[Trang chu] [Kinh sach]

NGUỒN AN LẠC

[mục lục][lời đầu sách]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


CHỖ GẶP GỠ VÀ CHỖ KHÔNG GẶP GỠ GIỮA THIỀN TÔNG VÀ TỊNH ĐỘ TÔNG

Giảng tại chùa Tam Bảo - Hà Tiên 1999.

Hôm nay, tôi sẽ nói đề tài: “Chỗ gặp gỡ và chỗ không gặp gỡ giữa Thiền Tông và Tịnh Độ Tông”.

Phật giáo Việt Nam chúng ta có chia ra nhiều tông phái, nhưng xét kỹ th́ có ba tông chính: Thiền Tông, Tịnh Độ Tông và Mật Tông. Song gần một trăm năm nay Thiền Tông dường như ít ai biết đến mà chỉ biết Tịnh Độ thôi. Chúng tôi thấy sự liên hệ giữa Thiền và Tịnh rất quan trọng, nên muốn giải thích cho quư Phật tử biết rơ điểm nào Thiền Tông ḥa hợp được với Tịnh Độ, điểm nào Thiền Tông cách biệt với Tịnh Độ. Quư Phật tử nghe biết, không c̣n nghi ngờ trên đường tu. Đó là ư nghĩa buổi nói chuyện hôm nay.

Trước hết tôi nói chỗ không gặp gỡ giữa Thiền và Tịnh.

Điểm thứ nhất, như chúng ta đă biết, tu Tịnh Độ th́ luôn luôn lấy niềm tin làm trên, nên người tu Tịnh Độ phải có đủ Tín-Hạnh-Nguyện. Tín là ḷng tin. Tin chắc có cơi Cực Lạc, tin chắc ḿnh niệm Phật sẽ được Phật đón về Cực Lạc. Từ tin chắc, mới khởi hành tức cố gắng niệm Phật, gọi là hạnh. Niệm Phật rồi, phải phát nguyện sanh về cơi Cực Lạc. Như vậy mới đủ Tín-Hạnh-Nguyện, trong đó ḷng tin là bước đầu trên đường tu.

Ngược lại, Thiền Tông không lấy ḷng tin, mà lấy trí tuệ làm bước đầu. Trí tuệ th́ giản trạch, phân biệt; c̣n ḷng tin th́ khẳng định như vậy, cứ tin rồi làm thôi, thành ra hai bên khác nhau. Tu theo Thiền Tông, muốn bước vào cửa Thiền phải đi từ cửa Không. Cửa Không chính là trí tuệ Bát-nhă. Từ trí tuệ Bát-nhă, nhận định hiểu thấu được sự thật của muôn pháp trên thế gian, không bị lầm mê cho giả là thật. Các pháp chỉ là tướng duyên hợp tạm bợ hư dối, biết như vậy, chúng ta không c̣n gặp khó khăn trong sự tu hành, tâm yên lặng, thanh tịnh. Rơ ràng người tu Thiền, muốn cho tâm thanh tịnh phải dùng trí tuệ quán chiếu thấu suốt, hiểu rơ không bị lầm lẫn, nhờ thế không cố chấp, không vướng kẹt, cho nên tâm rỗng rang nhẹ nhàng. Đó là bước đầu của người đi vào đạo.

Điểm thứ hai, Tịnh Độ Tông tu nguyện sanh về cơi Cực Lạc. Có vị nào tu Tịnh Độ mà không cầu sanh về Cực Lạc đâu. Ai cũng niệm Phật để khi lâm chung được đức Phật đón về Cực Lạc. Trong kinh nói Cực Lạc ở phương Tây cách cơi Ta-bà này mười muôn ức thế giới. Thật là xa. Bởi vậy, nếu Phật không đón th́ không biết đường đâu mà đi. Như chúng ta hiện giờ, muốn qua Nhật qua Pháp hay qua Mỹ, nếu người chưa từng đi th́ phải có thân nhân ở bên đó đón rước mới dám đi. Huống là cơi Cực Lạc cách cơi Ta-bà này tới mười muôn ức thế giới th́ làm sao mà chúng ta dám đi ! Do đó phải niệm Phật và nguyện Phật đón tiếp chúng ta, khi nhắm mắt được về cơi Cực Lạc. Như vậy, tu Tịnh Độ tức là chúng ta phóng ra ngoài, nhắm hướng Tây phương, nhắm cơi Cực Lạc, để được sanh qua đó.

C̣n Thiền Tông dạy chúng ta tu quán sát lại nội tâm của chính ḿnh. Về phần nội tâm, nhà Phật phân nhiều loại. Theo Duy Thức học, chúng ta có những tâm vương, tâm sở. Trong tâm sở, lại có tâm sở thiện, tâm sở ác v.v… nhưng người tu Thiền không phân biệt như vậy, chỉ thấy trong tâm niệm của chúng ta, có những tâm mà lâu nay chúng ta ngỡ là tâm ḿnh, nhưng thật ra không phải.

Như quư Phật tử khi suy nghĩ, tính toán việc ǵ thường cho tâm suy nghĩ tính toán đó là tâm của tôi. Nếu nó là tâm của tôi th́ những phút giây không suy nghĩ, không tính toán, tôi c̣n hay tôi mất ? Nếu nó là tôi, th́ khi nó không hiện tôi cũng phải mất luôn. Nhưng thật ra khi không suy nghĩ, không tính toán tôi cũng hiện tiền. Do đó nếu cho tâm suy nghĩ tính toán là tôi, là một lầm lẫn rất lớn. Song tất cả chúng ta đa số đều lầm như vậy.

Người tu Thiền biết rơ tâm suy nghĩ tính toán đó không phải thật ḿnh nên để nó lặng xuống, t́m cho ra cái ḿnh chân thật. Để nó yên lặng tức là dùng phương pháp định tâm. V́ vậy gọi là thiền định. Lặng vọng tâm rồi, chúng ta nhận ra được tâm chân thật của chính ḿnh, đó là mục đích của người tu Thiền. Như vậy người tu Thiền nh́n lại nội tâm ḿnh chớ không cần hướng ra bên ngoài, c̣n người tu Tịnh Độ th́ trông về cơi Cực Lạc bên ngoài, do đó không giống nhau.

Điểm thứ ba, người tu Thiền cốt phải làm sao cho hiện đời, bao nhiêu thứ phiền năo nghiệp chướng sạch. Tâm phiền năo nghiệp chướng sạch rồi th́ thể chân thật sẵn có hiện ra, đó là Niết-bàn, đó là Phật tánh. C̣n Tịnh Độ, gần đây có nhiều vị cho rằng tu Tịnh Độ rất dễ, chỉ cần niệm Phật mười câu th́ Phật đón về Cực Lạc liền. Dù kẻ tạo nghiệp ác, trộm cắp nhưng niệm mười câu, cũng được Phật đón về Cực Lạc, bởi v́ họ nghĩ “đới nghiệp văng sanh”, tức là mang nghiệp vẫn sanh về bên đó, không cần đợi thanh tịnh mới được văng sanh. Người tu Thiền không chấp nhận như vậy. Cực Lạc là cơi thanh tịnh của Phật mà mang nghiệp xấu ác ô uế, th́ ai mà chấp nhận cho vào. Như vậy nói đới nghiệp văng sanh là chuyện không thể chấp nhận được.

Thí dụ chúng ta nuôi con chó, nó bị ghẻ lở, ta nghĩ tại nuôi dưới đất nên nó bị ghẻ, bây giờ đem lên trên lầu chắc nó sẽ hết ghẻ nhưng không phải. Ở dưới đất hay trên lầu, chưa trị được hết ghẻ th́ nó cũng bệnh như nhau. Ghẻ lở ngứa ngáy là dụ cho cái nghiệp, nếu chưa lành th́ dù có đem đi đâu, ở chỗ đẹp hơn tốt hơn cũng không tránh khỏi. Muốn cho nó khỏi phải làm sao ? Chúng ta nuôi nó dưới đất mà biết t́m thuốc trị cho nó hết, nó lành th́ ở dưới đất hay trên lầu ǵ cũng mạnh cả.

Cũng như vậy, nếu cho rằng ở Ta-bà chúng sanh mê muội tạo nghiệp, về Cực Lạc hết tạo nghiệp th́ chuyện ấy chưa chắc. Một bên dạy muốn  vào chỗ thanh tịnh th́ phải sạch hết nghiệp chướng, c̣n một bên nói mang nghiệp chướng đến cơi thanh tịnh rồi sẽ sạch sau. Như vậy hai chủ trương không giống nhau. Đó là những điểm Thiền Tông và Tịnh Độ Tông không gặp gỡ nhau được.

Kế đến, tôi nói chỗ Thiền Tông và Tịnh Độ Tông gặp nhau.

Điểm thứ nhất, về Tịnh Độ trong kinh A Di Đà có một đoạn nói rằng người thiện nam tín nữ nào niệm Phật từ một ngày, hai ngày, ba ngày… cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn th́ khi lâm chung được thấy Phật và Thánh chúng hiện trước mắt. Như vậy niệm Phật được nhất tâm bất loạn tối đa là bảy ngày, hoặc sáu ngày, hoặc năm ngày hoặc bốn ngày, hoặc ba ngày cho đến cuối cùng là một ngày thôi th́ nhắm mắt cũng thấy Phật và Bồ-tát hiện ở trước. Chúng ta nghe dễ quá phải không ?

Tôi đọc trong A-hàm, (Kinh A-hàm dạy tu Thiền theo nguyên thủy) bài kinh Tứ niệm xứ Phật dạy, nếu người nào tu quán Tứ niệm xứ từ một ngày, hai ngày, ba ngày, cho đến bảy ngày tâm không rời Tứ niệm xứ, th́ người đó khi nhắm mắt chứng tối thiểu là sơ quả Tu-đà-hoàn, nhị quả Tư-đà-hàm, tam quả A-na-hàm, tứ quả A-la-hán. Như vậy chỉ quán Tứ niệm xứ trọn vẹn bảy ngày tâm không di chuyển, không dời đổi, người đó nhắm mắt chứng quả A-la-hán. Nếu kém hơn hoặc sáu hoặc năm ngày th́ chứng quả A-na-hàm, bốn ngày hoặc ba ngày th́ có thể chứng quả Tư-đà-hàm. Nếu kém nữa, chỉ một ngày tâm không dời đổi th́ chứng quả Tu-đà-hoàn. Tu-đà-hoàn là bất thoái chuyển, c̣n bảy đời sanh tử nhưng chỉ đi lên chớ không đi xuống. Vậy, kinh A Di Đà và kinh Tứ niệm xứ trong A-hàm nói không khác.

Thế th́ dù cho tu niệm Phật, hay tu Thiền quán mà tâm chuyên chú an định từ một ngày cho tới bảy ngày th́ nhất định người đó đạt được đạo quả. Tu Tịnh th́ được thấy Phật c̣n tu Thiền th́ chứng từ Sơ quả cho đến Tứ quả. Chúng ta thấy tu có khó không ? Phật hạn chỉ có bảy ngày thôi. Cả đời của chúng ta bao nhiêu ngày mà chỉ cần có bảy ngày chuyên nhất không tạp cho đến dù một ngày thôi, tinh chuyên như vậy th́ sẽ đạt đạo quả. Nhưng sao không ai chịu hy sinh một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, hoặc niệm Phật nhất tâm bất loạn, hoặc chuyên tâm không di chuyển khỏi Tứ niệm xứ th́ sẽ được Phật đón về Cực lạc hay chứng tứ quả Thanh văn.

Bây giờ quư vị thử niệm Phật từ sáu giờ sáng hôm nay cho tới sáu giờ sáng ngày mai, không có một niệm thứ hai chen vô th́ nhất định được Phật đón về Tây phương. Người tu Thiền quán thân bất tịnh, thọ là khổ, tâm vô thường, pháp vô ngă; luôn luôn di chuyển trong bốn phép quán đó không để niệm nào chen vô, trong bảy ngày hoặc ít nhất một ngày một đêm th́ chứng Tu-đà-hoàn, nhất định tiến lên Thánh quả, chớ không lùi trở lại.

Như vậy sự tu hành dễ hay khó, có thể làm được hay không ? Nhưng tại sao lâu nay chúng ta cứ trật vuột hoài, leo lên tuột xuống. Là v́ sức định tâm của chúng ta yếu, nên đang nghĩ việc này th́ không bao lâu thứ khác chen vô mất.

Như quư vị đang lần chuỗi niệm Phật được năm ba câu, bỗng có niệm khác chen vô. Cứ thế, lặp đi, lặp lại không biết chừng nào xong. Nhớ người th́ bóng người hiện, nhớ chùa th́ bóng chùa hiện, nhớ huynh đệ th́ bóng huynh đệ hiện. Phật bảo chỉ có bảy ngày mà không ai làm được dù một ngày, như vậy có dở không ?

Rơ ràng tu Tịnh Độ hay tu Thiền ǵ cũng vậy, nếu chúng ta quyết tâm xem như chết trong câu niệm Phật, chết trong quán Tứ niệm xứ th́ đều thành công như nhau.

So sánh hai quyển kinh trên, chúng ta thấy không có ǵ xa lạ, chỉ phương tiện tu khác. Một bên dạy quán Tứ niệm xứ, một bên dạy chăm chỉ câu niệm Phật. Thiền sư Triệu Châu nói: “Người nào để tâm thanh tịnh trong bảy ngày, nếu không chứng quả xin chặt đầu lăo tăng”. Ngài cương quyết như vậy. Từ Phật cho tới chư Tổ, các vị Thiền sư đều nói như vậy. Chúng ta hy sinh cả đời để tu hành, làm việc lợi ích cho mọi người, mà bỏ ra một ngày không được. Sao dở vậy !

Ởû thế gian, người lớn tuổi rảnh rỗi có thể đánh tứ sắc buổi này tới buổi kia không thấy mệt mỏi, c̣n ngồi chăm chỉ niệm Phật hoặc quán Tứ niệm xứ một ngày thôi th́ làm không nổi. Qua đó để thấy con đường tiến lên rất khó đi, mà con đường tuột xuống lại rất dễ làm. Ngồi đánh cờ th́ bàn này thua, hy vọng bàn kia thắng, cứ như vậy mà nối tiếp không ngừng. C̣n ngồi nh́n chăm chăm lại ḿnh th́ lâu lâu việc ǵ đó chen vô làm gián đoạn công phu. Suốt ngày tạp niệm cứ chen vô, rốt cuộc không chứng được ǵ hết. Nếu giữ đừng cho niệm khác xen lẫn vào th́ dễ chứng lắm. Bây giờ đừng nói một ngày mà chỉ cần trong một tiếng đồng hồ ngồi thiền, đóng kín cửa bên trong, không cho chú vọng tưởng nào chen vô được không ? Thấy như dễ v́ nó ở trong tầm tay của ḿnh nhưng làm mới biết khó.

Niệm Phật cũng vậy, chỉ một trăm lẻ tám hạt thôi. Lần mỗi hạt chuỗi niệm một câu danh hiệu Phật, không cho niệm khác xen vô, niệm hết một trăm lẻ tám hạt, nhiều lắm chừng năm phút chớ ǵ mà cũng không làm được. Cho tới giờ tụng kinh, vừa chuông vừa mơ vừa lời kinh mà không biết hồi nào, bà con ở đâu cũng chen vô, không cho ḿnh yên.

Như vậy mới thấy sự tu rất dễ mà cũng rất khó. Rất dễ v́ thời gian không cần nhiều. Rất khó v́ tán tâm không làm được. Để thấy rằng trên đường tu, việc làm chủ tâm ḿnh là vấn đề hết sức hệ trọng. Làm chủ mười người, hai mươi người dễ hơn làm chủ tâm ḿnh. Ví như ông chủ sở, hay chủ xí nghiệp quản lư mấy chục nhân viên, bảo họ làm việc này việc kia th́ dễ mà bảo nh́n lại tâm ḿnh th́ làm không được.

Nếu làm đúng được như lời Phật dạy th́ có lẽ chúng sanh thành Phật nhiều lắm rồi. Nhưng v́ kẻ trộm lẻn vào phá hoài làm cho ta rối rắm mất hết công phu. Nên Phật bảo điều khiển được ḿnh là một việc làm rất khó. Tu chính là phải điều khiển được ḿnh. Đối với người khác, v́ thế lực của ḿnh, v́ quyền lợi của người, nên người ta phải nghe ḿnh, tuân theo ḿnh. C̣n đối với chính ḿnh, không có quyền lợi, không có thế lực ǵ cả, niệm trước bảo phải làm cái này, nhưng niệm sau nảy ra cái khác, chạy tán loạn hết.

V́ vậy nói tới việc tu tưởng như dễ, cầm xâu chuỗi lần có ǵ khó ? Nhưng nếu lần chuỗi để lần chuỗi th́ ai làm cũng được, c̣n lần chuỗi niệm Phật để nhất tâm th́ thật khó làm. Ngồi thiền nửa giờ, một giờ th́ ai cũng ngồi được, mà ngồi một giờ không có vọng tưởng dấy động, th́ chuyện đó khó có người làm được.

Trên phương diện h́nh tướng cụ thể của thân, của cảnh sắp đặt rất dễ. C̣n tâm không h́nh tướng, không chỗ nơi, cứ bỏ hở là vọng tưởng nó nhảy ra phá công phu của chúng ta. V́ vậy người tu năm này tháng nọ dồn hết công phu cố gắng ǵn giữ tâm không để trống hở, như canh chừng mấy đứa trộm không cho nó chen vào, như vậy mười năm, hai mươi năm c̣n chưa thể được, huống là xem thường. Tu là canh chừng vọng tưởng. Nhiều người nói vọng tưởng th́ cứ cho nó nghĩ, chớ việc ǵ phải canh chừng. Nó là tâm ḿnh th́ cứ để nó nghĩ đă rồi thôi. Quư vị chưa tu nên nói vậy, chớ có tu sẽ thấy.

Lâu nay chúng ta lầm lẫn ngỡ vọng tưởng là tâm ḿnh. V́ ngỡ là tâm ḿnh, nên đuổi theo dục lạc thế gian rồi tạo nghiệp đi trong sanh tử luân hồi, đời này kiếp nọ liên miên. Do nó là chủ tạo nghiệp nên nó có sức mạnh dẫn chúng ta đi trong sanh tử. Dẹp được nó, tức là chúng ta làm chủ được ḿnh, không tạo nghiệp, hết sự ràng buộc, tự do tự tại, th́ sanh tử làm ǵ lôi kéo được. Phật gọi người này đă giải thoát khỏi sanh tử.

Tôi thường hỏi:

- Chúng ta tu để làm ǵ ?

- Để giải thoát sanh tử.

- Cái ǵ dẫn ḿnh đi trong sanh tử ?

- Nghiệp dẫn chúng ta đi trong sanh tử.

- Cái ǵ tạo nghiệp ?

- Thân miệng ư là ba chỗ tạo nghiệp.

Rơ ràng mục tiêu của chúng ta là giải thoát sanh tử. Vậy phải làm sao hết nghiệp ? Thân nằm dài, miệng ngậm câm phải không ? Không phải vậy.  Thân hoạt động miệng nói năng gốc từ ư. Tuy nói thân khẩu ư, nhưng thật ra ư nghĩ tốt th́ miệng nói tốt, thân làm tốt; ư nghĩ xấu th́ miệng nói xấu, thân làm xấu. Nói ba nhưng ư là gốc chủ động.

Muốn hết nghiệp, chúng ta phải dứt niệm của ư. Muốn dứt ư niệm th́ đầu tiên chúng ta phải biết ư niệm là cái hư giả không thật. Lâu nay chúng ta khẳng định, tôi nghĩ như vậy tức ngầm cho cái ư là thật. Bây giờ biết rơ nó hư ảo không thật, t́m cách dừng lặng để không bị nó tác oai tác quái nữa.

Người tu Thiền hay niệm Phật cũng vậy, niệm đến nhất tâm th́ ư không c̣n loạn động. Tu Thiền được định th́ ư cũng lặng yên. Nhân tạo nghiệp không c̣n th́ cái ǵ dẫn chúng ta đi trong sanh tử ?

Thân này do tứ đại hợp, khi chết trả về tứ đại. Chúng ta biết thân sẽ hư hoại, ư nghĩ cũng huyễn ảo. Khi dừng được ư hư ảo rồi th́ c̣n có ǵ nữa không ?  Tu là để nhận cho ra cái ǵ giải thoát, chớ thân hoại ư lặng rồi, chẳng lẽ mất hết sao ? Cho nên tu là luyện lọc thanh tâm. Ngay nơi tâm thức của chúng ta cái ǵ thật, cái ǵ hư, biết cái hư bỏ, không theo nó th́ cái thật hiện ra, đó gọi là giải thoát sanh tử.

Cái chân thật ấy có nhiều tên gọi như Phật tánh, Chân như, Bồ-đề, Niết-bàn v.v… luôn sẵn trong ta. Song lâu nay chúng ta bị chú “ư” này che phủ đi. Quư vị thử ngồi chơi năm phút mà không có ư niệm nào dấy lên xem. Nói ngồi chơi, chớ nhớ chuyện hôm qua hôm kia, không bao giờ tâm rỗng rang nên chúng ta bị ư thức phủ che măi. V́ cái ảo giả đó cứ làm quay cuồng nên chúng ta không nhận ra được cái chân thật của ḿnh.

V́ vậy ngồi thiền để định tâm hư ảo, định những thứ quay cuồng đó lại. Định được rồi th́ cái thật sẽ hiện ra. Tu Thiền cốt để dừng những niệm hư ảo của ư thức. Niệm Phật nhất tâm cũng để dừng niệm hư ảo của ư thức. Một bên thấy Bồ-đề Niết-bàn, một bên thấy đức Phật Di Đà tới đón. V́ ư nghĩa sâu kín mầu nhiệm như vậy, chúng ta mới dụng công tu hành, chớ nếu tầm thường th́ tu làm ǵ.

Có thông hiểu thấu suốt chúng ta mới thấy việc làm của người tu không phải là h́nh thức cúng kính bên ngoài. Nó sâu thẳm bên trong. Khi làm chủ được ư niệm lăng xăng của ḿnh rồi, những vọng tưởng lặng xuống th́ cái chân thật hiện tiền. Sống được với cái chân thật đó là giải thoát sanh tử, đời đời không bao giờ mất. C̣n mang nghiệp do ư tạo ra th́ mất thân này chụp thân kia, mất thân kia chụp thân nọ, sanh tử không biết bao giờ cùng.

V́ vậy trong kinh đức Phật nói, con người sanh ra rồi chết đi, đời này qua đời nọ, mỗi một đời khóc bao nhiêu nước mắt. Nếu gom hết nước mắt của chúng sanh trong nhiều đời nhiều kiếp c̣n hơn nước của biển cả. Cái khổ luân hồi sanh tử thật không cùng. Mấy chục năm hết một đời. Trong một đời khóc biết bao nhiêu lần. Hồi lọt ḷng mẹ đă khóc rồi, cho tới già sắp chết cũng khóc nữa, thành một chuỗi dài cứ khóc và khóc. Đến khi mất thân này, t́m lại thân khác tiếp tục khóc nữa. C̣n nghiệp dẫn là c̣n khổ đau. V́ vậy muốn giải thoát sanh tử phải dừng hết nghiệp. Muốn dừng nghiệp phải dừng từ trong ư, v́ nó là động cơ chủ yếu tạo nghiệp.

Tại sao chúng ta phải ngồi thiền hai ba tiếng đồng hồ, chân đau tê cóng mà cũng ráng ngồi ? Ngồi là trước để hàng phục thân, làm chủ thân rồi kế đó hàng phục ư. Muốn làm chủ ư phải có thời gian dài, v́ nếu ngồi năm ba phút hay nửa giờ, tâm mới vừa hơi yên th́ hết giờ. Nên ngồi một tiếng hai tiếng để có thời gian dài, chúng ta mới thấy rơ ư thức c̣n sức mạnh hay đă yếu rồi.

Trong các Thiền viện tôi bắt ngồi thiền tới hai tiếng đồng hồ. Có nhiều người lúc đầu hăng hái đến xin tập tu, được vài hôm xin rút lui v́ theo không nổi. Tôi chủ trương như vậy không phải để hành hạ thân một cách vô ích. Bởi v́ có hai lư do:

Một, nếu chúng ta không làm chủ được thân này th́ chúng ta bị lệ thuộc nó. Nên đau th́ chịu đau, phải thắng nó mới có thể vượt qua. Chúng ta ai cũng biết giờ phút tắt thở là giờ phút đau khổ nhất, nếu không có sức làm chủ thân th́ không sao an ổn trong lúc lâm chung. Làm chủ được thân th́ giờ phút đó chúng ta mới định tỉnh ra đi. Bằng không th́ lúc đó rối loạn, thấy cái ǵ chụp cái ấy, thật nguy khốn. Nên trước phải làm chủ thân.

Hai, là phải làm chủ được ư. Ư thức rất linh hoạt, dễ phóng ra bên ngoài. Nếu không dùng phương tiện để điều phục th́ sẽ khó định tâm lặng ư. Do đó, từ thời Phật cho tới bây giờ, phương pháp tọa thiền được xem như tối thắng nhất để định tâm. V́ vậy tôi chủ trương Tăng Ni tu muốn tiến, phải siêng năng tọa thiền. Làm chủ được thân tâm rồi th́ mới đi tới giải thoát sanh tử.

Chúng ta nh́n lại đạo Phật dù cho tông này phái kia khác biệt, nhưng rốt lại đều cùng một mục đích là dừng ư niệm lăng xăng, để cái chân thật được hiện bày, đó là chỗ gặp nhau. V́ vậy người tu Tịnh Độ hay nói “Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật văng Tây phương” nghĩa là ba nghiệp hằng trong sạch th́ đồng với Phật đi về cơi Phật không nghi ngờ. Tu Tịnh Độ th́ cầu về Cực Lạc, c̣n tu Thiền là nhận được bản lai diện mục hay nhận được Pháp thân v.v… Đó là điểm tương đồng thứ nhất giữa Tịnh Độ và Thiền.

Điểm thứ hai, nói về lư và sự Tịnh Độ. Sự Tịnh Độ là chúng ta tin ở phương Tây cách đây mười muôn ức cơi, có thế giới tên là Cực Lạc. Do tin chắc không nghi ngờ nên cố gắng niệm Phật, đến khi nào nhất tâm, chừng đó nhắm mắt thấy Phật rước về Tây phương, sung sướng không c̣n khổ sở như ở cơi Ta-bà này nữa. Đó là sự Tịnh Độ.

Về lư Tịnh Độ th́ trong kinh Duy Ma Cật nói “Tâm tịnh th́ độ tịnh”. Nếu muốn cơi nước thanh tịnh trước hết phải tịnh tâm của ḿnh. Tâm thanh tịnh th́ cơi nước thanh tịnh. Hoặc có chỗ nói tự tánh Di Đà duy tâm Tịnh Độ, tức tánh của ḿnh là Phật Di Đà, tâm của ḿnh là cơi Tịnh Độ. Như vậy Tịnh Độ và đức Phật Di Đà ở ngay nơi ḿnh chớ không phải ở bên trời Tây. Lư Tịnh Độ này rất phù hợp với Thiền.

Tại sao phù hợp ? V́ người tu Thiền cốt xoay trở lại nội tâm của ḿnh. Khi dẹp sạch vọng tưởng lăng xăng rồi, th́ tâm thanh tịnh hiện ra gọi là Pháp thân bất sanh bất diệt hằng giác, hằng tri. Nghĩa là chúng ta tu để nhận ra tâm thanh tịnh không c̣n vọng tưởng, thể nhập được Pháp thân bất sanh bất diệt, hằng giác hằng tri. Th́ Tịnh Độ nói Phật Di Đà là tự tánh, c̣n tự tâm thanh tịnh là cơi Tịnh Độ.

Đức Phật Di Đà tiếng Phạn đọc là Amitabha Buddha, Trung Hoa dịch nghĩa là Vô lượng thọ, Vô lượng quang. Vô lượng thọ là sống lâu vô lượng, đồng nghĩa với Pháp thân bất sanh bất diệt. Vô lượng quang là luôn luôn sáng suốt, đồng nghĩa với Phật tánh hằng tri hằng giác. Đức Phật Di Đà là biểu trưng cho Phật tánh. Lư Tịnh Độ và lư Thiền không có ǵ khác nhau hết.

Đối chiếu như vậy để chúng ta thấy ư nghĩa của người tu Thiền và người tu Tịnh Độ không hai không khác.

Do đó Phật tử chúng ta khi tu Phật đừng quan niệm rằng ḿnh làm thế này, thế nọ, Phật sẽ ban ơn ban phúc. Quan niệm như vậy là sai lầm. Tu để chủ động lấy ḿnh. Ư nghiệp lặng xuống, th́ được giải thoát chớ thật t́nh Phật không ban ơn ban phúc cho chúng ta. Phật dạy nhân quả là gốc của sự tu. Nhân tốt th́ hưởng quả tốt, chớ không phải Phật ban cho ta được.

Song Phật tử chúng ta chỉ muốn xin Phật thôi. Tu coi bộ phiền, mất th́ giờ. Cứ cúng một ít rồi Phật ban cho con cái này, cái nọ là xong. Chỉ cần mỗi tháng đi chùa hai lần, để dành ít tiền ngày ba mươi hay rằm, sắm hương hoa trái cây… quư thầy đánh chuông, lạy ba lạy cúng dĩa quả là đủ rồi. Phật tử đi chùa như vậy so với lư thật của đạo thật là cách xa muôn dặm !

Chúng ta phải ư thức rằng tu Phật là cốt làm sao để ḿnh trở thành con người giác ngộ, không c̣n bị nghiệp lôi dẫn trên đường sanh tử nữa. Đó là mục đích tối thượng của chúng ta. Dù đời này chúng ta tu không xong, c̣n phải tới lui cơi này nhưng mục đích tối thượng đó phải giữ vững đừng để lệch hướng. Cũng như người đi biển cần có la bàn vậy, phải khẳng định không nhầm lẫn. Nhắm đúng rồi, đời này tu được bao nhiêu, đời sau tu tiếp nữa, cứ như vậy tiếp măi, chừng nào xong việc mới thôi.

Trong kinh nói đức Phật đă tu vô số kiếp, hay là ba a-tăng-kỳ kiếp, tức là ba vô số kiếp. Nghe ba vô số kiếp quư vị có ngán không ? Chữ kiếp không phải một đời của ḿnh đâu. Kiếp là trải qua bao triệu năm. Vậy ba vô số kiếp là qua bao nhiêu triệu năm, quư vị nghĩ mà ngán phải không ? Phật v́ sợ chúng ta ngán nên nói “không sao”. Nếu khéo tu th́ mê là chúng sanh, giác là Phật. Nhanh như trở bàn tay, đang úp lật lại thành ngửa. Đang mê mà giác th́ thành Phật ngay thôi. Nói như vậy Phật có gạt chúng ta không ? Không gạt, nhưng thành Phật có nhiều cách. Bởi v́ Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn.

Đối với chúng ta, phần tự giác là muốn hết sức rồi lại phải giác tha nữa. Tức là khi nào ḿnh và người khác giác hết mới thành Phật. Nên nhận ra được tánh Phật gọi là thành Phật. Thành Phật đây chỉ là lóe thấy Phật của ḿnh thôi. C̣n biết bao nhiêu phiền năo, tập khí muôn đời phải trừ bỏ nữa. Tôi thường ví dụ chúng ta tu giống như đi trong đêm ba mươi trời chuyển mưa. Lâu lâu có chớp lóe lên, nhờ đó ta thấy được một đoạn. Trời tối lại rồi chớp lên, thấy được một đoạn nữa. Cứ thế tu dần dần.

Hiện người tu bây giờ sức tỉnh giác cũng như ánh chớp ấy thôi. Giờ này đang nghe kinh hoặc ngồi thiền thấy tỉnh lắm, nhưng giờ khác tiếp xúc với mọi người liền quên mất, rồi cũng buồn cũng giận. Khi ngồi lại tu thấy tỉnh, thấy giác nhưng đụng việc cũng phiền năo như ai. Cứ thế từ năm này sang năm khác, rốt cuộc nhắm mắt cũng chưa xong xuôi. Đó là bệnh chung của mọi người. Chúng ta cần biết không phải một lần giác là xong ngay.

Phật tử lúc nào cũng tin tưởng lời Phật dạy, tin tưởng lời quư thầy giảng, biết nóng giận là tật xấu, là tiêu ṃn công đức. Nhưng vừa gặp người nói trái tai liền nổi giận đùng đùng. Ai gan lắm th́ kềm giữ không cho hiện ra ngoài nhưng vẫn ấm ức trong ḷng không an. Chúng ta biết rơ đó là tật xấu, mà muốn bỏ không phải dễ. V́ chúng ta trải qua bao nhiêu kiếp mê lầm, giờ đây tỉnh lại nên bỏ phải dần dần mới hết được. Giống như mấy chú ghiền thuốc, ghiền rượu vậy. Biết rượu thuốc là hại, ngồi một ḿnh th́ nhịn mà có bạn tới đưa thuốc th́ lấy liền. Như vậy mới thấy tập khí kéo lôi thế nào. Người chưa từng ghiền thuốc dù có mời họ cũng không thèm lấy, cho nên khi đă huân chủng tử lâu đời th́ bây giờ bỏ hết sức là khó.

Lâu nay chúng ta thường nghĩ người lớn tuổi rảnh rang công việc dễ tu, c̣n mấy đứa bé mười lăm, mười bảy tuổi khó tu. Điều này chỉ đúng phần nào thôi. Già th́ rảnh rang có th́ giờ, nhưng tập khí đầy ắp bên trong, nên ngồi lại là nhớ chuyện năm trên năm dưới, không làm sao tu được. Mấy đứa nhỏ tuy lăng xăng công việc học hành thấy như khó tu, nhưng tâm nó trong trắng chứa ít chủng tử.

Như người không ghiền rượu nghe Phật cấm rượu liền cười, dễ quá. C̣n người ghiền rượu nghe Phật cấm rượu liền thấy khổ ngay. Người không ghiền, bảo bỏ rượu là chuyện thừa; c̣n người ghiền, bảo bỏ rượu là việc cay đắng. Các thứ khác cũng vậy.

Cho nên c̣n trẻ mà ham tu, th́ tu mau tiến. C̣n người già tuy có th́ giờ rộng răi nhưng tu lâu tiến, v́ chủng tử nhiều quá. Nó cứ quay lại, muốn bỏ, bỏ không được. Hơn nữa người già tinh thần suy yếu, không đủ sức mạnh gạt bỏ những thói quen cũ nên khó bỏ. Do đó mỗi thế hệ có cái khó riêng, mà cũng có cái dễ riêng. Hiểu vậy rồi chúng ta mới thấy việc tu tập không dành riêng cho giới nào hết, ai quyết tâm th́ người đó tu được.

Chúng ta tu là làm sao tiêu diệt được nhân tạo nghiệp. Nhân tạo nghiệp lặng th́ quả nghiệp không c̣n. Quả nghiệp không c̣n th́ chúng ta tự tại, không bị lăn lộn trong sanh tử nữa, đó gọi là giải thoát. Giải thoát sanh tử nhưng vẫn c̣n cái chân thật hiện hữu nơi ḿnh.

Khi c̣n tại thế, có người hỏi Phật “Thân này chết rồi c̣n hay hết ?” Phật không trả lời. Bởi v́ c̣n nghiệp th́ c̣n sanh trở lại. Nếu nói hết người ta tưởng không c̣n ǵ cả. Chỉ người tu khi sạch được nghiệp rồi th́ tự tại, không bị nghiệp lưu chuyển trong sáu nẻo. Phật dạy: Khi mất thân này, dứt tâm niệm sanh diệt rồi th́ thể thanh tịnh sáng suốt của ḿnh trùm khắp. Thể ấy không có tướng mạo, không có ǵ chi phối cả nên gọi là giải thoát sanh tử.

Hiện tại lúc nào chúng ta cũng sẵn thể chân thật đó. Khi ư niệm dấy khởi tính toán so đo, phân biệt hơn thua, lăng xăng, đó là gốc tạo nghiệp. Nhưng khi ư nghiệp không dấy động th́ tâm có không ? Tâm là cái “biết” đó. Ư niệm tuy không dấy động nhưng chúng ta vẫn biết. Mắt biết, tai biết, mũi biết, lưỡi biết, thân biết, như vậy là hằng biết.

Cái biết ấy thênh thang, không chỗ nơi để chúng ta ḍ t́m, nhưng luôn hiện hữu. V́ vậy khi các thứ che đậy, mê mờ lặng rồi th́ nó hiện rơ ràng, c̣n bây giờ v́ vô minh che lấp nên chúng ta không nhận ra nó. Khi nghĩ suy chúng ta nói tôi nghĩ, tôi suy. Khi không nghĩ suy th́ ta vẫn hằng tri hằng giác chớ đâu phải vô tri, vô giác. Có biết nhưng v́ tánh biết bàng bạc nên chúng ta không thể chỉ ra được.

Chỉ khi ư thức dấy nghĩ mới có bóng dáng kèm theo. Như vừa nhớ người th́ bóng người hiện, nhớ chùa th́ bóng chùa hiện, nhớ huynh đệ th́ bóng huynh đệ hiện. Nhớ là dấy niệm. Nhà Phật gọi đây là pháp trần. Phần này rất phù hợp với khoa tâm lư học. Như hôm rồi xuống bắc Mỹ Thuận, tôi thấy chú thanh niên một chân bị hư máng trên vai, c̣n một chân chống cây gậy. Trước khi thấy chú, trong tâm tôi không có bóng dáng đó nhưng thấy rồi th́ đến nay nhớ lại, h́nh ảnh ấy hiện ra rơ ràng. Bóng dáng mà tôi nhớ ở trong ḷng đó, nhà Phật gọi là pháp trần.

Chữ trần là những h́nh dáng tế nhị chớ không phải thô phù; h́nh dáng ấy lưu lại trong tâm ta nên khi nhớ đến th́ chúng hiện ra ngay. Như vậy từ nhỏ đến già những bóng dáng đó ghi vào tâm thức của chúng ta nhiều hay ít ? Nếu phân ra không biết mấy trăm mấy ngàn lớp ? Do đó khi ngồi yên lớp này nhảy ra tới lớp khác liên miên chập chồng. V́ vậy khi tu là chúng ta cố gắng gạt nó qua một bên để cái chân thật được hiện bày. Khi nào bóng dáng đó lặng hết th́ ông chủ xưa nay mới hiển lộ.

Do đó dụng công tu là việc hết sức tế nhị, chớ không phải thường. Người ta thấy ở chùa quá đơn giản, gơ mơ tụng kinh, đi tới đi lui có ǵ quan trọng. Nhưng thật ra người tu phải quán sát nội tâm, luôn luôn chiếu soi để làm chủ trọn vẹn được ḿnh, không c̣n lệ thuộc với pháp trần là điều rất khó.

Tóm lại, tất cả pháp của Phật dạy tuy có chia ra nhiều môn, nhiều phái song các phái đều y cứ theo những ǵ Phật dạy mà tu hành. Tuy phương tiện có khác nhưng cứu kính đều gặp nhau. Người tu Tịnh Độ th́ niệm Phật cho tới nhất tâm. Người tu Thiền th́ phải được định.

Có người nói Thiền Tịnh song tu, tức là tu một lượt cả hai pháp. Như vậy làm sao tu ? Bởi v́ Tịnh Độ đặt ḷng tin lên trên. Tin có cơi Cực Lạc, tin có đức Phật Di Đà chuẩn bị đón tiếp nên cố ḷng niệm Phật, niệm chí tâm đến chỗ nhất tâm, th́ thành công. Nhờ niềm tin mạnh cho nên quyết tâm tu, mà quyết tâm tu th́ thành công. C̣n tu Thiền là biết rơ các pháp duyên hợp, như huyễn không thật nên không tham trước, không dính mắc, cố gắng dẹp những bóng dáng che phủ nội tâm khiến cho nó lặng sạch nên tâm được định. Một pháp tu suốt đời chưa rồi mà dồn hai pháp lại làm sao kham ?

Lại ngài Bạch Ẩn, một Thiền sư Nhật Bản nói thí dụ này: Người sợ tu Thiền không đủ, phải tu thêm Tịnh Độ giống như người muốn qua sông gấp, đi một chiếc đ̣ sợ chậm, nên kêu hai chiếc rồi đứng một chân chiếc này, một chân chiếc kia. Như vậy đi được tới bờ không, hay nửa đường đ̣ rẽ bị rơi ? Chúng ta phải hiểu thật kỹ, nếu không chín chắn, muốn cho mau chóng và dễ tu, không ngờ chính chúng ta làm trở ngại sự tu của ḿnh.

Tu các pháp môn của Phật giống như người leo núi. Một ngọn núi cao, người ở hướng Tây có lối lên của hướng Tây, người ở hướng Đông có lối lên của hướng Đông, hướng Nam, hướng Bắc cũng vậy. Trong bốn lối đó chúng ta thích lối nào th́ đi lối đó. Đă chọn rồi phải quyết chí đi. Dù leo lên thấy khó, cũng ráng mà leo lên đến đỉnh. Đường đi từ bốn hướng khác biệt, nhưng tới đỉnh rồi th́ đều gặp nhau. Cũng vậy, pháp môn Tịnh Độ, pháp môn Thiền v.v… tên có khác, hướng tu có khác, nhưng cứu kính đều gặp nhau.

Hiểu như vậy rồi, chúng ta tu không c̣n chê bên này khen bên kia, mà chỉ nên tự trách ḿnh chưa cố gắng, chưa quyết tâm. Mong rằng tất cả chúng ta cố gắng thực hiện công phu tu hành của ḿnh đạt đến kết quả viên măn, theo nhân duyên riêng của mỗi người trong tinh thần ḥa hợp và đúng với lời Phật dạy. 

]


[mục lục][lời đầu sách]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]