BÁT NHĂ TÂM KINH TRỰC GIẢI
[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10]
PHẦN THỨ HAI: KỆ TỤNG (tt) V. Kệ Sáu Căn, Bảy Đại Tổ Trúc Lâm Điều Ngự, tựa rằng: Sáu căn hư vọng đồng là Bồ đề diệu tâm Bảy đại cùng khắp thảy đều Như Lai tạng tánh Thanh Đàm Đạo Tuân Minh Chánh thuật kệ rằng: NHĂN KIẾNNhư bồ đào đóa hạ mi hoành, Viên bích lưu ly lưỡng diệu t́nh. Minh ám tương h́nh thành kiến thể, Sắc không tề hiện diệu căn tinh. Thanh hoàng xích bạch tùy cơ biện, Trường đoản phương viên giá lư sinh. Kư ngữ đương quan đồng tử giả, Song linh thị hiện tức tâm minh. MẮT THẤYTựa trái bồ đào dưới mày ngang, Lưu ly hai khối ngọc sáng choang. Sáng, tối nương nhau thành kiến thể, Sắc, không đều hiện diệu căn quang. Xanh, vàng, đỏ, trắng tùy cơ biện, Dài, ngắn, vuông, tṛn ấy vô vàn. Nhắn người nên quán đôi tṛng mắt, Linh diệu phơi trần rơ tâm can. NHĨ VĂNNhư tân quyển diệp Thủ Lăng đề, Quan Thế Âm Quan Tự Tại cơ. Động tịnh tương tŕnh thành thính chất, Nhĩ hà hưởng ứng hiển căn tri. Thử phương giáo thể văn âm tịnh, Diệu pháp liên hoa trí tuệ tŕ. Lục nhập viên thông thường đệ nhất, Thiền môn Thích tử cộng quy y. TAI NGHENhư cuống lá mới Thủ Lăng đề, Quán Thế Âm, Quán tự tại cơ. Động, tịnh cùng bày thành thính chất, Xa, gần vang vọng hiển căn tri. Giáo thể phương này: văn âm tịnh, Diệu pháp liên hoa trí tuệ tri. Sáu nhập viên thông thường bậc nhất, Cửa thiền họ Thích thảy quy y. TỸ KHỨUNhư song thùy trảo b́nh trung cư, Khổng lư linh quang giác tự như. Hô hấp nhiêu tha thông xuất nhập, Tỹ hương nhậm bỉ phổ tri tư. Chúng sanh tánh mạng huyền do tại, Nguyên khí châu lưu lại hữu tư. Hương tỹ bất lai hà sở thức, A Di Đà Phật hiện chân cơ. MŨI NGỬI Song song nhưnhư dáng duỗi móng tay, Trống rỗng linh quang giác tự khai. Hơithở ra vào đều thông suốt, Mũi ngữi hương trần khắp biết hay. Tánh mệnh chúng sanh ngầm trong ấy, Nguyên khí châu lưu bởi có đây. Hương, tỹ chẳng đến, đâu chỗ biết, A Di Đà Phật hiện chân bày. THIỆT THƯỜNGNhư sơ yển nguyệt bán viên hoàn, Điềm biến tương tham nhứt thể quan. Hàm đạm thường minh danh thiệt tướng, Ngữ ngôn liễu lư hiển căn nhan. Thánh phàm lư thú do tư đạo, Tông chỉ nhân duyên bản thị thuyên. Ẩm thủy tự đương tri lănh noăn, Hà tu hướng ngoại mích tâm can. LƯỠI NẾMNhư mảnh trăng non nửa vành cong, Nếm, vị hợp nhau một thể đồng. Mặn, nhạt rơ ràng là tướng lưỡi, Ngữ ngôn suốt lư tỏ bày xong. Lư thú thánh phàm đều diễn nói, Nhân duyên tông chỉ vốn đây thông. Uống nước tự ḿnh hay nóng, lạnh. Cần chi hướng ngoại kiếm tổ tông. THÂN GIÁCNhư yêu cổ tảng hiện h́nh dung, Căn thức y chi nhứt thể đồng. Ly hiệp tương ma thành xúc giác, Hàn ôn các dị biệt lai tông. Pháp Hoa Tŕ Địa xưng tiên chứng, Thuần giác di thân đốn ngộ không. Thường niệm tha vi chư khổ bản, Tánh không chân sắc thật vô cùng. THÂN XÚC GIÁCH́nh dáng in như cái trống cơm, Căn thức cùng nương một thể đồng Ly, hợp chạm nhau thành xúc giác, Hàn, ôn mỗi mỗi chính nguyên tông. Pháp Hoa Tŕ Địa đầu tiên chứng, Thuần giác, quên thân đốn ngộ không. Luôn nhớ xúc kia là gốc khổ, Tánh không chơn sắc thật dung thông. Ư TƯNhư u thất kiến tự tư lương, Thống lănh quần cơ tác chủ trương. Sanh diệt lưỡng đoan tương tục niệm, Hữu vô chư pháp giác tri tường. Sát na vạn lư đô phân biệt, Thuấn tức thời lai nhậm đoản trường. Thiện ác thành phàm bao quát tận, Đường đường tự tại pháp trung vương. Ư NGHĨTrong ngôi nhà tối, thấy suy lường, Thống lănh quần cơ nắm chủ trương. Sanh diệt hai đầu tương tục niệm, Có không các pháp giác tri tường. Sát na muôn dặm đều phân biệt, Chớp mắt ngay đây mặc đoản trường. Thiện ác thánh phàm bao quát cả, Đường đường tự tại pháp trung vương. ĐỊA ĐẠIThô vi đại địa, tế vi trần, Tánh sắc chân không bản chánh nhân. Thượng dục quần sanh tự tạo hóa, Hạ ngưng thành chất tải thiên nhân. Căn cai nha giáp mông thâm hậu, Động thực phi tiềm cảm đại ân. Hà phụ chúng sanh chân địa tạng, Đại tai! Vô lượng địa dư luân. ĐỊA ĐẠIThô là đại địa, tế vi trần, Tánh sắc chân không vốn chánh nhân. Trên dưỡng quần sanh làm tạo hóa, Dưới ngưng thành chất chở thiên nhân. Mộng mầm gốc rễ luôn nhờ đó, Người vật muôn loài cảm đại ân. Gánh vác chúng sanh là địa đại, Lớn thay! Vô lượng địa dư luân. THỦY ĐẠITánh thủy chân không bản tự thanh, Châu lưu giác hải nhuận quần manh. Trừng trừng nguyệt hiện viên minh tướng, Trạm trạm quang hàm bích lục h́nh. Âm thấp bản vô, hàn bất hữu, Oánh trừng nguyên tịnh, trọc hà sanh. Không minh hà xứ thành ba lăng, Phi đạm phi hàm triệt thái thanh. THỦY ĐẠITánh thủy chân không vốn tụ thanh, Mênh mông bể giác gội quần manh. Long lanh ánh ngọc tuôn làn biếc, Vằng vặc trăng soi nét tṛn vành. Ẩm ướt vốn không, hàn chẳng có, Lắng trong nguyên tịnh, trược nào sanh? Rỗng sáng nơi nao thành sóng cả, Chẳng nồng, chẳng nhạt ngất trời xanh. HỎA ĐẠIChân không tánh hỏa bản nhiên minh, Biến chiếu hôn cù lợi chúng sanh. Tuệ diễm đà đà thông pháp giới, Thần quang thước thước đổng u minh. Gia gia hàm lại sanh tri kiến, Xứ xứ quân mông lăng thức tinh. Bất cộng thế t́nh duy nhứt tánh, Phi phiền phi nhiệt thả oai linh. HỎA ĐẠITánh hỏa chân không bản nhiên minh, Chiếu soi tăm tối lợi quần sanh. Tuệ diễm sáng bừng thông pháp giới, Thần quang chói rực suốt u minh. Người người nhờ đó sinh tri kiến, Chốn chốn thảy đều sáng thức tinh. T́nh thế chẳng cùng, duy nhứt tánh, Chẳng phiền, chẳng nhiệt, thực oai linh. PHONG ĐẠITánh phong thanh tịnh biến hư không, Động tịnh đoan tùng nhứt niệm trung. Hữu tắc thanh đằng thành hữu tướng, Vô thời tịch mặc khởi vô phong. Thập phương bất ngại du hành tích, Tam giới du pḥng xuất nhập tông. Phong tánh Đặc Ca quán tỹ tức, Phi sanh phi diệt chứng viên thông. PHONG ĐẠIGió khắp hư không tánh sạch trong, Từ trong một niệm động tịnh sanh, Có ắt tiếng vang thành có tiếng, Không th́ vắng lặng gió chẳng không. Mười phương dấu vết đâu là ngại, Ba cơi ra vào há chẳng thông. Phong tánh Đặc Ca hơi thở quán, Chẳng sanh chẳng diệt chứng viên thông. KHÔNG ĐẠIVô biên vô tế đại vô cùng, Cắn cổ nhi kim bất cải dung. Quách nhỉ châu viên hà tướng trạng, Hồn nhiên khoát đạt khởi thù đồng. Thập phương chư Phật du kỳ nội, Lục đạo quần sanh diệc thị trung. Tuy bỉ ngoan hư ṭng vọng hiện, Tánh không chân giác thật viên thông. KHÔNG ĐẠIKhông ngằn không mé lớn vô cùng, Suốt cả xưa nay chẳng đổi dung. Cùng khắp tṛn đầy đâu tướng trạng, Hồn nhiên rộng răi há sai đồng. Mười phương chư Phật đi trong ấy, Sáu nẻo quần sanh cũng ở trong. Dù cái ngoan hư từ vọng hiện, Tánh không chân giác thật viên thông. KIẾN ĐẠILục nhập tuy thù nhứt kiến thành, Hư linh bất muội oánh chân tinh. Sắc thanh hương vị tề chiêu trước, Kiến giác văn tri cộng hiện h́nh. Minh ám khứ lai quán tự tại, Hữu vô viễn cận chiếu phân minh. Tuy nhiên kiến diệu du hư ế, Chân kiến linh tri bản tự thanh. KIẾN ĐẠISáu nhập khác nhau một kiến thành, Rỗng linh chẳng tối, sáng chân tinh. Sắc thanh hương vị đều soi tỏ, Hay biết thấy nghe thảy hiện h́nh. Sáng, tối, lại, qua quán tự tại, Xa, gần, không, có chiếu phân minh. Tuy nhiên kiến diệu c̣n ḷa quáng, Chân kiến linh tri vốn tự thanh. THỨC ĐẠITrí cảnh quang hàm ảnh vạn ban, Lục tinh thần dụng chiếu trần gian. Sắc không động tịnh đô minh biện, Đồng dị phương viên đẳng giác quan. Đại sĩ hồi tư thành Phật tuệ, Tăng nhân định thị tức tâm an. Long Hoa tam hội thời tương thức, Thỉ giác ngô tâm diệc cổ nhân. THỨC ĐẠIGương trí sáng ngời bóng vạn ban, Sáu tinh thần dụng chiếu trần gian. Sắc không độn tịnh đều rạng rỡ, Đồng dị tṛn vuông thảy rơ ràng. Đại sĩ về đây thành Phật duệ, Tăng nhân ở đó tức tâm an. Long Hoa ba hội khi tỉnh thức, Mới biết tâm ta giống cổ nhân. LỤC CĂN, THẤT ĐẠI DUY THỨC TỔNG QUI NGUYÊN KỆLục căn thất đại bản đồng nhiên, Thiết vật tương vi biệt dị quan. Kiến hỏa sắc trần thành địa tướng, Văn ba thanh thủy hiện cung luân. Niệm động phong diêu tứ đại chủng, Ngoan si ám độn nhứt không hoàn. Cá trung duy thức sanh chư hữu, Thức tánh vô sanh giác bản viên. KỆ SÁU CĂN, BẢY ĐẠI DUY THỨC ĐỀU QUI VỀ MỘT GỐCSáu căn bảy đại đồng bản nhiên, Bày vật tương vi phân biệt riêng. Thấy lửa sắc trần thành tướng đất, Nghe sóng nước trong hiện bóng thiên. Niệm động gió lay tứ đại chủng, Mờ mịt ngoan không trải vô biên. Thức ấy sinh ra thành các cơi, Tánh thức không sanh giác bản viên. Hoàng triều Thiệu Trị năm thứ ba, nhằm năm Quí Măo (1843), tháng hạ, ngày lành soạn thuật ] |