[Trang chu] [Kinh sach]

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT

Giảng Giải

[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]


A. CHÁNH VĂN (tt)

II. BÀI TỰA:

“Kiến Tánh Thành Phật” là liễu ngộ xưa nay không một vật. Nguồn linh rỗng lặng, trong sáng tṛn đồng cả thái hư. Pháp tánh bao trùm, nghiễm nhiên ánh sáng soi suốt nơi sát hải, rơ ràng lồ lộ ngay trước mắt. Bản tánh Như Lai tự như mà ứng hiện trên trời dưới đất, nên hay tùy loại, tùy h́nh, hoặc cơi này phương khác thị hiện ra đời độ thoát quần sanh. Khai quyền th́ phương tiện có muôn pháp, hiển thật th́ hội ngộ về một tâm. Trỏ Phật quả Bồ-đề vô tướng, vốn  rỗng lặng tṛn đồng thái hư. Phó pháp ấn tâm tông Bát-nhă lộ bày bốn mắt nh́n nhau. Trong Kinh Lăng Già, quyển hai, đức Phật Thích Ca đă chỉ bày rành rơ. Hàng hậu học ai c̣n ngờ vực xin hăy mau t́m Kinh tra cứu, tự nhiên nghi ngờ hết sạch mà được chứng thật, đốn ngộ kiến tánh thành Phật. Cần biết diệu lư của Phật pháp, chẳng dính dáng ǵ đến văn tự ngôn ngữ, bặt hết mọi hư luận, bản tế trong lặng tṛn đầy, ba đời chư Phật cuối cùng đành ngậm miệng không lời, nhiều đời Tổ sư rốt ráo cũng im hơi lặng tiếng. Nên đức Thế Tôn giơ cành hoa chỉ cho đại chúng, ngài Ma-ha-ca-diếp khế hội mỉm cười, thầy tṛ bốn mắt nh́n nhau, tuệ nhăn chiếu sáng lẫn nhau, thầm lặng ấn tâm, phó pháp truyền y nối vị Tổ.

Tâm ấn Bát-nhă tṛn đồng cả thái hư chân không tỏ rơ, xưa nay vẫn như thế. Từ hai mươi tám vị Tổ Tây Thiên truyền đến sáu vị  Tổ  Đông  Độ, chỉ  thẳng nối tiếp nhau, bốn mắt nh́n nhau, im lặng nh́n trừng trừng, gượng gọi là tâm ấn mà phó chúc đó thôi.

Đến các Tổ đời sau ứng hiện ra đời, giúp nêu cao việc giáo hóa, diễn rộng pháp môn, mở rộng phương tiện. Việc ứng duyên đă xong, nguyện lực c̣n để lại, Ngữ lục chợt hưng thịnh, đều lập thành công án, khai sơn dạy chúng, gậy hét dạy đuổi, câu câu về nơi tông, cơ cơ chung một lư.

Hàng thượng căn lănh ngộ th́ được cơ đại hành đại dụng, bậc cao sĩ biết suốt th́ rơ pháp vô trụ vô vi. Song người người xuất gia theo Phật, kẻ kẻ học đạo tham thiền, phải xét rơ tinh tường Kinh điển của Phật, Ngữ lục của Tổ, muôn đuốc ngh́n đèn chỉ một ngọn lửa. Nếu người căn cơ bén nhạy bậc thượng th́ hội thông muôn pháp thảy ở nguồn tâm. Nếu người bậc hạ chấp nghiêng lệch một bên th́ thích theo phép thức t́nh phân biệt, luống mở to cửa ngơ, t́nh c̣n hơn thua, thức chứa nghĩ suy, kẹt tâm hữu lậu, trái với ư chỉ vô sanh. Bởi do chưa xét tột trí tự nơi ḿnh, nên c̣n bị người lừa dối, ch́m đắm nơi giáo nơi tông, tranh luận nhân ngă, phân biệt kia đây, nghĩ t́m kẽû hở mà công kích lẫn nhau, nhà ḿnh nhà người, đấu lư tranh lời giành hiểu biết. Ai c̣n như thế là chưa vượt khỏi pháp trần phiền năo, chưa lănh hội chân như b́nh đẳng, ngă chấp pháp chấp chẳng quên, thức thần khư khư chấp cứng, sẽ măi măi ch́m đắm nơi tông giáo. Ai hay nơi dốc đứng buông tay, mới đáng gọi đích  thực  trượng  phu, xưa  nay  một  vật cũng không, lưới giáo nơm bẫy buông sạch. Đó là chỗ gọi: “Mộng huyễn không hoa, đâu nhọc nắm bắt, được mất phải quấy, thảy đều buông hết, âm thanh sắc pháp, vốn từ tâm sanh, tâm có phân biệt đều rơi vào đường tà”. Cho nên nói: “Pháp tánh vốn rỗng lặng, không lấy cũng không thấy. Tánh không tức là Phật, chẳng thể nghĩ lường được”. Tông chỉ Bát-nhă vốn ngộ không chỗ được mà được. Từ xưa đến nay không có kiến chấp sai khác, nguồn chân trong lặng nhiệm mầu, ánh tịch quang vô tướng vô vi, thể vọng như hoa đốm trong không, huyễn khởi lên liền có tên có chỗ.

Ḥa thượng Chân Nguyên là người quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương, trước kia c̣n đồng tử đi xuất gia theo Phật, lên thẳng chùa Hoa Yên núi Yên Tử, được ư chỉ tông ấn ḍng Trúc Lâm với Thiền sư Chân Trú hiệu Tuệ Nguyệt. Không bao lâu Thiền sư Chân Trú nghiễm nhiên trở về không (tịch). Sư lại gặp thiện tri thức chung nhóm ba huynh đệ, đồng chí hướng, đồng tu tập, đồng giới phẩm, tham học thành tài.

Sư y cứ Kinh Phạm Vơng, Như Lai đă phó chúc: “Nếu trong khoảng ngàn dặm có bậc Đại tông sư, phải mau đến ân cần cầu xin thọ giới Bồ-tát”. Ví như lầu cao bốn tầng phải theo thứ lớp đi lên. Cũng vậy bốn đàn giới phẩm có thể lên tới địa vị Phật. Sư lại là người học rộng thấy trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng đă được ấn kư ở Hoàng Mai, rồi gặp nhiều hoạn nạn chưa kịp đăng đàn thọ giới, sau đó cũng thỉnh chư Tăng đồng đến chứng cho cạo tóc, thọ giới mới được tṛn sáng. Nếu thực là đệ tử Phật không được trái bỏ vượt qua. Như Lai đă nói, quyết phải thuận theo. Ngày trước đă có việc như trên, ngày nay đâu không việc này. Muốn được quả thù thắng, phải tuân theo điều này mà vâng làm. Sư chuẩn bị đầy đủ ca sa, tọa cụ, pháp phục, sắm lễ vật với tâm thành, v́ pháp vượt xa xôi thẳng đến chùa Vĩnh Phúc trên núi Tôn Côn Cương, phủ Từ Sơn, Kinh Bắc, một lần nữa đảnh lễ Tôn sư Minh Lương, tức Ḥa thượng Măn Giác truyền pháp tông Lâm Tế, thỉnh cầu lên đàn thọ giới Bồ-tát. Trong Kinh Phật nói: bởi người đắc đạo vốn do nhân duyên từ nhiều kiếp đă ngộ sâu chân như mà cảm kích đến Phật Tổ.

Sư xúc động than rằng: “Phật xưa sớm được công quả cao siêu, do siêng tu thắng hạnh đầu đa. Hương hoa muôn vật là ngoại tài, cánh tay hay một ngón tay là nội thân tài, ân Phật khó đền đáp, đức Tổ đâu dễ trả !” Sư bèn cung kính đối trước tượng Phật dùng lửa đốt ngón tay phát nguyện: “Trước đốt một ngón tay, nguyện đem pháp cúng dường này đền đáp ân sâu của Phật Tổ, Sư Trưởng”. Sau Sư đốt tiếp một ngón tay nữa: “Nguyện đem pháp cúng dường này, nương theo Kinh Phạm Vơng thọ giới Bồ-tát và thẳng lên mười đại nguyện lực Bồ-đề. Nguyện đời đời tiếp nối đèn tuệ của chư Phật, kiếp kiếp kế thừa y bát của chư Tổ. V́ tông và giáo đốt ngón tay, kính dâng lên Tổ Điều Ngự. Tùy nguyện của chúng hữu t́nh, mà cảm đến trí vô lậu”.

Sư dốc chí cầu quả Phật Vô Thượng Bồ-đề nên nhiếp niệm nơi núi rừng, ở yên chốn vắng vẻ, tư duy Phật pháp, mở rộng quy mô to lớn, c̣n măi với trời đất, gầy dựng nền tảng cho tông và giáo, quần sanh được lợi lạc, pháp giới đều thấm nhuần ân đức. Sư từng chọn nơi phúc địa Việt Nam, với cảnh chùa Quỳnh Lâm, Hoa Yên là hai cảnh danh lam, khiến trở thành như trên hội Linh Sơn nước Tây Thiên Trúc, là cột trời ở Việt Nam, bảo phường của Phật Tổ, nêu cao đây là Cực lạc.

Người dân thường  th́  thuế  vụ  đầy đủ, làm thích tử tu hành th́ đốt hương chúc Thánh: “Mạch nước lâu dài, Thiền tông sáng rỡ, tượng pháp lưu truyền, độ người vô lượng”. Từ đó Sư hăng hái phát chí nguyện lớn, khuyến hóa mọi người khắp nơi đem tiền của kết duyên lành, góp phần công đức, rồi ra sức tạo dựng đài “Cửu Phẩm Liên Hoa”. Qua chín năm th́ hoàn thành ba đài ở ba nơi:

            1. Đài Cửu phẩm ở chùa Quỳnh Lâm, núi Tiên Du.

            2. Đài Cửu phẩm ở chùa Hoa Yên, núi Yên Tử.

            3. Đài Cửu phẩm ở chùa Linh Ứng, huyện Thanh Hà.

Sư lại khắc in các Kinh Pháp Hoa... đem hết ḷng làm Phật sự để đền đáp ân Phật. Tượng đức Di Đà nổi bật trên đài Cửu phẩm, và thêm tu sửa tượng điện, gác chuông chùa Long Động, trong ngoài được vuông tṛn, công đức viên măn, cũng không quên nguyện lực, quyết chí công phu chỉ cầu quả Phật. Núi Yên Tử vốn là chỗ tu  hành, tùy  thời dạo đi qua lại chùa Hoa Yên, Long Động và am Thiền Dược, được thú ở yên lặng lẽ, lại có phước duyên sanh ra gặp được Phật pháp.

Triều Lê niên hiệu Chính Hoà (1680-1705), đức Giác Hoàng Cổ Phật sanh trở lại để mở bày hiển rơ tạng Kinh. Mây từ nhuận khắp, mưa pháp thấm đều, từ hàng Thích tử cho đến muôn dân đồng được hưởng ân huệ. Vua tôi mừng tụ hội, đúng thời tiết nhân duyên, Phật pháp hiện tiền. May được chứng quả mà gánh vác Phật pháp, thay Phật tuyên dương. Đă rơ biết pháp tánh rỗng rang vắng lặng, tṛn đồng thái hư; Chân như trong lặng nhiệm mầu, vốn không một vật. Tuy trong ánh tịch quang vốn không một pháp, mà phương tiện chỉ bày có nhiều cửa. Xét ngày xưa có thực hành, ngày nay mới có thể học theo. V́ vậy Kinh Kim Cang phần ba mươi hai. Hội giải câu “Như như bất động”, Thiền sư Xuyên Lăo nói: “Một câu rốt sau mới đến lao quan. Liền được chư Phật ba đời bốn mắt nh́n nhau, sáu đời Tổ sư có phần thối thân”. Đáng bảo là sông ng̣i toàn đóng băng, nước chẳng thông thoát; tột mắt đều là gai góc, không chỗ đặt chân. Đến trong ấy thêm một mảy tơ, như trong mắt để kim; bớt một mảy tơ, dường trên thịt lành khoét thành thương tích. Chẳng phải v́ đoạn dứt  yếu  tân, bởi do người biết pháp e ngại. Tuy nhiên như thế, Phật pháp chỉ như trên đây, bèn thấy trên đất bằng chết ch́m, đâu có đèn đèn mồi sáng măi. Thượng tọa Xuyên ngày nay chẳng khỏi đoạt thức ăn trong miệng cọp mạnh, giành hạt châu dưới hàm rồng dữ, mở toang cửa mầu của bậc Thánh trước, người hậu học có lối tiến thân. Buông ra một đường, lại đâu có ngại ? Nói th́ toàn bày pháp thể, nín th́ riêng lộ chân thường, động th́ chiếc hạc mảnh mây, tịnh th́ an non sắp núi, tiến một bước như voi chúa xoay đầu, lùi một bước tợ sư tử gầm rống, pháp vương pháp lệnh đang hành, liền hay tự tại đối với pháp. Chỉ như một câu rốt sau, làm sao nói ? Lại nói được chăng ?

            Mây ở đầu non nhàn quá đỗi,

            Nước chảy dưới khe rất rộn ràng.

TỤNG :

            Được chỗ thảnh thơi hăy thảnh thơi,

            Mây tự bay cao nước tự trôi.

            Chỉ thấy mây đen nhồi sóng lớn,

            Thuyền câu ch́m đắm chửa nghe rồi.

Âm :

            Đắc ưu du xứ thả ưu du,

            Vân tự cao phi thủy tự lưu.

            Chỉ kiến hắc vân phiên đại lăng,

            Vị văn trầm khước điếu ngư chu.

Xưa nay không lối nào khác, người thông suốt th́ cùng chung một đường. Chư Phật đều có để phương tiện, vốn thuật lại chí nguyện tiếp nối công phu. Tâm mong người trở thành rường cột cho Phật pháp, để làm mẫu mực cho người sau soi xét noi theo. Tôi theo khắp các Kinh trong Đại tạng, mở bày tâm địa ra nơi từ chương (chữ nghĩa) mà soạn thành một bản luận lưu truyền, đặt tên là “Kiến Tánh Thành Phật”.

Nhằm nêu rơ nguyện lực ra đời, và giúp lo gánh vác sứ mạng Như Lai, đời đời tiếp nối ngọn đèn Phật Tổ, làm sáng rực con mắt của trời người. Đời sau ai là người có chí lớn, giữ ǵn gia phong của Phật, pḥ tŕ tượng pháp an ổn lâu dài, th́ phước tuệ trang nghiêm tối thắng. Hoặc kẻ thấy đài Cửu phẩm hư đổ và các Kinh bản cũ mục, th́ hăy khuyến hóa đàn na, cùng nhau góp sức hưng công tu bổ lại, tự rất mừng vui cho ḿnh, thật đă làm được nhân duyên tốt đẹp. Nếu hay hết ḷng đền đáp ân Phật, sẽ sớm được Di Đà thọ kư.

Kệ cảnh tỉnh đàn na:

            Quyến thuộc đều bỏ đi,

            Tiền của trả lại người.

            Chỉ căn lành ǵn giữ,

            Đường hiểm lương thực đầy.

Âm :

            Quyến thuộc giai xả khứ

            Tài hóa tán hoàn tha

            Đản tŕ tự thiện căn

            Hiểm đạo sung lương thực.

Nghĩ đến lạnh hăy lo dệt áo ấm, chớ đợi sau khi đă lạnh. Nghĩ đến khát hăy lo đào giếng, chuẩn bị trước khi chưa khát. Lo sẵn cầu đ̣, làm phước niệm Phật, in Kinh tạo tượng, như gấm thêm hoa, lấy làm công án văng sanh Tây Phương, cửu huyền thất tổ cùng chung được vượt lên chín phẩm hoa sen nơi thế giới Cực lạc. Kinh nói: “Ḿnh được độ rồi độ người, tự lợi rồi lợi tha, người đă biết tỏ bày cho người chưa biết, người giác trước chỉ dạy cho người giác sau”. Như một trăng hiện thành các trăng nơi ngàn sông, trăng trăng rọi sáng rực; tợ một ngọn đèn mồi truyền cho đèn nơi muôn nhà, đèn đèn nối tiếp sáng măi. Chính quyển Luận này là tâm tông của Phật Tổ. Chính quyển Luận này là Kiến tánh thành Phật. Diệu lư của luận này như tia lửa mặt trời, được chừng một mảy tơ th́ sáng rỡ không cùng tận. Xem học mà ngộ đạo th́ như uống nước cam lồ. Người lượng cao quán sâu th́ suốt tột đáy nguồn của pháp    

Hội rằng:

            Bủa lưới giăng ngang sông,

            Được cá một mắt lưới.

            Kinh Lục đầy pháp giới,

            Ngộ đạo không một chữ.

Âm :

            Hội Vân

            La vơng bố hoành giang,

            Đắc ngư nhất mục vơng.

            Kinh Lục măn pháp giới,

            Ngộ đạo vô nhất tự.

Bản tánh rỗng lặng, tṛn đồng thái hư, trong lặng nhiệm mầu và tṛn sáng, trọn không một vật. Nên biết, ngàn Kinh muôn Luận đều là lời nói chỉ mặt trăng, đâu ích ǵ với lư này. Tin tức ấy như thế ! Như thế ! Rơ biết muôn pháp, tạm đồng với hoa đốm trong không. Nếu là bậc thượng cơ, ngại ǵ một tiếng cười !

Bài kệ ngộ đạo:

            Phật Tổ trong ba đời,

            Bốn mắt cùng nh́n nhau.

            Xưa nay không hai lối,

            Thành Phật sát na thôi.

Âm :

            Tam thế chư Phật Tổ,

            Tứ mục cộng tương quan.

            Cổ kim vô nhị đạo,

            Thành Phật sát na gian.

Đó là chân không vô tướng, là cha mẹ của trời đất muôn vật, làm nền tảng cho thế giới sanh linh, suốt cả xưa nay, chẳng sanh chẳng diệt. Mây tụ th́ tối mà chân không chưa từng tối. Mặt trời soi th́ sáng mà chân không chưa từng sáng. Ẩn hiển cùng  bày, sắc không chẳng hai, trời đất muôn vật, chỉ một thể nguyên thần, vô trụ vô vi. Chợt hiện ra mặt thật xưa nay, ĺa danh ĺa tướng, mở toang then chốt trên đảnh môn hướng thượng, đèn tâm của Phật Tổ truyền sáng măi không cùng tận. Khi hiển mà nói, th́ có tám muôn pháp môn. Với mật mà ngộ, th́ chỉ bốn mắt nh́n nhau.

Tôn kính chúc rằng:

Quốc gia có măi, ngôi báu kim luân cùng với trời đất c̣n hoài.

Phật đạo không cùng, nối Tổ truyền tông đồng với Thứu Phong chẳng mất.

KÍNH  ĐỀ TỰA.

Trường thủy, hàng hậu học  truyền giữ Tổ thiền, Thích tử Trương Viết Đức tự Tính Phương giữ bản này.

Triều Lê niên hiệu Chính Ḥa thứ 19 (1698), ngày lành mùa Đông năm Mậu Dần khắc in lại.

Bản khắc in lưu trữ tại chùa Long Động, núi Yên Tử, nay lại dời  ra lưu trữ tại chùa Quỳnh Lâm để cho người sau hiểu rơ.

Thích Tử Chân B́nh ghi chép.

?


[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]

[Trang chu] [Kinh sach]