai ḿnh biết vị lai không thật, niệm hiện tại liên tục, ḿnh biết niệm niệm không dừng. Do biết đúng như thật ba thời của tâm niệm quá khứ, hiện tại, vị lai, nên chúng ta giác, ba thời đều có Phật hết. Niệm niệm tương ưng tức niệm niệm thành Phật. Đây chính là cửa phương tiện tột ban đầu. Cửa phương tiện tu là niệm niệm đều tương ưng, đều thích hợp. Nghĩa là niệm quá khứ biết không thật, niệm vị lai biết giả có, niệm hiện tại biết hư dối, niệm niệm không dừng. Như vậy niệm mà chúng ta đang biết ứng dụng là cửa phương tiện ban đầu tột cùng của người tu vậy. Chúng ta mới tu làm sao mà không có niệm? Niệm quá khứ, niệm hiện tại, niệm vị lai đều có hết. Nhưng muốn ba niệm đó đều chuyển thành ba ông Phật th́ niệm quá khứ dấy lên đều giác biết nó hư dối; niệm vị lai chưa đến nhưng biết là hư giả không thật; niệm hiện tại đang dấy, đang chuyển động biết là hư dối không thật th́ có ba ông Phật liên tục. Đó là phương tiện đầu để chúng ta tu. Có niệm chúng ta biết là giác, nên nói niệm khởi tức giác. Niệm là chúng sanh, giác tức là Phật. Tuy chưa rời niệm mà tánh giác hiện tiền. Đó là chỗ đặc biệt để chúng ta hiểu mà tu. Khi mặt trời lên th́ sáng khắp thiên hạ mà hư không chưa từng sáng. Khi mặt trời lặn th́ tối khắp thiên hạ mà hư không chưa từng tối. Hai cảnh tối và sáng tự lấn đoạt lẫn nhau, tánh hư không th́ rỗng rang tự sẵn như vậy. Tâm Phật và chúng sanh cũng như thế. Nếu xem Phật là tướng thanh tịnh sáng rỡ, xem chúng sanh là tướng nhơ đục tối tăm, dù trải qua số kiếp như cát sông Hằng trọn chẳng được Bồ-đề. Khi mặt trời lên th́ sáng khắp thiên hạ mà hư không chưa từng sáng. Khi mặt trời lặn th́ tối khắp thiên hạ mà hư không chưa từng tối. Hai cảnh tối và sáng tự lấn đoạt lẫn nhau, tánh hư không th́ rỗng rang tự sẵn như vậy. Chỗ này thật là chí lư. Đây dùng h́nh ảnh hư không để thí dụ mặt trời lên th́ thấy trong hư không sáng. Thật t́nh hư không có sáng không? Cái sáng là ánh sáng của mặt trời lên. Mặt trời lặn thấy hư không tối. Cái tối là hư không tối hay cái ǵ tối? Khuất ánh sáng mặt trời thấy hư không tối chớ hư không trước sau đâu có đổi dời. Nếu người nào hiểu rằng mặt trời lên gọi là hư không sáng, mặt trời lặn gọi là hư không tối, th́ người đó thấy đúng chân lư chưa? Đó là thấy một cách sai lầm. Đúng chân lư th́ hư không không sáng tối, sáng tối tại có ánh sáng mặt trời và khuất ánh sáng mặt trời. Hư không trước sau vẫn như thế thôi. Tâm Phật và chúng sanh cũng như thế. Nếu xem Phật là tướng thanh tịnh sáng rỡ, xem chúng sanh là tướng nhơ đục tối tăm. Tâm Phật và chúng sanh cũng giống nhau, nhưng v́ chúng sanh mê nên nói là tối, Phật giác nên nói là sáng. Nếu người nào xem Phật là tướng thanh tịnh sáng rỡ, xem chúng sanh là tướng nhơ đục tối tăm, cứ khẳng định như vậy th́ người đó dù trải qua vô số kiếp như cát sông Hằng trọn chẳng được Bồ-đề. Bởi v́ nh́n hiểu như vậy là nh́n hiểu một cách cố định, sáng là cố định sáng, tối là cố định tối. Tối và sáng chẳng qua là có ánh sáng mặt trời và khuất ánh sáng mặt trời. Cũøng vậy tánh giác của chúng sanh và tánh giác của Phật giống như hư không, không thay đổi, chỉ khác nhau một bên có ánh sáng và một bên khuất ánh sáng. Bên khuất ánh sáng nếu xoay trở về phía mặt trời th́ sao? Th́ cũng sáng vậy. Tất cả chúng sanh và chư Phật tâm thể cùng đồng nhưng v́ một bên mê một bên ngộ nên tạm thấy khác thôi. Mê ngộ tạm chia đường c̣n tâm thể th́ đồng nhau, giống như hư không. Thấy tối thấy sáng là duyên bên ngoài, c̣n hư không trước sau như một, không đổi thành tối sáng ǵ hết. Đó là chỉ cho thể đồng giữa chúng sanh và Phật. Lại ba đời chư Phật trọn ở trong thân chính ḿnh. Nhân bị tập khí che mờ, cảnh vật chuyển lôi liền tự mê mất. Nếu ở nơi tâm mà vô tâm, chính là Phật Quá Khứ. Lặng lẽ chẳng động, chính là Phật Vị Lai. Tùy cơ ứng vật, chính là Phật Hiện Tại. Thanh tịnh không nhiễm, chính là Phật Ly Cấu. Ra vào không ngại, chính là Phật Thần Thông. Đến đâu đều thảnh thơi là Phật Tự Tại. Một tâm chẳng mê mờ, là Phật Quang Minh. Đạo niệm bền vững là Phật Bất Hoại. Biến hóa ra nhiều nơi song chỉ một chân thật vậy thôi. Lại ba đời chư Phật trọn ở trong thân chính ḿnh. Ở đây Ngài nói ḿnh thành Phật liên miên, chỗ nào cũng Phật hết. Ba đời chư Phật ở trong thân chính ḿnh, ở ngay nơi ḿnh không phải ở đâu đến. Nhân bị tập khí che mờ. Sở dĩ mà chúng ta bị mờ tối là do tập khí che đậy nên không thấy được Phật của ḿnh. Cảnh chuyển lôi liền tự mê mất. V́ cảnh bên ngoài lôi kéo nên ḿnh quên mất ông Phật của ḿnh. Nếu ở nơi tâm mà vô tâm chính là Phật Quá Khứ. Nghĩa là chính nơi tâm ḿnh hằng tri hằng giác, không dấy niệm đuổi theo phân biệt sự vật th́ đó là tâm mà vô tâm, được như vậy là sống với Phật Quá Khứ. Lặng lẽ chẳng động chính là Phật Vị Lai. Tâm ḿnh lặng lẽ không dấy niệm, không động, đó là ḿnh được Phật Vị Lai. Tùy cơ ứng vật chính là Phật Hiện Tại. Gặp duyên gặp cảnh th́ tùy cơ ứng dụng không phải ngồi lặng thinh, không phải buông hết mọi việc. Chúng ta vẫn làm, vẫn hoạt động mà trong tâm không dính mắc, đó là Phật Hiện Tại. Đừng nghĩ lặng lẽ không động là Phật Vị Lai rồi cứ lặng lẽ hoài th́ không được, phải tùy cơ ứng vật. Thanh tịnh không nhiễm chính là Phật Ly Cấu nghĩa là đối với cảnh, đối với người tâm luôn luôn thanh tịnh không dính không nhiễm là có sẵn Phật Ly Cấu. Ra vào không ngại chính là Phật Thần Thông. Làm công kia việc nọ qua lại lăng xăng mà không dính mắc là Phật Thần Thông. Đến đâu đều thảnh thơi là Phật Tự Tại. Tới giữa chợ cũng thảnh thơi, vào trong rừng rú cũng thảnh thơi, nói chuyện với người vẫn thảnh thơi, ngồi một ḿnh vẫn thảnh thơi, đó là Phật Tự Tại. Quư vị có ông Phật đó không? Có sẵn mà ḿnh không được tự tại. Ví dụ đang ở thiền viện, đi vào chợ thấy chỗ này sao lăng xăng quá, ồn quá th́ ông Phật Tự Tại mất rồi, ẩn rồi. Ở chợ ồn chạy về thiền viện, ngồi một ḿnh dưới gốc cây rồi ngáp buồn ngủ, thấy chỗ này cũng không ổn đứng dậy đi, th́ ông Phật Tự Tại trốn hoài. Chúng ta làm sao ở giữa chợ hay vào trong núi rừng cũng tự tại, đối diện với người hay ngồi một ḿnh vẫn tự tại, th́ lúc nào cũng có Phật Tự Tại bêân ḿnh. Vậy th́ ḿnh có nghèo, có thiếu ǵ đâu? Phật lúc nào cũng ở sẵn bên cạnh chỉ tại ḿnh không biết. Một tâm chẳng mê mờ là Phật Quang Minh. Ngay nơi tâm luôn luôn sáng rỡ không mờ mịt chút nào là Phật Quang Minh. Đạo niệm bền vững là Phật Bất Hoại. Tâm đạo của ḿnh không bao giờ bị xê dịch, không bao giờ bị lay chuyển là Phật Bất Hoại. Biến hóa ra nhiều nơi song chỉ là một chân thật vậy thôi. Tùy chỗ tùy nơi mà có nhiều tên Phật, nhưng rốt cuộc rồi mấy tên Phật đó có thật không? Chỉ là một Phật thôi, không có nhiều. Ở chỗ này gọi Phật này, ở chỗ kia gọi Phật kia. Không nhiễm gọi Phật Ly Cấu, làm tất cả việc không ngại gọi là Phật Thần Thông, đến mọi nơi đều tự tại gọi là Phật Tự Tại… Chỉ một Phật thanh tịnh sáng suốt mà đầy đủ tất cả tên. Nơi chúng ta có đủ tất cả chư Phật trong đó, nếu chúng ta biết sống. Diễn Nhă Đạt Đa chấp bóng quên đầu, đâu khỏi ôm đầu chạy đi t́m đầu. Chính ngay khi mê đó, cái đầu vẫn chẳng mất, đến khi tỉnh rồi cũng chẳng có được. Tại sao? Kẻ mê cho là mất, người ngộ cho là được. Được mất ở nơi người, đâu dính dáng ǵ với động tịnh. Đây là dẫn h́nh ảnh thí dụ trong kinh Lăng Nghiêm: “Chàng Diễn Nhă Đạt Đa mỗi buổi sáng lấy gương soi thấy đầu ḿnh trong gương dễ thương quá, khi úp gương xuống không thấy đầu mặt đâu nên ôm đầu chạy nói: Tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi!”. Quư vị thấy hợp lư không? Đang chạy la mất đầu, nếu ai đó đánh thức nói: Cái đầu anh đang ôm mà la mất, mất cái ǵ? Chỉ nhận được cái đầu th́ lúc đó anh hết điên, anh tỉnh, biết được không mất đầu. H́nh ảnh này tôi cho là hay đáo để! Chúng ta ngày nay quả là Diễn Nhă Đạt Đa. Quư vị mới nghe câu chuyện này thấy vô lư. Ai mà nh́n trong gương thấy đầu mặt ḿnh hiện ra, úp gương lại không thấy đầu mặt, rồi hoảng hốt nói ḿnh mất đầu mất mặt. Cái hoảng hốt đó quá vô lư, quá ngu muội, nhưng thật ra chúng ta như vậy đó. Bởi v́ chúng ta luôn luôn nhận cái bóng làm ḿnh. Niệm khởi phân biệt tốt xấu, phải quấy, hơn thua… đó là cái bóng. Chúng ta chấp nhận cái niệm đó là tâm ḿnh, cho nên ngồi thiền tới phút giây nào đó, niệm lặng liền hoảng hốt “mất ḿnh rồi sao?” V́ chấp bóng là ḿnh nên khi bóng mất tưởng là mất ḿnh. Khi người khác chỉ rằng bóng trong gương không phải thật là ḿnh, cái đầu ḿnh có sẵn đang ôm nó mà chạy, tức là không có mất. Mê nói mất đầu, đầu cũng không mất; tỉnh nói được đầu, đầu cũng không phải mới được. Cái đầu không mất không được, chỉ tại mê và tỉnh thôi. Chúng ta cũng vậy, tâm thể sẵn có là chỗ căn bản để tri giác, thế mà chúng ta chạy theo bóng vọng niệm phân biệt cảnh trần rồi dính mắc, cho là tâm ḿnh. Khi vọng niệm dừng lặng tưởng mất ḿnh mà sự thật có mất ḿnh đâu, tâm thanh tịnh thường hằng chưa bao giờ vắng thiếu. Khi vọng niệm lặng chúng ta mới nhận ra ḿnh có cái thanh tịnh, rồi nói ḿnh mới nhận được. Tâm thanh tịnh là cái gốc cái nền sẵn, trước sau như một không khác tí nào chớ không phải mới, tại chúng ta mê chạy theo vọng nên quên. Bây giờ vọng ngừng, sống trở lại, nhớ lại tâm thanh tịnh th́ gọi là mới được. Hiểu vậy mới thấy ư nghĩa của người tu. Chúng ta thương thế gian đều theo lối nh́n của ông Diễn Nhă Đạt Đa, chấp bóng mà quên đầu. Giả sử có ai hỏi cái ǵ là tâm anh? Cái suy nghĩ hiểu biết là tâm tôi chớ ǵ! Như vậy có phải chấp bóng mà quên đầu không? Tất cả chúng ta thường mắc kẹt trong chỗ chấp bóng là ḿnh rất nặng nề. Sự phân biệt hơn thua, phải quấy, thương ghét giận buồn đều là tạm bợ, tất cả đều là bóng, mà chúng ta dồn hết sức ḿnh theo cái bóng đó, nên cả ngày thấy rối rắm loạn động không bao giờ yên. Biết đó là bóng, không chấp không theo th́ không buồn, không phiền, không giận, không ghét, không thương, không khổ, thảnh thơi an nhiên tự tại. Được như vậy là chúng ta đang sống với ông Phật Tự Tại. ? |
[A.Chương1][A.Chương2][A.Chương3][A.Chương4][A.Chương5][A.Chương6][A.Chương7]
[B.Chương 1][B.Chương 2][B.Chương 3][B.Chương 4][B.Chương 5]
[B.Chương 6-phần 1][B.Chương 6-phần 2][B.Chương 6-phần 3][B.Chương 6-phần 4][B.Chương 7]