[Trang chu] [Kinh sach]

BÁT NHĂ TÂM KINH TRỰC GIẢI

[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]


PHẦN THỨ BA: PHỤ LỤC

 

Lạc đạo ca

lục tổ huệ năng

Lạc đạo ca! Lạc đạo ca!

Xướng ngă b́nh sanh tự trác ma

Ngũ hồ tứ hải phi vi quảng,

Tam thập tam thiên vị vi cao.

Nhứt phiến địa, ngũ mẫu điền,

Niên niên canh chủng tính thiên nhiên,

Thế gian vấn ngă tại hà xứ?

Nam bắc đông tây tổng thị thiên.

Nhứt thảo am, thắng già lam,

Bát vạn thiền đồ nhựt dạ tham,

Pháp cổ tài minh san nhứt đốn,

Cá trung nhân ngă bất đam.

Thổ giác trượng, qui mao phất,

Nhược dục mích thời hựu vô vật,

Bát phất thế gian địa trần ai,

Tận phất bản lai thiên chân Phật.

Nhứt tịnh b́nh, nhứt phó bát,

Càn khôn cấn tổn vị vi khoát,

Nhựt nguyệt tinh đẩu lư trung huy,

Nhứt thiết nhân gian vi sinh hoạt.

Địa vi ṭa, thiên vi cái,

Xuất nhập ưu du vô quái ngại,

Nhậm tha thương hải biến thành điền,

Thế giới hoại thời cừ bất hoại.

Triêu triêu xướng, dạ dạ ca,

Bất luận nhân gian phú dữ hào,

Thanh bần lạc đạo chân khoái lạc,

Bạch nhựt vô sự tọa bàn đà.

Thiết ngưu canh, thạch nữ tiếu,

Kỷ nhân thức đắc huyền trung diệu,

Thử huyền huyền trung cánh vô huyền,

Thử diệu diệu trung cánh vô diệu.

Dă vô diệu, dă vô huyền,

Cơ lai khiết phạn khốn lai miên.

Nhược nhân hội đắc giá ban ư,

Xúc xứ tiện thị thiên trung thiên.

Nê ngưu hống, mộc mă tê,

Khiêu xuất thiên nhai đạp vân thê,

Thế gian vấn ngă hà xứ,

Nhựt luân đông bạn nguyệt luân tê.

Bất trích diệp, bất tầm chi,

Đa thiểu diệu dụng thức giả hy,

Mạc tương thế sự vi đoan đích,

Bất tri bất ngộ hựu huyền vi.

Học nhân hội đắc vô vi sự,

Hiện đổ thiều thiều thanh thiên lộâ.

Chỉ khủng tâm tâm bất liễu,

Hựu phạ nhân nhân bất ngộ,

Ngă đẳng đương sơ đắc pháp thời,

Văn tự hà tằng thức nhứt cú.

Bất khán kinh, bất thức tự,

Đản bả phiến tâm đạc hàn thử,

Nhậm độc thiên chương dữ vạn chương,

Bất hiểu chỉ thị nhà ngôn ngữ.

Chư môn đồ, cùng Thích tử,

Bất hội Như Lai chân tông thú,

Tận tâm hướng thượng đạt huyền tông,

Bất luận hiền ngu đô khuyến luận.

Đạo ngô ác, ngô dă ác,

Đạo ngô hảo, ngô dă hảo,

Vô tư, vô lự, vô phiền năo,

Bất sân, bất hỷ, bất động tác.

Tự gia tâm địa tự gia tu,

Thiên đường địa ngục tự gia trác,

Lai dă không, khứ dă không,

Sanh tử huyễn như nhứt mộng trung,

Bất tín đản khan đào lư thọ,

Hoa khai năng hữu kỷ thời hồng.

Sanh hữu nhứt, tử hữu nhị,

Đô lai thế thượng tranh danh lợi,

Nhậm quân măi đắc vạn khoảnh điền,

Tử hậu chỉ đắc tam bộ địa.

Hoành lục xích, trường trượng nhị,

Tử tế khán lai chân cá thị,

Nhược nhân đới đắc tại điền khư,

Ngô cảm vị quân lập bi kư.

Khúc ca vui đạo

Lục tổ huệ năng

Lạc đạo ca! Lạc đạo ca!

Hát rằng: Ta tự giũa mài ta,

Năm hồ bốn biển chưa là rộng,

Tam thập tam thiên chẳng phải cao.

Một miếng đất, năm mẫu điền,

Mỗi năm cày cấy tín thiên nhiên,

Nhân thế hỏi ta đâu chỗ ở,

Bốn phương chẳng tự có trời riêng.

Một am tranh, hơn già lam,

Mỗi ngày tám vạn thiền đồ tham,

Trống pháp vừa vang, ăn một bữa,

Ngă nhân trong đó chẳng c̣n đam.

Gậy sừng thỏ, chổi lông rùa,

Bằng lúc muốn t́m không một vật,

Chẳng phủi thế gian cát bụi mù,

Phủi sạch bản lai thiên chân Phật.

Một tịnh b́nh, một chiếc bát,

Cấn tốn càn khôn chưa bát ngát,

Nhựt nguyệt tinh tú trong đó soi,

Tất cả nhân gian cùng sinh hoạt.

Đất làm ṭa, trời che mái,

Thong thả ra vào không chướng ngại,

Mặc cho biển cả hóa nương dâu,

Thế giới hoại mà nó chẳng hoại.

Sáng sáng hát, tối tối ca,

Mặc kẻ sang giàu chẳng luận qua,

Vui đạo quên nghèo sung sướng thật,

Ngày ngày vô sự tọa bàn đà.

Trâu sắt cày, gái đá cười,

Mấy ai biết được diệu trong huyền,

Huyền nầy trong huyền lại không huyền,

Diệu nầy trong diệu lại không diệu,

Cũng không diệu, cũng không huyền,

Đói lại ăn cơm, mệt ngủ liền,

Nếu người hiểu được ư như thế,

Đối cảnh ngay đây Phật hiện tiền

Trâu đất rống, ngựa gỗ hí,

Nhảy đến ven trời đạp thang mây,

Nhân thế hỏi ta đâu chỗ ở,

Vầng đông vừa rạng, nguyệt về tây.

Không vạch lá, chẳng t́m cành,

Diệu dụng thế nào, ít kẻ rành,

Chớ đem việc ấy làm manh mối,

Chẳng ngộ chẳng tri lư diệu huyền;

Học nhân hội việc vô vi nầy,

Đường trời thăm thẳm lấp ngăn ngay,

Chỉ sợ tâm tâm không liễu đạt,

Người người chẳng ngộ đáng thương thay!

Ta vừa đắc pháp lúc ban đầu,

Văn tự chưa từng biết một câu.

Chẳng xem kinh, chẳng biết chữ,

Ấm lạnh chỉ dùng tâm đo thử,

Dẫu cho có đọc ngàn muôn chương,

Không hiểu chỉ là ngôn ngữ suông.

Các môn đồ, cùng Thích tử,

Chẳng hội Như Lai chân tông thú,

Hết ḷng hướng thượng đạt huyền tông,

Chẳng luận hiền ngu khuyên tiến thủ.

Nói ta ác, ta cũng ác,

Nói ta hảo, ta cũng hảo,

Không nghĩ, không lo, không phiền năo,

Không giận, không vui, không động tác,

Tự ta tâm địa, tự ta tu,

Thiên đường địa ngục, tự ta chuốc.

Đến cũng không, đi cũng không,

Sanh tử huyễn như giấc mộng cuồng,

Không tin, thử ngắm cây đào lư,

Hoa nở, bao lâu nhạt sắc hồng.

Một là sanh, hai là chết,

Danh lợi thế gian tranh được mất,

Dẫu ông mua được vạn khoảnh điền,

Chết rồi cũng chỉ ba thước đất.

Ngang sáu thước, dài trượng hai,

Xét suy kỹ lưỡng thật thế nầy,

Ruộng đất nếu ông mang theo được,

Ta dựng bia ghi việc ấy ngay.

ĐÀN KINH: Sư dạy đại chúng:

Tự sắc thân của người đời là thành; mắt, tai, mũi, lưỡi là cửa; ngoài có năm cửa, trong có một cửa ư. Tâm là đất, tánh là vua; vua ở trên đất tâm. Tánh ở th́ vua c̣n, tánh đi th́ vua mất. Tánh ở th́ thân tâm c̣n, tánh đi th́ thân tâm hoại. Phật nên nhắm vào trong tánh mà t́m, chớ hướng ra ngoài thân mà cầu. Tự tánh mê tức là chúng sanh, tự tánh giác tức là Phật. Từ bi tức là Quan Âm; hỷ xả gọi là Thế Chí; năng tịnh tức là Thích Ca; b́nh trực tức là Di Đà. Nhân ngă là núi Tu Di, tâm tà là biển nước, phiền năo là sóng ṃi, độc hại là rồng dữ, hư vọng là quỷ thần, trần lao là loài cá trạnh, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh.

Nầy thiện tri thức! Thường thực hành mười điều lành th́ thiên đường tự đến, trừ nhân ngă th́ núi Tu Di sụp đổ, khử bỏ tâm tà th́ biển nước cạn khô, phiền năo không th́ sóng ṃi dứt, độc hại hết th́ loài cá trạnh bặt. Trên đất tâm của ḿnh tánh giác Như Lai phóng ánh sáng lớn soi ra ngoài sáu cửa thanh tịnh hay phá được sáu cơi dục của chư Thiên. Tự tánh chiếu soi vào trong ba độc liền trừ, các tội địa ngục v.v... đồng thời tiêu diệt, trong ngoài sáng suốt chẳng khác Tây phương. Chẳng tu như thế th́ làm sao đến nơi kia được.

Đại chúng nghe Sư dạy xong đều rơ ràng thấy tánh.

Hoàng triều Thành Thái năm thứ 15,

Nhằm năm Quư Măo (1903), tháng Trọng Thu, ngày rằm

Đệ tử chùa Bích Động,

Tỳ kheo Thanh Thành sao lại,

Tỳ kheo Thanh Đức phụng chép.

]

 

[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]

[Trang chu] [Kinh sach]