[Trang chu] [Kinh sach]

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT

Giảng Giải

[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]


B. GIẢNG GIẢI (tt)

III. KỆ KIẾN TÁNH: (tt)

Trong Thiền sử Trung Hoa có ghi câu chuyện: ngài Văn Hỷ đi đến núi Ngũ Đài để t́m Bồ-tát Văn Thù, Ngài không gặp Bồ-tát Văn Thù chỉ gặp một ông già dắt trâu đi, mời Ngài vào chùa uống trà. Qua câu chuyện đối đáp, trời tối Ngài xin nghỉ lại đêm không được, ông già cho một đồng tử đưa Ngài xuống núi. Ngài hỏi  đồng tử mới biết đó là chùa Bát-nhă trong hang Kim Cang, ông già gặp vừa rồi là Bồ-tát Văn Thù. Ngài buồn bả  v́  không thể nào gặp lại được. Lúc đó đồng tử và chùa cũng đều ẩn mất, chỉ thấy Bồ-tát Văn Thù cởi sư tử vàng qua lại ở trên mây, Ngài đảnh lễ rồi đi về. 

Sau, Ngài đến Thiền sư Ngưỡng Sơn học đạo, được sung chức Điển tọa. Ngài nấu cháo  thường  thấy Bồ-tát Văn Thù hiện trên nồi cháo, Ngài lấy cây giầm quậy cháo đập, nói:

- Văn Thù tự Văn Thù, Văn Hỷ tự Văn Hỷ.

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy tinh thần Thiền là trở về với Phật chính ḿnh, không lệ thuộc vào Phật, Bồ-tát bên ngoài. Trong nhà Phật có câu “Phật cao một thước, ma cao một trượng”, sống trong cơi dục này ma ở gần chúng ta rất nhiều, cho nên chúng ta nghĩ ǵ, mơ ước điều ǵ, ma biết hết và nó hiện đúng như ư ḿnh mong cầu. Nếu chúng ta không biết th́ bị nó lừa, tu một thời gian kết quả điên khùng là tại chỗ đó. Nếu chúng ta biết tất cả đều là giả tướng, th́ không chấp nhận những tướng bên ngoài từ tâm phóng hiện ra, không chấp nhận th́ không lầm, không bị hại. Giả sử chúng ta ngồi Thiền gặp Phật thật  hiện  ra, chúng ta không chấp nhận Phật cũng không  rầy, v́ biết ḿnh có cái nh́n đúng. Nếu chúng ta gặp Phật không lễ sợ có lỗi, Phật thuyết pháp không nghe sợ có tội, sẽ bị lừa bị hại. Thỉnh thoảng có ít người tu ban đêm ngồi Thiền nghe bên tai có tiếng nói pháp, hoặc bên tai nghe có tiếng nói x́ xào, muốn hết tiếng không biết làm sao, đến nhờ tôi chỉ cách để giải trừ. Những trường hợp như thế phần nhiều là do quỉ thần đánh lừa chúng ta. Ban đầu nó đem một hai câu kinh Phật ra nói, chúng ta nghe thích quá, tin theo cho là lời Phật Thánh nói pháp. Khi tin sâu rồi nó xúi chúng ta nói làm bậy bạ, lúc đó ư chí nhu nhược, trí tuệ lu mờ, nó bảo điều chi là nghe theo làm theo, không cưỡng lại được. Đó là cái lầm của người tu không biết rơ những chứng thiền bệnh. Trong nhà Thiền có câu “Phùng Phật sát Phật, phùng ma sát ma” (Gặp Phật giết Phật, gặp ma giết ma). Nói nghe như vô lễ tàn nhẫn lắm, nhưng đó là điều tất yếu phải làm để trong khi tu chúng ta tránh được sự lầm lẫn tai hại. Nên nhớ ai tu mà ham Phật, Bồ-tát đến xoa đầu thọ kư th́ người đó dễ bị điên cuồng.

Lư rốt ráo tột cùng, cực tắc tuyệt diệu th́ Pháp thân vốn rỗng lặng, tṛn đồng thái hư, không đi không đến, không nơi không chốn, tùy cơ mà cảm đến, ứng hiện tự tại, nên gượng gọi là Như Lai.

Đoạn này Ngài nói thêm để chúng ta hiểu rơ cái lư tột cùng không đến không đi của Pháp thân và danh từ Như Lai cũng gượng gọi chớ không có thật.

            Chánh giác không nơi đến,

            Đi cũng không chỗ nào.

            Thân thanh tịnh diệu sắc,

            Do thần lực hiển hiện.

            Phật thân rỗng lặng trùm pháp giới,

            Rơ ràng trước mắt quần sanh loại.

            Tùy cơ cảm đến khắp mọi nơi,

            Tự do ứng hiện đều vô ngại.

Âm :

            Chánh giác vô lai xứ,

            Khứ diệc vô sở tùng.

            Thanh tịnh diệu sắc thân,

            Thần lực cố hiển hiện.

            Phật thân không tịch biến pháp giới,

            Đường đường đối nhăn quần sanh loại.

            Tùy cơ phó cảm mỵ bất chu,

            Tự như ứng hiện lực vô ngại.

Đến đây Ngài nói thêm bài kệ để chúng ta rơ nghĩa lư không đến đi của Pháp thân.

Chánh giác không nơi đến, đi cũng không chỗ nào. Thân thanh tịnh diệu sắc, do thần lực hiển hiện. Chánh giác là chỉ cho Pháp thân không đến đi, không có nơi chốn và cái thân đẹp đẽ có ba mươi hai tướng tốt của Phật cũng do thần lực hiển hiện.

Phật thân rỗng lặng trùm pháp giới, rơ ràng trước mắt quần sanh loại. Pháp thân Phật rỗng lặng trùm khắp pháp giới, luôn luôn hiện ở trước mắt chúng ta. Như vậy thân có ba mươi hai tướng tốt của Phật Thích Ca ở Ấn Độ là Ứng thân hay Hóa Thân, c̣n Pháp thân Phật ai cũng sẵn có, nó rỗng lặng trùm khắp pháp giới và ở ngay trước mắt chúng ta, không hề xa cách.

Tùy cơ cảm đến khắp mọi nơi, tự do ứng hiện đều vô ngại. Nghĩa là Pháp thân không có tướng mạo, nhưng tùy duyên mà có cảm ứng. Tùy duyên cảm ứng như thế nào ? Giả sử chúng ta tu thể nhập được Pháp thân thanh tịnh, nhưng không phải an trú măi trong Pháp thân thanh tịnh, mà tùy chúng sanh nào có duyên với chúng ta sanh nơi nào th́ chúng ta đến đó để độ họ. Như chúng tôi thường nói, lâu nay Phật tử ủng hộ tịnh tài tịnh vật để chúng tôi cất chùa và lo cho Tăng Ni tu học, Phật tử làm việc ấy với tâm nguyện mong rằng đời đời được gặp chánh pháp, gặp quí Thầy giáo hóa cho tu học, v́ hiện tại Phật tử là cư sĩ gia duyên ràng buộc nên tu không được bao nhiêu. Tâm nguyện như thế là Phật tử đă muốn gieo duyên sâu với Tam bảo, nhưng nếu chúng tôi tu giác ngộ thể nhập Pháp thân thanh tịnh, cảm thấy an lạc thảnh thơi quá, không trở lại thế gian giáo hóa những người có duyên với ḿnh. Như vậy, nếu nói theo thế gian th́ chúng tôi không muốn trả nợ, mặc t́nh Phật tử muốn tu như thế nào th́ tu, ḿnh không để ư tới, đó là vô trách nhiệm. Cho nên người tu tự giác rồi phải giác tha, không nên ích kỷ, tu liễu ngộ rồi không hưởng an lạc một ḿnh, phải tùy duyên ứng hiện độ chúng sanh có duyên với ḿnh, đó cũng là một h́nh thức trả nợ cơm áo cho Phật tử. Hơn nữa, khi tu đă giác ngộ, dù chúng ta có ứng thân độ chúng sanh chúng ta vẫn tỉnh chớ không mê, do tỉnh cho nên thấy việc ứng thân để độ chúng sanh là hư dối, không thật. V́ chúng sanh mê nên thọ thân giả dối cho là thật, c̣n người tỉnh đi vào trong cảnh giả biết là giả, mang thân giả làm việc lợi ích cho chúng sanh, dù có gặp cảnh thuận nghịch vui buồn cũng biết là giả dối, không động tâm, đó mới là tùy duyên cảm ứng. Nếu gặp cảnh thuận th́ vui, gặp cảnh nghịch th́ buồn khổ thở than, đó là theo nghiệp chiêu cảm.

Tùy duyên cảm ứng th́ gặp cảnh thuận nghịch ǵ cũng vui, v́ nó không thật, không thật cho nên không lo buồn sợ hăi. Do đó các Bồ-tát đi khắp thế gian để làm lợi ích cho chúng sanh mà vẫn luôn ở trong Niết-bàn tự tại, v́ đâu có ǵ bận tâm. Hạnh của Bồ-tát là như vậy, không hẳn Bồ-tát là phải có thần thông, có quyền lực phi thường, mà Bồ-tát vẫn ở tại thế gian và sinh hoạt như mọi người. Tuy nhiên, người thế gian gặp cảnh khổ th́ than khóc, Bồ-tát gặp cảnh khổ th́ cười. Người thế gian gặp duyên tốt họ hănh diện cho là vinh dự rồi sanh ngạo mạn, Bồ-tát gặp duyên tốt duyên xấu ǵ cũng thế thôi. Bồ-tát thật th́ hành động như vậy, c̣n khác đi là thứ giả, dù có xưng là Bồ-tát cũng chỉ là giả mà thôi. Cho nên trên đường tu nếu chúng ta khéo ứng dụng thực hành th́ đâu đâu cũng là Bồ-đề là Niết-bàn, nếu không khéo th́ đâu đâu cũng là cơi khổ đau.

Kinh nói: “Thân pháp giới thanh tịnh vốn không có ra vào, sức bổn nguyện đại bi thị hiện như hoa trong không”.

Đoạn này giải thích về Pháp thân thanh tịnh của Phật không ra không vào, nhưng v́ do sức bổn nguyện đại bi mà có ra có vào, sự ra vào đó giống như hoa đốm trong hư không. Thường chúng ta chỉ biết Phật là Phật Thích Ca ở Ấn Độ, có lịch sử, sanh ra trong cung vua Tịnh Phạn và nhập Niết-bàn ở rừng Sa-la, Phật đó là Phật Hóa thân, hay Báo thân có sanh có diệt. Phật Pháp thân th́ không sanh không diệt, tại sao Phật Hóa thân lại có sanh diệt ? Như Phật Thích Ca khi c̣n làm Thái tử phát tâm đi tu nguyện giải thoát sanh tử cho ḿnh và cho tất cả chúng sanh. Giải thoát sanh tử là nhập Niết-bàn, mà nhập Niết-bàn tức là tử. Như vậy nói thành Phật giải thoát sanh tử tại sao đến tám mươi tuổi Ngài vẫn tử như mọi người. Đoạn này ngài Chân Nguyên giải thích Phật có ba thân: thân có sanh có tử là Hoá thân hay Báo thân, thân không sanh tử là Pháp thân. Khi chứng quả Phật các Ngài sống với Pháp thân không sanh tử, c̣n thân tứ đại hiện có h́nh tướng là Hóa thân, thân này có sanh th́ phải có tử. V́ nó là Hóa thân nên dụ như hoa đốm trong hư không, chợt hiện chợt mất không thật. C̣n Pháp thân th́ như hư không thênh thang không sanh diệt. V́ vậy mà nói Phật chứng được Pháp thân th́ không c̣n sanh tử. Chúng ta tu giả sử kiếp này ngộ được Pháp thân, song thân tứ đại của chúng ta một ngày nào đó hết duyên nó cũng tan hoại. Nhưng có nhiều người quan niệm rằng không tu khi già cũng chết, cố gắng tu hành khổ cực tới già cũng chết, như vậy đâu có ai hơn ai. Đó là lư lẽ mà người không muốn tu nêu lên để bào chữa. Phải thấy rơ người tu và không tu có khác, người tu biết thân này giả tạm, nhận ra nơi ḿnh có Pháp thân chân thật không sanh tử th́ thân giả tạm có hư hoại cũng không buồn không tiếc. C̣n người thế gian không biết tu, thấy thân giả tạm này là thật cho nên khi thân này hoại t́m thân khác, theo nghiệp đi măi trong luân hồi thọ quả báo. Đó là chỗ khác nhau của người tu và không tu. Chúng ta phải hiểu cho thấu đáo để khỏi lầm lẫn như ở trên.

Bởi thị hiện có ra vào là ở cơ duyên, cơ duyên ứng th́ hiện ra trong cung vua Tịnh Phạn, cơ duyên hết th́ ở dưới gốc Sa-la (Bản chữ Hán là Bồ-đề thọ.) vào Niết-bàn.

Hóa thân th́ ứng theo duyên mà thị hiện, sở dĩ Thái tử sanh vào cung vua là v́ nơi đó có duyên với Ngài, thị hiện tu hành, thành đạo giáo hóa chúng sanh, cơ duyên viên măn thị hiện vào Niết-bàn. Ứng theo duyên mà Hóa thân thị hiện chớ không phải Pháp thân. Đoạn kế là ví dụ:

Do v́ nước trong sạch vô tâm mà không h́nh tượng nào chẳng hiện. H́nh tượng chẳng phải là ta vốn có, đây là hoa đốm trong không thuộc vật bên ngoài. Tướng chẳng phải là thân Phật, há Như Lai có ra vào ?

Đoạn này nói do nước trong cho nên h́nh tượng hiện. Ví dụ như có một hồ nước thật trong, mọi vật có h́nh tướng như núi rừng, cây cối, mặt trăng v.v... đều hiện bóng dưới hồ. Như vậy trong hồ thật có những thứ đó hay không ? Chỉ do hồ nước trong nên các thứ đó mới hiện. Cũng vậy nếu hồ tâm của chúng ta trong lặng th́ tất cả h́nh tượng đều hiện rơ ràng. H́nh tượng không phải là cái sẵn có mà nó là cái bóng hư ảo giả tạm, giống như hoa đốm trong hư không, nó là cái ở bên ngoài, hồ tâm mới thật là ta. Nếu hồ tâm chúng ta không trong lặng th́ bao nhiêu nghiệp chướng lôi dẫn chúng ta lăn lộn trong sanh tử. Nếu hồ tâm trong lặng th́ mọi h́nh tượng hiện trong đó chỉ là tướng huyễn hóa không thật, không làm xao động cái hồ. Tất cả tướng không phải là Pháp thân Phật, mà Pháp thân Phật là Như Lai th́ không có ra vào, v́ Như Lai không h́nh tướng. Như vậy chúng ta tu thành Phật rồi chúng ta có chết không ? Nếu không chết th́ hơn đức Phật rồi. Chúng ta cũng chết nhưng chết thân tứ đại hư dối, c̣n Pháp thân thanh tịnh bất sanh bất diệt th́ đâu có mất. V́ Pháp thân không h́nh tướng nên không sanh diệt, sắc thân có h́nh tướng có sanh ắt phải diệt. Vậy mục đích của người tu là hướng về Pháp thân hay hướng về sắc thân ? - Hầu hết chúng ta đều muốn sống với Pháp thân bất sanh bất diệt. Như vậy đối với Pháp thân th́ sắc thân quí chừng bao nhiêu phần trăm ? Pháp thân bất sanh bất diệt nó không có tuổi, c̣n sắc thân tứ đại sống chỉ mấy mươi tuổi th́ tan hoại, nó tạm bợ nên không phải là cái thân quí. Chúng ta không nên v́ nó mà tạo nghiệp, rồi theo nghiệp chịu khổ liên miên trong sanh tử luân hồi. Cho nên người hiểu đạo nhận ra Pháp thân, đây gọi là Kiến tánh, th́ những người này đối với thân tứ đại không cho là quí trọng, không c̣n cưng yêu nó nữa, mà thấy nó là phương tiện để tu và làm lợi ích cho chúng sanh. Thấy như vậy là thấy đạo. Nếu thấy thân là quí trọng, muốn cho nó mặc đẹp ăn sang, thụ hưởng tất cả mọi thứ tiện nghi sung sướng hiện có trên thế gian này là người không hiểu đạo. Như vậy người hiểu đạo và không hiểu đạo khác nhau ở chỗ đó. Hiểu đạo th́ quay về sống với Pháp thân, thấy sắc thân chỉ là phương tiện tạm bợ để tu và làm lợi ích cho chúng sanh, không hiểu đạo th́ cưng dưỡng sắc thân mà quên Pháp thân.

Đó gọi là thân Phật vô vi, đầy khắp cả pháp giới, thanh tịnh tṛn sáng, trong lặng thường trụ. Chân Phật th́ vô tướng, vốn không có lư Niết-bàn. Quyền Phật th́ giả hiện, huyễn có việc ứng hóa.

Đó gọi là thân Phật vô vi. Vô vi là không có tướng sanh diệt. Thân Phật vô vi là Pháp thân Phật không có tướng sanh diệt. Đầy khắp cả pháp giới, thanh tịnh tṛn sáng, trong lặng thường trụ. Pháp thân Phật của mỗi người thanh tịnh tṛn sáng trong lặng trùm cả pháp giới không sanh không diệt nên thường trụ. Chân Phật th́ vô tướng, vốn không có lư Niết-bàn. Phật thật th́ không có tướng, cho nên không có cái lư nhập Niết-bàn. Nhập Niết-bàn không phải là Phật thật. Nói như thế, có thể quí vị hiểu thân ḿnh là tướng có thật, cân nặng năm sáu chục kư, đi lại, nói năng, làm việc đủ thứ, như vậy là thật. C̣n nói Pháp thân không h́nh tướng th́ đâu có cái ǵ ? Không h́nh tướng th́ như hư không, vậy tại sao coi thường thân thật có h́nh tướng đi đứng hoạt động mà quí trọng Pháp thân không h́nh tướng rỗng không ? Chỗ này có rất nhiều người hiểu lầm. Nghe nói Pháp thân Phật vô vi vô tướng... tưởng nó rỗng không như hư không, nếu như hư không th́ vô tri không có giá trị. Tôi xin hỏi quí vị nơi chúng ta mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, nếu đứng về mặt thấy, biết, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm, cái biết đó có h́nh tướng không ? Cái biết nghe không phải lỗ tai, cái biết sắc không phải con mắt v.v... Cái biết đó không h́nh tướng mà nó chỉ huy toàn thân này, v́ nếu không có nó th́ thân này không hoạt động được. Hiểu kỹ chỗ này rồi chúng ta mới thấy rằng Pháp thân không h́nh tướng không phải là rỗng không vô nghĩa, mà nó có diệu dụng vô cùng. Hiểu rồi chúng ta mới thấy giá trị chân thật của sự tu hành là hướng đến Pháp thân bất sanh bất diệt. Chúng tôi tạm mượn những h́nh tướng thế gian để quí vị thấy giá trị mạnh yếu của sự vật, để sáng tỏ giá trị thật của sắc thân và Pháp thân. Chúng ta thường thấy đất, đá, sỏi... những thứ đó th́ cứng, c̣n nước th́ mềm nhưng nước xoi ṃn được đất, đá, sỏi... Như vậy, nước tuy mềm nhưng nó mạnh hơn đất đá. Nước có tướng chúng ta sờ mó và vốc nước thành bụm được, mà nó xoi ṃn được đất đá cứng hơn nó. C̣n gió th́ sao ? Gió không có tướng mạo, nhưng gió thổi th́ nước dâng lên, đất rung rinh bốc bụi. Như vậy th́ gió mạnh hơn nước. Chúng ta xét kỹ những sự vật có h́nh tướng thô chừng nào th́ yếu chừng nấy, những cái tế lại mạnh hơn. Như hiện giờ có những loại bom nổ một tiếng làm rung rinh cả trời đất, nó do những hạt nguyên tử rất nhỏ hợp thành. Nếu chúng ta đem đất đá dồn lại bằng quả bom nguyên tử th́ tiếng nổ không bằng và gây tác hại cũng không bằng quả bom nguyên tử. Như vậy mới thấy những vật vi tế chừng nào nó lại có năng lực mạnh chừng nấy. Cũng vậy,  tâm chúng ta vô vi không h́nh tướng, nhưng nó lại là cái chân thật điều khiển cả con người chúng ta, thế mà chúng ta lại quên, chỉ lo chạy theo những h́nh tướng giả dối cho là thật và khi nó bại hoại th́ đau khổ. Thử hỏi mọi người chúng ta buồn khổ khi thân này sắp tan hoại, hay buồn khổ khi chúng ta quên thân quay về sống với tâm thể chân thật ? Có lúc nào chúng ta tự than trách: Sao mấy hôm rồi tôi cứ để tâm chạy đông chạy tây, hay chỉ than: thân này đau đủ thứ chẳng biết có qua khỏi không ? Cái tâm chân thật là quí mà bị bỏ quên để chạy theo những thứ giả dối bên ngoài, lư đáng phải buồn nhiều lắm! Cái thân hư dối tạm bợ mất đi lư đáng phải vui mừng. Giống như người giàu, có hột xoàn, có vàng bị mất cắp th́ buồn, ngược lại có vài ba cục sỏi, cục đất bị mất th́ đâu có buồn tiếc. Nói như thế để thấy chúng ta mê muội chỉ biết quí cái thân hư giả tạm bợ, mà xem thường cái tâm chân thật quí báu của ḿnh, do đó mà bị trầm luân sanh tử. V́ vậy ngài Chân Nguyên nhắc chúng ta không nên lo lắng sự tan hoại của sắc thân, mà quên mất Pháp thân chân thật sẵn có nơi ḿnh. Ngài cố giải thích cho chúng ta nhận ra rằng Pháp thân chân thật vốn thường trụ rỗng lặng, không dấu vết, mà diệu dụng vô cùng. Chúng ta không nên lo lắng cho cái thân này quá lắm, mà hăy khéo trở về sống với Pháp thân chân thật của ḿnh. Muốn thế, hồ tâm chúng ta phải lóng lặng hết những bợn nhơ tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến... chúng ta mới sống được với Pháp thân chân thật của ḿnh. Vậy, chúng ta có chịu gạn lọc những bợn nhơ đó bỏ đi, hay để dành rồi chịu nhơ chịu khổ suốt kiếp ? Chúng ta phải dùng trí tuệ quán xét coi cái nào là bợn nhơ của tâm th́ loại bỏ, để hồ tâm chúng ta được trong sạch, hồ tâm trong sạch th́ Pháp thân hiện tiền. Như vậy chúng ta có can đảm tự hứa với ḷng là học Phật pháp trong ṿng một năm sẽ lọc bỏ hết những bợn nhơ tham sân si... không ? - Dạ không dám hứa. Tại sao biết những thứ đó là dở là tai hại mà không dám hứa bỏ ? Đó là một điều khó khăn mà người tu Phật thường vấp phải. Chúng ta học Phật pháp thật nhiều mà lâu lâu tập khí phàm phu cũng hiện ra là tại sao ? Tại hiểu mà không hành, hoặc hành mà không chuyên. Cho nên trong nhà Thiền có câu “Hạnh giải tương ưng danh vi viết Tổ” nghĩa là hiểu và hành giống nhau th́ gọi là Tổ. C̣n chúng ta hiểu và hành không giống nhau nên gọi là phàm phu. Nên nhớ tu không phải là chuyện huyền hoặc trên trời trên mây, mà là chuyện thực tế nơi ḿnh, chỉ chịu khó lọc bỏ bợn nhơ nơi tâm th́ Pháp thân hiện tiền, cũng như hồ nước trong th́ bóng trăng hiện. Tất cả kiểm lại xem trong tâm chúng ta có những niệm tham sân si... không ? Chúng ta có quyền đuổi nó ra hay không ? - Có đủ thẩm quyền đuổi nó ra tại sao không đuổi ? Điều đó thật là khó hiểu ! Chúng ta biết ḿnh có những điều dở, ḿnh bỏ những điều dở đó th́ ai cũng khen, thế mà không chịu bỏ, thật là mâu thuẩn, thật là lạ lùng ! Chúng ta thường có cái bệnh nói một đàng làm một nẻo, lạy Phật th́ xin cho con đời này hết phiền năo, nhưng biết tham sân si là phiền năo,là độc hại mà không chịu bỏ ! Chủ yếu của việc tu hành là phải sáng suốt gan dạ và dứt khoát, nếu không th́ tu cả đời vẫn y nguyên chẳng tiến bộ ǵ cả.

Nghĩa Niết-bàn tức là Pháp tánh của chư Phật, chẳng sanh chẳng diệt, nên nói Niết-bàn không đi không đến, gọi là Pháp thân Như Lai thường trụ, trong suốt rỗng lặng, không dấu vết, không tạo tác, không uống ăn, không tóc da.

Ngài Chân Nguyên nói trắng ra hết, không giấu giếm ǵ cả. Nói Niết-bàn là Pháp tánh của chư Phật, Niết-bàn không đến đi gọi là Pháp thân Như Lai thường trụ không dấu vết, không tạo tác, không ăn uống, không tóc da v.v... Nghe nói không ăn uống, không tóc da, có người sẽ nghĩ rằng tu chứng được Pháp thân chắc buồn lắm, chắc hết ăn hết mặc. V́ sắc thân có h́nh tướng th́ ăn ngon mặc đẹp, c̣n Pháp thân không h́nh tướng, không tóc da, không miệng lưỡi lấy ǵ ăn mặc ? Vậy theo quan niệm thế gian chứng được Pháp thân th́ buồn lắm. Nhưng chúng ta phải xét lại, tất cả những thứ chúng ta đang thụ hưởng là thật hay tạm bợ ? Như ăn ngon, lúc mới ăn th́ có cảm giác thơm ngon, nhưng khi trả nó ra th́ thúi rùm ai cũng muốn lánh xa, như vậy có ngon thật, có giá trị thật không ? Thân này cũng thế, bây giờ c̣n trẻ th́ tóc xanh da mướt, đến khi già nua th́ tóc bạc da nhăn, đâu c̣n đẹp đẽ ǵ ! Như vậy, cái thân có tóc có da hiện giờ của chúng ta hưởng thụ đủ mọi thứ sung sướng là tạm bợ không thật, nếu chúng ta sống được với Pháp thân mà ở đây ngài Chân Nguyên nói không ăn uống, không tóc da, nhưng trùm khắp và ứng hiện diệu dụng không lường th́ quí giá vô cùng mà chúng ta lại quên.

Thân Như Lai tức là Pháp thân, rỗng lặng, linh thông, chân không tự tại, chẳng phải từ máu thịt, xương tủy làm thành. Nên biết, Phật tánh tṛn đồng thái hư, không thiếu không dư, chân không diệu hữu, không sanh không diệt, không đi không đến, chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, ba đời đều b́nh đẳng, một thể rỗng rang, suốt tột xưa nay, vẫn hằng như vậy. V́ thế gọi đó là thường trụ chẳng đổi.

Thân Như Lai là thể thanh tịnh không tướng mạo, nên không phải do máu thịt xương tủy làm thành, không do vật chất làm thành nên rỗng lặng linh thông, chân không tự tại. Ngài nói thế, mới nghe qua chúng ta thấy quá lạ lùng, nhưng lại là sự thật. Tôi dẫn chuyện thực tế cho dễ hiểu, khi tâm chúng ta dấy niệm lăng xăng th́ lúc đó cảm thấy căng đầu khó chịu, vậy lúc đó khổ hay vui ? C̣n những khi tâm thanh tịnh trong sáng, không có một niệm dấy động th́ thảnh thơi nhẹ nhàng, lúc đó vui hay khổ ? - Khi tâm thanh tịnh th́ rỗng rang nhẹ nhàng, khi tâm rối rắm th́ căng đầu khó chịu, đó là hai hiện tượng trái ngược nhau của Pháp thân và Hóa thân. Pháp thân th́ do tâm thanh tịnh, thể nhập với cái thể trong sáng, cho nên thảnh thơi an lạc. C̣n Hóa thân th́ do nghiệp tạo thành, mà niệm lăng xăng là gốc tạo nghiệp của Hóa thân hay thân sanh diệt. Cho nên nh́n nội tâm ḿnh th́ biết rơ lúc nào khổ lúc nào an lạc, rất thực tế chớ không phải chuyện tưởng tượng xa xôi. Vậy th́ niệm khởi lăng xăng là cái nhân tạo nghiệp để thọ thân đi trong sanh tử khổ đau. Tất cả niệm lăng xăng lóng lặng, chỉ c̣n cái biết thanh tịnh trong sáng hiện tiền, đó là cái nhân thể hiện Niết-bàn an lạc. Chúng ta nh́n cái nhân th́ biết ngay cái quả, hay nh́n cái quả biết ngay cái nhân. Cho nên nh́n gương mặt người nào vui tươi thoải mái th́ chúng ta biết đó là cái quả của cái nhân thanh tịnh an lạc ở nội tâm. V́ vậy nên nói khi chứng được Pháp thân th́ được an lạc tự tại không c̣n đau khổ nữa.

Đến đây Ngài nói thể chân thật đó là chân không mà diệu hữu, chân không là chân thật rỗng lặng, diệu hữu là có những diệu dụng nhiệm mầu, hay nói khác đi cái thể rỗng lặng mà tùy duyên ứng hiện ra tất cả, thể rỗng lặng th́ không có những niệm sanh diệt gọi là chân không, diệu dụng nhiệm mầu ứng hiện tất cả gọi là diệu hữu. Cái thể đó không kẹt trong ṿng đối đăi, ba đời b́nh đẳng, suốt tột xưa nay, hằng như vậy, nên nói là thường trụ chẳng đổi, Người đạt đến chỗ này mới thật sự giải thoát.

Chân thân của Như Lai vốn không sắc tướng, tùy thuận chúng sanh mà thị hiện sắc tướng. Pháp thân Như Lai vốn không có Niết-bàn, tùy thuận chúng sanh mà thị hiện Niết-bàn. Việc ứng duyên đă xong th́ bỏ thân hoa đốm trong không, như con ve lột xác, như con rắn lột da, quay về căn mệnh, trở lại cội nguồn, lặng lẽ không tiếng tăm, mé chân thật trong trẻo tṛn đầy, rành rành soi khắp, đối ngay trước mắt, ẩn hiện cùng bày, sắc không chẳng hai.

Ngài nói chân thân Phật vốn không có sắc tướng, mà Phật thị hiện sắc tướng để làm lợi ích cho chúng sanh, Pháp thân Phật th́ không có Niết-bàn mà Phật thị hiện tám mươi tuổi nhập Niết-bàn. Đoạn này ngài Chân Nguyên đưa ra hai h́nh ảnh hơi khó hiểu. Nói rằng: Việc ứng duyên đă xong th́ bỏ thân hoa đốm trong hư không, như con ve lột xác, như con rắn lột da. Nghĩa là việc ứng duyên của đức Phật đă xong, Ngài xả bỏ Ứng Hóa thân nhập Niết-bàn, tức là trở về với cái thể chân thật. Giống như các lượn sóng lặn xuống trở thành một với mặt biển thênh thang, ở đây Ngài ví dụ như con ve lột xác, như con rắn lột da nghe hơi khó hiểu. V́ con ve lột xác th́ nó đổi qua h́nh tướng khác, con rắn lột da này rồi có da kia, vẫn c̣n mang sắc tướng tạm bợ, chớ không trở về thể chân thật. Chỗ này có thể nói Phật bỏ Ứng thân như bỏ những lượn sóng trên mặt biển để trở về mặt biển thênh thang yên lặng, sóng lặng th́ mặt biển yên, mặt biển yên th́ không hai, mà sóng nổi dậy th́ nhiều. Sóng dụ cho Ứng Hóa thân, mặt biển dụ cho Pháp thân, nếu nói như con ve con rắn th́ hơi kẹt. Bỏ Ứng thân th́ trở về căn mệnh tức là cội nguồn của sự sống, tức là nguồn gốc chân thật của chính ḿnh. Tới chỗ này th́ ẩn hiện không hai, sắc không không hai, vượt tất cả sự đối đăi.

Do v́ quần sanh ở mười phương thế giới, trên trời dưới đất, h́nh loại đều khác, ngôn ngữ chẳng đồng mà Như Lai đại bi dùng thần lực hóa thân, tùy loại thị hiện, tùy h́nh tướng, tùy ngôn ngữ, tùy âm thanh của chúng, mở rộng phương tiện để thuyết pháp giáo hóa, khiến cho họ sáng tỏ bản tánh, mỗi loài đều được giải thoát.

Đoạn này nói rằng sở dĩ đức Phật thị hiện ra đời, đi tu thành Phật, thuyết pháp độ sanh là v́ ḷng đại bi Ngài hóa hiện, tùy loài chúng sanh mà độ, chủ yếu để họ nhận ra bản tâm bản tánh của ḿnh. Ư này trong kinh Pháp Hoa cũng có nói: Chư Phật ra đời v́ một đại sự nhân duyên là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Đó là mục đích chung của tất cả chư Phật.

Thật là thân Như Lai th́ trong suốt rỗng lặng. Nên nói, chẳng thấy có không tức thấy chân thân Phật. Đối với chân thân Phật th́ trọn chẳng thể được. Chỉ cái tin tức ấy, ba đời chư Phật nói chẳng kịp, nhiều đời Tổ sư truyền chẳng đến. Đă nói chẳng kịp, lại truyền chẳng đến, th́ Thích Ca, Di Lặc cũng là tên suông. Thích Ca, Di Lặc đă là tên suông, gọi cái ǵ là chủ ? Gọi cái ǵ là khách ? Gọi cái ǵ là tông ? Gọi cái ǵ là chỉ ? Gọi cái ǵ là sanh tử ? Gọi cái ǵ là Niết-bàn ? Gọi cái ǵ là xưa ? Gọi cái ǵ là nay ? Đă không sanh lại không diệt, trước không xưa, sau không nay, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, trong trẽo rỗng lặng, tṛn đồng với thái hư, thân vốn là Phật, vẫn hằng như vậy.

Thân Như Lai th́ trong suốt rỗng lặng, nên nói chẳng thấy có không th́ chân thân Phật hiện tiền. Chúng ta tu nếu không khởi niệm chấp có chấp không, chấp phải chấp quấy, chấp hơn chấp thua th́ ông Phật thật nơi ḿnh hiện ra. Nếu chúng ta nh́n người khởi niệm phân biệt hơn thua, phải quấy, có không th́ Phật thật nơi ḿnh ẩn mất, chừng nào lặng hết những niệm phân biệt đó th́ Phật hiện. Tu Thiền là ǵ ? Là lặng tâm phân biệt đối đăi để Phật chân thật nơi ḿnh hiện. Đó là gốc của sự tu. Đoạn này nói nghe hơi khó hiểu. Nói rằng: Nên nói chẳng thấy có không tức thấy chân thân Phật. Nói như vậy th́ cái nhà chúng ta thấy có, khoảng hư không trống chúng ta thấy không. Bây giờ chúng ta không muốn thấy có thấy không nhắm mắt lại là thấy chân thân Phật phải không ? - Thấy tối mịt chớ không thấy chân thân Phật đâu ! Đây nói chẳng thấy có không là chẳng chấp có chẳng chấp không, chấp cái này là thật có chấp cái kia là thật không; chấp có chấp không là đại diện cho tất cả cái chấp hai bên. Khi xưa Huệ Minh nói với Lục Tổ là ông đến để cầu pháp chớ không phải cầu y bát. Lục Tổ hỏi: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng toạ Minh ?”. Ngay đó Huệ Minh ngộ. Không nghĩ thiện không nghĩ ác là không khởi niệm thấy có thấy không chớ ǵ ? Ngay đó bản lai diện mục hay chân thân Phật của Thượng tọa Minh hiện tiền. Dễ như trở bàn tay ! Song, nếu t́m kiếm th́ khó trăm phần, trèo non lội biển t́m cũng không ra. Dễ th́ dễ như trở bàn tay, chỉ đừng mắc kẹt hai bên có không, thiện ác th́ chân thân Phật hiện sờ sờ. Vậy chúng ta có chịu buông cái chấp có chấp không không ? V́ không chịu buông nên than tu khó quá ! Chuyện này là chuyện trong khả năng của ḿnh, ḿnh làm được. Thử hỏi chấp có chấp không nghĩ thiện nghĩ ác là ai chấp ai nghĩ ? - Ḿnh chấp ḿnh nghĩ. Bây giờ ḿnh có quyền dừng, không chấp không nghĩ nữa, tại sao không chịu làm lại than khó ? Xét kỹ coi Phật dạy làm việc này có vượt ngoài sức ḿnh không ? Cái ǵ ngoài sức ḿnh, ḿnh vói không tới mới khó, việc làm trong khả năng trong quyền hạn của ḿnh th́ đâu có khó. Thế nên nói tu thành Phật dễ như trở bàn tay. Phật dạy làm như thế là thành Phật mà không chịu làm, vậy mà đ̣i thành Phật !

Tất cả những thú vui của thiên hạ đều nằm trong đối đăi hơn thua được mất, nó rất hấp dẫn làm cho con người thích thú say mê. Như người thích bóng đá là theo dơi đội nào ăn đội nào thua, say mê đến quên ăn bỏ ngủ. Nếu không thích hơn thua là ăn ngủ b́nh thường, v́ đó chỉ là tṛ chơi, ăn hay thua rồi cũng vậy thôi đâu có ǵ quan trọng. Tại đặt hơn thua là quan trọng nên mới khổ, người thua đă khổ, mà người hơn cũng khổ, c̣n người theo dơi hơn thua cũng khổ lây. Ở đời có lắm người tự trói ḿnh vào những chuyện hơn thua vô lư. Như đi đường gặp hai người đánh lộn, đứng lại xem coi ai hơn ai thua, chắc chắn là một người hơn một người thua, người thua đă khổ, người hơn có sướng ǵ ? Đánh lộn th́ kẻ u đầu người sứt trán, có ai tránh khỏi họa khổ. Thế mà hơn thua làm cho người trong cuộc và người ngoài cuộc đều thích thú. Phật dạy chúng ta xả bỏ hơn thua th́ được an ổn thảnh thơi. Như vậy chỉ cần bỏ hai niệm hơn thua đối đăi th́ chân thân Phật hiện tiền. Thế mà chúng ta không chịu bỏ, không dính bên này cũng kẹt bên kia, nên làm phàm phu măi, lỗi đó tại ai ? Tại ḿnh biết mà không chịu bỏ. Việc ḿnh làm được mà không chịu làm là do ḿnh. Do đó tôi bắt mỗi đêm phải sám hối cho hết lỗi.

Ở đây ngài Chân Nguyên nói Phật Thích Ca, Phật Di Lặc chỉ là giả danh của thân ứng hóa, c̣n Pháp thân th́ tự nó không có tên. Pháp thân chư Phật với Pháp thân của chúng sanh th́ đồng một thể trong sáng hằng giác tri, chỉ khác là chúng sanh mê th́ quên, giác th́ nhớ là Phật. C̣n tên Phật Thích Ca hay Phật Di Lặc là tên khác của cái thể. Cái thể không khác th́ ai chủ, ai khách, cái ǵ là sanh tử cái ǵ là Niết-bàn ? Nó không bị thời gian chi phối th́ đâu có trước sau xưa nay.

Thân Phật như vậy, thân ta cũng như vậy, ngay khi độ chúng sanh mà dứt trừ tưởng độ, xoay lại tâm vô vi hướng đến đường Niết-bàn, bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có, một tánh tṛn sáng, c̣n măi với trời đất, bản tánh trong lặng, ngang bằng với Phật, rốt ráo viên dung, đồng vào một thể.

Phật có cái thể chân thật, chúng ta cũng có cái thể chân thật, Phật thành Phật là Ngài ngộ được cái thể chân thật nơi Ngài, chúng ta th́ chưa ngộ. Nếu chúng ta ngộ được thể chân thật nơi chúng ta th́ sẽ ngang bằng với Phật, không khác không hơn không kém. Phật là bậc Vô thượng Giác; Vô thượng là không trên, nhưng ai ngộ tới đó th́ cũng bằng Ngài, chớ không phải Ngài là tối thượng. V́ vậy mà ở đây nói rất rơ, ai cũng có thể tánh rốt ráo ngang bằng với Phật, không ai kém, chỉ có biết trở về và không trở về mà thôi.

            Pháp tánh Như Lai không một vật,

            Ứng độ quần sanh việc cả trăm.

            Nếu ngộ chân không, luôn đối mặt,

            Như Lai thường trụ ở Linh Sơn.

Âm :

            Pháp tánh Như Lai vô nhất vật,

            Ứng độ quần sanh hữu bách ban.

            Nhược ngộ chân không hằng địch diện,

            Như lai thường trụ tại Linh Sơn.

Pháp tánh Như Lai không một vật, ứng độ quần sanh việc cả trăm. Pháp tánh Như lai không tướng mạo nên nói không có một vật. Tuy không một vật mà khi ứng hiện để độ sanh th́ hiện cả trăm thứ. Không một vật là chân không, ứng hiện cả trăm ngàn thứ là diệu hữu, chớ chẳng phải không một vật là không ngơ.

Nếu ngộ chân không, luôn đối mặt, Như Lai thường trụ ở Linh Sơn. Nếu người nào ngộ được xưa nay không một vật (chân không) th́ Pháp tánh luôn luôn hiện tiền, hay nói cách khác là Như Lai thường ở tại hội Linh Sơn không bao giờ nhập diệt, không bao giờ thiếu vắng.

Khiến người người xuất gia theo Phật, lư nên chọn bạn t́m thầy, nếu không thầy bạn, lấy ǵ tiếp dẫn ? Xem kinh mà mê mờ lư th́ luống tự nhọc nhằn, đếm chữ t́m hàng th́ chẳng rơ tông chỉ. Chẳng rơ tông chỉ th́ chẳng cùng tột văn lư, chẳng cùng tột văn lư th́ đâu thể giải thoát !

Ngài nói người xuất gia học đạo nên chọn bạn t́m thầy, nếu tu mà không có thầy sáng bạn lành th́ ai hướng dẫn nhắc nhở ḿnh tu, đó là điều rất quan trọng. Chúng ta đi tu là bỏ hết những cái vui thế gian để t́m đạo tu hành hay nói  cách  khác là đi t́m chân lư. Muốn t́m chân lư th́ phải có thầy sáng bạn lành, nghĩa là vị thầy phải sáng đạo mới hướng dẫn dạy bảo chúng ta tu, ở đây ngài Chân Nguyên gọi là tiếp dẫn. Như vậy người tu mà không thầy hướng dẫn, tự xem kinh th́ không hiểu lư kinh, cứ ṃ mẫm trên văn tự chữ nghĩa th́ không bao giờ rơ tông chỉ thấu suốt lư đạo, không đạt lư đạo th́ làm sao giải thoát ? Đây là điều thiết yếu vô cùng, cho nên chúng ta phải chọn bậc thầy sáng để hướng dẫn ḿnh tu đúng chánh pháp, phải chọn bạn lành để trợ duyên tốt cho đường tu ḿnh được thăng tiến. Khi tu chúng ta đọc kinh để ứng dụng lời Phật dạy tu hành, nếu không hiểu lại không có thầy giản trạch cho thông, th́ làm sao thấu suốt được nghĩa lư sâu xa của Phật pháp ? Như tôi ngày xưa đọc kinh Kim Cang, đến đoạn ngài Tu-bồ-đề hỏi Phật làm sao an trụ tâm, làm sao hàng phục tâm. Phật dạy muốn hàng phục tâm th́ phải độ tất cả chúng sanh từ loài hữu sắc vô sắc, hữu tưởng vô tưởng, cho đến phi hữu tưởng phi vô tưởng vào vô dư y Niết-bàn. Tôi lắc đầu tự than Phật bảo độ chừng năm bảy chục người th́ khả dĩ làm được, c̣n bảo độ hết tất cả các loài trên vào vô dư y Niết-bàn, th́ không biết chừng nào ḿnh độ được, chừng nào mới hàng phục được tâm. V́ nếu như loài hữu sắc th́ chẳng phải hạn cuộc nơi con người mà cả con ḅ, con chó, con heo, con trâu v.v... như vậy chừng nào độ hết ? Nếu không độ hết th́ chưa hàng phục tâm, mà không hàng phục tâm th́ coi như chưa tu. Vậy làm sao tu theo lời Phật dạy trong kinh ? Như thế kinh Đại thừa chỉ để trên trang thờ, không thể ứng dụng được. Khi chuyển qua tu Thiền, tôi mới thông đoạn kinh này. Tâm chúng ta có hàng trăm ư nghĩ tốt xấu lẫn lộn, thế nên mỗi một ư nghĩ dấy lên là một chúng sanh, nghĩ về người hay vật đó là chúng sanh hữu sắc, nghĩ về những thứ không h́nh tướng như điện hoặc hư không đó là chúng sanh vô sắc. Nghĩ đến con người có tưởng là chúng sanh có tưởng, nghĩ buông hết vọng tưởng, rồi buông hết những tâm tưởng đó là chúng sanh vô tưởng. Những ư nghĩ của chúng ta dấy lên không ngoài hữu sắc vô sắc, hữu tưởng vô tưởng v.v... Phật dạy chúng ta muốn hàng phục tâm là độ tất cả chúng sanh vào vô dư y Niết-bàn, mà không thấy có chúng sanh được diệt độ. Nghĩa là tâm chúng ta dấy lên những ư niệm ta biết nó là vọng niệm, th́ nó lặng mất không c̣n tăm dạng đó là đưa chúng sanh vào vô dư y Niết-bàn và hàng phục được tâm. Như vậy, Phật dạy quá rơ ràng không có ǵ lạ hết, chỉ cần chúng ta hiểu được lư kinh th́ biết ứng dụng tu. Nếu không hiểu lư kinh, chỉ hiểu theo chữ nghĩa th́ làm sao tu ? Không tu được th́ làm sao giác ngộ giải thoát ? Sau đây Ngài dẫn thêm mấy bài kệ để cho chúng ta rơ thêm ư này:

            Học đạo không tông chỉ,

            Thấy nhiều chẳng bằng mù.

            T́m sáng chẳng biết báu,

            Luống nhọc tṛng mắt ḿnh.

Âm :

            Học đạo vô tông chỉ,

            Đa kiến bất như manh.

            Tầm quang bất thức bảo,

            Đồ lao tự nhăn t́nh.

Học đạo không tông chỉ, thấy nhiều chẳng bằng mù. Nghĩa là người học đạo nếu không nắm được tông chỉ, tức là không nắm được đường lối cội nguồn của đạo, th́ dù cho có đọc nhiều sách, nhiều kinh cũng không bằng người mù, tức là người ít học mà họ nắm được tông chỉ của kinh.

T́m sáng chẳng biết báu, luống nhọc tṛng mắt ḿnh. T́m ánh sáng của ngọc mà không biết cái quí báu của nó, luống nhọc nhằn tṛng mắt mà thôi. Ví dụ chúng ta nghe nói ngọc có ánh sáng, chúng ta thấy chỗ nào có ánh sáng là t́m, nhưng nh́n vào ánh đèn sáng chúng ta t́m được ngọc không ? Luống nhọc mắt mà không thấy ngọc. Như vậy muốn t́m ngọc phải biết h́nh dáng chỗ nơi của ngọc, th́ mới t́m được ngọc chớ không phải chỉ biết có ánh sáng là t́m được. Cũng thế người học đạo phải nắm được tông chỉ của đạo th́ tu mới có kết quả, nếu không th́ luống phí công phu mà không có kết quả ǵ.

            Cửa không chẳng chịu ra,

            Quá ngu chui cửa sổ.

            Giấy cũ trăm năm dùi,

            Bao giờ được ra khỏi.

Âm :

            Không môn bất khẳng xuất,

            Đầu song dă thái si.

            Bách niên tán cổ chỉ,

            Hà nhật xuất đầu th́ ?

 

Bài kệ này nguyên là của Thiền sư Thần Tán. Ngài là đệ tử cầu pháp của Tổ Bá Trượng Hoài Hải. Nhờ Tổ Bá Trượng khai thị Ngài ngộ lư Thiền. Sau Bổn sư của Ngài già không ai săn sóc, Ngài trở về chùa cũ hầu hạ Thầy. Một hôm Bổn sư tắm sai Ngài kỳ đất, Ngài bèn vỗ vào lưng của Thầy nói:

- Điện Phật đẹp mà Phật chẳng Thánh.

Vị Bổn sư xoay đầu ngó lại. Ngài nói tiếp:

- Phật tuy chẳng Thánh vẫn hay phóng quang.

Lại một hôm, Bổn sư ngồi trong cửa sổ xem kinh, v́ tuổi già sợ cảm nên lấy giấy dán kính cửa sổ cho khỏi gió, có con ong chui đầu vào tấm giấy t́m lối ra, Ngài trông thấy thế liền nói:

- Thế giới thênh thang mà chẳng chịu ra, dùi đầu vào giấy cũ biết năm nào ra được ?

Ngài liền nói bài kệ:

Cửa không chẳng chịu ra, quá ngu chui cửa sổ. Ư muốn nói thể chân không rỗng rang mà không chịu hội nhập, cứ vùi đầu vào cửa sổ tức vùi đầu vào giấy để xem kinh.

Giấy cũ trăm năm dùi, ngày nào được ra khỏi. Vị thầy đang xem kinh, mà kinh th́ viết trên giấy, Ngài lợi dụng con ong chui vào giấy nói bài kệ trên. Vị Bổn sư nghe qua để kinh xuống hỏi:

- Ngươi đi hành cước gặp người nào, ta trước sau nghe ngươi nói lời dị thường ?

Ngài thưa:

- Con nhờ ơn Ḥa thượng Bá Trượng chỉ dạy được chỗ thôi dứt, nay muốn đáp lại đức từ bi. (tức là muốn đáp ơn Thầy)

Bổn sư bèn nhóm chúng, thỉnh Ngài nói pháp. Ngài lên ṭa nêu cao tông phong của Bá Trượng:

- Linh quang riêng chiếu vượt khỏi căn trần, bày hiện chơn thường chẳng câu nệ văn tự. Tâm tánh không nhiễm vốn tự viên thành, chỉ ĺa vọng duyên tức như như Phật.

Bổn sư nghe câu này liền cảm ngộ. Như vậy là ngài Thần Tán đă đền ơn vị Bổn sư của ḿnh.

Qua bài kệ và câu chuyện ngài Thần Tán, chúng ta thấy rằng nếu không nhận ra được yếu chỉ của đạo, dù có đọc hết kinh sách vẫn không đi tới đâu, ví như con ong chui đầu vào giấy mà không bay qua được khỏi cửa sổ để ra ngoài với bầu trời thênh thang rộng lớn.

            Người nay học đạo chẳng rơ chân,

            Chỉ bởi từ lâu nhận thức thần.

           

            Vô lượng kiếp rồi gốc sanh tử,

            Kẻ si gọi đó bổn lai nhân.

Âm :

            Học đạo chi nhân bất thức chân,

            Chỉ vị tùng tiền nhận thức thần.

            Vô lượng kiếp lai sanh tử chủng,

            Si nhân hoán tác bổn lai nhân.

Bài kệ này của Thiền sư Trường Sa Cảnh Sầm. Người nay học đạo chẳng rơ chân, chỉ bởi từ lâu nhận thức thần. Nghĩa là người thời nay học đạo mà không thấu suốt được lẽ chân thật là do nhận lầm thần thức sanh diệt, cái đó người thế gian cho là linh hồn là bản ngă. Do nhận lầm như vậy nên:

Vô lượng kiếp rồi gốc sanh tử, kẻ si gọi đó bổn lai nhân. Do nhận lầm thức thần cho là bản thể xưa nay của ḿnh, nên phải chịu luân hồi sanh tử trong vô lượng kiếp.

Do đó người tu phải nhận ra cái chân thật của chính ḿnh là cốt yếu.

            Có pháp có tâm c̣n vọng thức,

            Không cầu không được chứng chân như.

            Chân vọng hai đầu đều phá sạch,

            Một luồng sáng lạnh rực thái hư.

Âm :

            Hữu pháp hữu tâm tồn vọng thức,

            Vô cầu vô đắc chứng chân như.

            Chân vọng lưỡng đầu câu đả phá,

            Nhất đạo hàn quang thước thái hư.

Có pháp có tâm c̣n vọng thức, không cầu không được chứng chân như. Có pháp có tâm nghĩa là c̣n thấy hai bên, phân biệt đây là tâm kia là pháp là c̣n sống với vọng thức, không cầu không được nhưng chứng được Chân như, v́ thể thanh tịnh sẵn nơi mọi người, đâu phải từ bên ngoài đến mà cầu mà được. Không cầu không được, chỉ cần sống với tâm thể thanh tịnh là chứng  Chân như.

Chân vọng hai đầu đều phá sạch, một luồng sáng lạnh rực thái hư. Buông cả chân và vọng th́ chỉ c̣n một thể thanh tịnh sáng suốt trùm khắp bầu trời. Nghĩa là khi mê niệm khởi là vọng tưởng, khi chúng ta tỉnh giác vọng tưởng lặng đó là Chân tâm. Nhưng nếu c̣n nói vọng nói chân th́ cũng c̣n kẹt hai bên, kẹt hai bên th́ không đạt đến chỗ chân thật. Cho nên người tu phải dứt sạch hai bên th́ mới đến được chỗ tột cùng chân thật.

Cho nên kinh Bát-nhă nói: “Không trí cũng không đắc; do v́ không chỗ được”. Nếu trí vô phân biệt th́ làm hại cái thấy có thấy không. Trí vô phân biệt th́ trọn chẳng thể được. Tại sao không thể dùng trí đoạn trí ? Chẳng thể dùng kiếm lại chặt kiếm.

Hội rằng:

Kiếm tự hại kiếm, kiếm kiếm hại nhau, tức kiếm cũng chẳng thể được. Trí tự hại trí, trí trí hại nhau, tức trí cũng chẳng thể được. Mẹ con đều mất, cũng lại như thế.

Cho nên kinh Bát-nhă nói: “Không trí cũng không đắc; do v́ không chỗ được”. Đoạn này Ngài dẫn kinh Bát-nhă “Vô trí diệc vô đắc” nghĩa là không trí cũng không được. Tại sao nói không trí cũng không được; do v́ không chỗ được. Ví dụ trong túi chúng ta sẵn tiền, nếu cần mua thứ ǵ chúng ta đưa tay vào túi lấy tiền ra trả. Như vậy nói tôi được tiền có đúng không ? Nếu ḿnh đi đường lượm được tiền hoặc có ai đem đến cho th́ nói được là đúng. Cũng thế, trí tuệ Bát-nhă hay Căn bản trí nơi mỗi người sẵn có, chẳng phải từ bên ngoài được, nên nói không trí cũng không đắc. Nếu c̣n thấy có trí có đắc tức c̣n năng c̣n sở, năng là người, sở là cảnh th́ chưa đạt tới chỗ cứu cánh.

Nếu trí vô phân biệt th́ làm hại cái thấy có thấy không. Chúng ta có hai thứ trí, trí phân biệt và trí vô phân biệt. Trí phân biệt là trí thế gian, phân biệt cái này đẹp cái kia xấu, trí vô phân biệt là biết rơ mà không có niệm phân chia đẹp xấu, hơn thua, trí này không chấp nhận trí phân biệt có không đẹïp xấu, nên nói trí vô phân biệt làm hại cái thấy có không.

Trí vô phân biệt th́ trọn chẳng thể được. Trí vô phân biệt th́ không c̣n cái được, v́ c̣n có được là c̣n năng c̣n sở. C̣n năng sở là c̣n đối đăi, mà trí Bát-nhă th́ vượt ngoài đối đăi nên kinh nói vô trí diệc vô đắc.

Tại sao không thể dùng trí đoạn trí ? Câu này đặt nghi vấn tại sao không thể dùng trí vô phân biệt để đoạn trí phân biệt ?

Chẳng thể dùng kiếm lại chặt kiếm. Câu này trả lời là không thể dùng kiếm để chặt kiếm. Trí là tượng trưng cho cây kiếm, trí không thể đoạn trí cũng như kiếm không thể tự chặt cây kiếm. Như vậy muốn đoạn trí phân biệt có không tốt xấu, chỉ cần biết nó là hư vọng giả dối th́ nó lặng xuống chớ không cần dứt trừ hay dẹp bỏ. Mọi người ai cũng có trí vô phân biệt, buông trí phân biệt hay dở tốt xấu là trí vô phân biệt hiện tiền. Vô phân biệt mà rơ ràng thường biết, trí này ai cũng có cả, tại chúng ta quên nó, măi chạy theo trí phân biệt nên khổ cả đời.

Hội rằng: Kiếm tự hại kiếm, kiếm kiếm hại nhau, tức kiếm cũng chẳng thể được. Trí tự hại trí, trí trí hại nhau, tức trí cũng chẳng thể được. Mẹ con đều mất, cũng lại như thế. Đây giải thích rằng: Kiếm tự hại kiếm th́ chẳng c̣n cây kiếm, trí tự hại trí cũng không thể được. V́ không thể dùng trí này dẹp trí kia, tu đến chỗ này không c̣n dùng trí để dẹp trí mà cái trí dụng lặng th́ trí thể hiện tiền. Trí thể dụ cho mẹ, trí dụng tạm gọi là con, dụng hết th́ thể không c̣n tên gọi, v́ vậy nói “mẹ con đều mất”. Như khi chúng ta tu Thiền, vận dụng trí  giác để biết vọng tưởng hư dối. Vậy vọng tưởng là hư dối, trí biết vọng tưởng là cái ǵ ? Nó là cái dụng của trí. Dùng cái dụng của trí để biết vọng tưởng không theo, khi vọng tưởng hết th́ cái dụng của trí cũng không c̣n. Như chúng ta dùng cây kiếm để dẹp giặc, giặc yên rồi chúng ta không c̣n cầm kiếm ra giữa thiên hạ múa lăng xăng mà giặc hết th́ binh khí chống giặc cũng cất vô kho. Cũng vậy, khi vọng tưởng hết th́ cái dụng của trí cũng hết. Cái dụng hết th́ cái danh thể cũng không c̣n. Như nhân gió mà mặt biển dậy sóng, khi sóng dấy lên chúng ta nh́n thấy cả trăm ngàn lượn sóng, mỗi lượn sóng khác nhau, và có hai từ ngữ mặt biển và sóng rơ ràng. Khi gió dừng sóng lặng hết, th́ từ ngữ sóng không c̣n. Từ ngữ sóng không c̣n th́ từ ngữ mặt biển đối với từ ngữ sóng cũng không có, nhưng thể của mặt biển trước sau như một, song v́ có sóng nên chúng ta tạm phân biệt đây là sóng nhấp nhô, kia là mặt biển thênh thang. Nếu nói mặt biển là sóng th́ chúng ta lầm tưởng mặt biển có từng lượn như sóng, nhưng mặt biển thênh thang đâu có từng lượn như sóng. Thế nên không thể nói mặt biển là sóng. Nếu nói sóng khác với mặt biển cũng không được, v́ sóng lặng rồi th́ chỉ c̣n mặt biển.  Mặt biển bấy giờ không c̣n đối với sóng, chỉ là một mặt biển lặng lẽ thênh thang mà thôi. Cũng vậy khi trí dụng lặng th́ trí thể cũng không c̣n tên gọi. Mất là mất cái tên gọi chớ không phải mất cái thể. Nếu nói khi trí dụng biết vọng lặng rồi không c̣n ǵ hết là sai lầm.

Đây là chỗ nói rằng chỉ thẳng rốt ráo, chân như thật tế, hướng thượng vô niệm, thành Phật làm Tổ, chỉ ngại kẹt nơi tên nhơ. Sao vậy ? V́ chẳng ĺa tâm có.

Đây là chỗ mà chư Tổ chỉ thẳng để cho chúng ta nhận ra chân như thật tế và biết rơ chỗ hướng thượng để đạt đến vô niệm, nhưng chỉ ngại chúng ta kẹt nơi tên nhơ, v́ kẹt tên nhơ là chẳng ĺa tâm có. Tại sao gọi là tên nhơ ? Theo quan niệm người đời th́ những tên gọi ở thế gian như tên xoài, tên ổi... là tên nhơ, c̣n những tên như Bồ-tát,  Như

Lai... là sạch. Nhưng theo nhà Thiền th́ kẹt vào từ ngữ đối đăi là kẹt vào tên nhơ. Như trước tôi có nói  trí dụng hết th́ tên trí thể cũng không c̣n, nếu c̣n  tên thể, tên dụng cũng c̣n  tên nhơ, dù đó là một từ ngữ đẹp. V́ c̣n kẹt vào danh từ đối đăi th́ chưa nhận được chân lư. Hơn nữa cái tên là do người ta tưởng tượng đặt ra chớ không phải là lẽ thật. Như có người mang tên Bạch, chúng ta tưởng người đó da trắng, nhưng khi gặp mặt th́ người đó da vàng. Lại có người được thầy đặt tên là Trí Tuệ, mới nghe chúng ta tưởng người đó thông minh lắm, nhưng khi tiếp xúc chúng ta thấy người ấy ngu ngơ quá chừng. Đa số  chúng  ta  thường  mắc kẹt ở cái tên nên khi gặp sự thật th́ chán chường. Do đó người tu đến chỗ cứu cánh th́ không kẹt ở từ ngữ mà chỉ nhận ra cái thể thật để sống, đó là điều quan trọng.

Nếu t́nh phàm Thánh hết, năng sở đều lặng, một niệm chẳng sanh, thẳng đến địa vị Như Lai trong lặng nhiệm mầu, biển giác lặng lẽ, là đất Cực-lạc vậy.

Đoạn này nói nếu không c̣n niệm phàm Thánh th́ năng sở cũng không, niệm sanh diệt hết th́ thẳng đến địa vị Như Lai, biển giác trong lặng nhiệm mầu, là đất Cực-lạc. Cực-lạc này không phải cơi Cực-lạc ở phương Tây của đức Phật A Di Đà mà là tâm không c̣n một niệm đối đăi phàm Thánh, không một niệm sanh diệt. Cơi Cực-lạc ở phương Tây th́ đất toàn bằng vàng, hàng cây bằng ngọc, lưu ly, xa cừ, mă năo. Người ở cơi đó sáng đi hái hoa dạo chơi một ṿng giáp mười phương cơi Phật, trưa trở về ăn cơm. Cái vui của cơi đó là cái vui của người giàu, v́ có ăn ngon mặc đẹp, du lịch... rất hợp với sở thích của người thế gian, cái vui này c̣n trong ṿng năng sở, nghĩa là có khổ và mong hết khổ để được vui. Ví dụ như có người gánh một gánh đất nặng qua nội viện Ni, đang gánh nặng có người khác gánh giùm, đưa gánh cho người ta xong vai ḿnh nhẹ nhơm là cười liền. Đó là qua cái khổ rồi được cái vui. Lại, trong gia đ́nh chúng ta có người đi xa vắng khiến người trong nhà nhớ thương. Bỗng dưng người thân không báo trước mà trở về, mọi người rất vui mừng. Qua sự chia ly buồn khổ có sự gặp gỡ vui mừng, là cái vui c̣n trong ṿng đối đăi. Cực-lạc mà ngài Chân Nguyên nói ở đây là Cực-lạc vượt ra ngoài sự đối đăi khổ vui. Theo cái nh́n của đức Phật th́ tất cả cái vui trên thế gian là cái vui trá h́nh của sự đau khổ, chớ không phải cái vui chân thật. Cái vui chân thật là khi tâm chúng ta thanh tịnh không c̣n niệm đối đăi sanh diệt. Như chúng ta ngồi một giờ ngắm núi, ngắm hồ, ngắm mấy cây thông mà không có một niệm loáng thoáng. Vậy một giờ đó có vui không ? Vui, cái vui đó không lộ vẻ hí hửng hay cười x̣a mà nó rất nhẹ nhàng thanh tịnh. Đó là niềm vui chân thật khi tâm ḿnh hoàn toàn vắng bóng vọng niệm. Vui như thế th́ đi đâu ở đâu chúng ta cũng an nhàn tự tại. Sở dĩ chúng ta khổ là v́ tâm thường nghĩ đến sự được mất hơn thua; khi chúng ta nghĩ được mà bị mất th́ khổ, nếu được như ư th́ vui; nghĩ đến sự thành công mà bị thất bại th́ khổ, nếu thành công theo sự sắp đặt tính toán của ḿnh th́ vui; khổ vui thay nhau ngự trị, tâm ḿnh không lúc nào an ổn. Khi tâm chúng ta không c̣n vọng niệm được mất hơn thua dấy khởi, chừng đó mới có cái vui chân thật. Trong giáo lư Phật chia ra thọ khổ, thọ lạc, thọ không khổ không lạc và đức Phật cũng kết luận là tất cả thọ đều là khổ. Tại sao ? V́ tất cả thọ đều bị vô thường chi phối, cho nên cái vui cũng không lâu dài và hết vui rồi khổ, hết khổ lại vui. Như vậy chúng ta tu t́m Cực-lạc ở đâu ? Người tu Tịnh độ t́m Cực-lạc ở phương Tây, c̣n người tu Thiền t́m Cực-lạc ở tự tâm ḿnh. Tâm ḿnh hết niệm sanh diệt là Cực-lạc hiện tiền chớ không ở đâu xa. Nó ở trong tầm tay của mỗi người và mỗi chúng ta có đủ khả năng tự tạo cho ḿnh một thế giới Cực-lạc ở giữa cơi Ta bà này. Phải khẳng định như vậy, chúng ta mới mạnh dạn dứt khoát buông xả vọng tưởng. Có ư chí mạnh mẽ, cương quyết tu trong một thời gian là có kết quả tốt, c̣n nếu thả trôi qua ngày th́ tu không tới đâu hết. Tổ Qui Sơn có dạy: Phải phát chí cho quyết liệt, mở ḷng rỗng rang th́ việc làm nhất định thành công. Thế nên, người tu theo đạo Phật là người phải có ư chí quyết liệt, dù cho việc khó khăn thế mấy cũng làm cho kỳ được chớ không chịu thua.

Nên Cổ đức nói: Trên chẳng thấy có chư Phật, dưới chẳng thấy có chúng sanh, ngoài chẳng thấy có núi sông, đất đai, trong chẳng thấy có cái thấy nghe hiểu biết tốt xấu, dài ngắn, nhồi thành một mảnh, mỗi mỗi đưa ra, trọn không cái thấy khác.

V́ c̣n niệm đối đăi nên thấy trên là Phật dưới là chúng sanh, đây là tốt kia là xấu, là dài ngắn v.v... Như vậy là lúc nào chúng ta cũng sống trong đối đăi. Thế nên các bậc Cổ đức bảo buông hết đối đăi, nhồi thành một mảnh, chỉ c̣n thể thanh tịnh th́ trọn không có cái thấy hai thấy khác nữa.

Lư ấy vi diệu, sâu xa không ǵ trên, học giả tri âm th́ có thể thông suốt. Chỉ Phật với Phật mới hay xét tột, thật tướng các pháp đến chỗ rốt ráo, th́ văn tự cũng chẳng thể được, ngôn ngữ cũng chẳng thể được, thức pháp cũng chẳng thể được, đối đăi cũng chẳng thể được, bặt đường cơ quan nguy hiểm, cùng tột trí phân biệt bén nhạy, Bát-nhă cũng chẳng thể được, tịch chiếu cũng chẳng thể được, bèn chẳng phải vô sự sanh sự, liền là có cành vin cành.

Lư sâu xa vi diệu chỉ có người nào nhận được mới là thông suốt, chỉ Phật với Phật mới xét tột lư này, đến chỗ rốt ráo th́ tất cả đều chẳng được, không phải từ nơi vô sự sanh sự, có cành để vin cành. Bởi v́ đến chỗ này đối đăi trong ngoài đều dứt sạch nên nói là vô sự, nếu ở chỗ vô sự mà sanh hữu sự là có cành để vin cành. Vậy thế nào là vô sự ? Là khi chúng ta đi đứng nằm ngồi, thấy tất cả người vật, làm tất cả chuyện mà tâm không một niệm dính mắc đó là vô sự. Như chúng ta đang đẩy một xe đất là hữu sự hay vô sự ? - Vô sự không phải không làm ǵ hết, mà vô sự là làm tất cả việc mà không dính mắc. Chúng ta thử sống một ngày vô sự xem có nhẹ nhàng thảnh thơi không ? Một ngày tâm chúng ta không dính mắc với cái ǵ hết th́ mặt có nhăn nhó, có nặng đầu bóp trán không ? Nếu một ngày mà tâm chúng ta dính mắc với nhiều việc th́ tâm lúc vui lúc buồn, lúc thích thú vui cười, lúc chán nản nhăn nhó, đó là chúng ta đă bị những việc được mất hơn thua bên ngoài chi phối. Một ngày mà không dính mắc những thứ đó th́ một ngày nhẹ nhàng thảnh thơi. Như vậy lúc tâm chúng ta bặt hết niệm đối đăi, nếu có người hỏi là phàm hay là Thánh th́ nói sao ? - Lúc tâm bặt hết niệm đối đăi, nói phàm cũng trật, nói Thánh cũng không đúng luôn. C̣n nói phàm nói Thánh là c̣n phân biệt đối đăi, là c̣n khổ. Thế nên, tôi phải nói đi nói lại cho quí vị thấm nhuần lư này; v́ lư này thật vi diệu khó nói, gượng mà nói chớ không phải là cái có thể nói để cho người hiểu được. Lư này nếu không tu th́ không làm sao mà nhận ra, chỉ nói trên danh tự cho vui chớ không thể thấy biết được. Cho nên ở đây nói cùng tột trí phân biệt bén nhạy, Bát-nhă cũng chẳng thể được, tịch chiếu cũng chẳng thể được, bèn chẳng phải vô sự sanh sự, liền là có cành vin cành. Tới chỗ này không c̣n cái ǵ để dính mắc th́ đâu gọi có cành vin cành; v́ có cành cây mới đưa tay nắm bắt, nếu không có cành cây th́ nắm bắt cái ǵ ?

Đến như ba đời chư Phật, chánh pháp lưu hành, lần lượt truyền trao cho nhau: chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật, chẳng lập văn tự.

Ba đời chư Phật đem chánh pháp lưu hành ở đời, lần lượt truyền trao chỉ thẳng cho người nhận ra tánh Phật của ḿnh. Như vậy mục đích duy nhất của chư Phật là chỉ cho người Kiến tánh thành Phật. Nhưng kiến tánh là ǵ ? Là nhận ra nơi ḿnh có thể chân thật vượt ngoài đối đăi phân biệt hơn thua, phải quấy tốt xấu v.v... cái thể đó tạm đặt tên là Phật tánh, Chân như, Bồ-đề, Niết-bàn v.v... chớ không có tên thật, cho nên Lục Tổ nói: Ta có một vật không đầu không đuôi không tên không họ, đố các ông là vật ǵ ? Ngài Thần Hội đứng ra thưa: Là bản nguyên của chư Phật, là Phật tánh của Thần Hội. Tổ quở: Ta đă nói không tên không họ mà ông c̣n nói bản nguyên Phật tánh, như vậy là ông đă lấy tranh che đầu. Nghĩa là cái thể thật mà c̣n có tên là bị che khuất. Đọc qua đoạn này chúng ta mới thấy cái hay vi diệu của người xưa, các Ngài sống được rồi chỉ cho chúng ta, nếu khéo nhận th́ chúng ta với Phật không c̣n xa cách. Nếu mong cầu Phật thọ kư, hoặc đến rước th́ rất xa Phật.

Nay lập văn tự là mở thông một lối để tiếp dẫn cho người hậu học. Niết-bàn không có hai lối, phương tiện th́ có nhiều cửa. Do đó Phật nói Tiểu thừa, Đại thừa, kinh có đốn giáo, tiệm giáo. Nên biết, ngàn kinh muôn kinh chỉ là một kinh, ngàn pháp muôn pháp chỉ là một pháp, ngàn lời muôn lời chỉ là một lời, ngàn câu muôn câu chỉ là một câu, ngàn thể muôn thể chỉ là một thể, ngàn tông   muôn tông chỉ là một tông, ngàn phái muôn phái chỉ là một phái, ngàn nguồn muôn nguồn chỉ là một nguồn.

Ngài nói thể chân thật không dùng văn tự nói đến được, nhưng v́ tiếp dẫn người sau nên tạm lập phương tiện, chia chẻ nào là đại thừa tiểu thừa, đốn giáo tiệm giáo. Nhưng bao nhiêu kinh điển, bao nhiêu tông phái rốt cuộc cũng đồng một nguồn gốc, chớ không có khác.

Nếu thông suốt nguồn linh, th́ rơ một chẳng phải một; thấu suốt chánh pháp th́ gọi là đắc pháp. Huyền chỉ của Bát-nhă, lấy không chỗ được mà tự được, tạm v́ giáo hóa chúng sanh mà nêu bày tên “đắc pháp” và để lời dặn ḍ: - Bậc tông sư đời sau hăy ngầm xem hàng môn đồ, lựa chọn trong các đệ tử, ai là người có đức hạnh, giống trí mầm linh, thật tâm xuất gia, kính nhận và vâng theo lời dạy, ngộ sâu lư tánh, hiếu thuận chân tu, được người như thế, có thể trao tâm ấn.

Ngài nói người thấu suốt nguồn linh và rơ được chỗ một không phải một. V́ một là từ ngữ đối đăi thế gian dùng, như một rồi hai. C̣n cái này một mà không có hai cho nên nói một không phải một. Ai thấu suốt được chỗ đó th́ tạm gọi là đắc pháp ngộ đạo. Huyền chỉ Bát-nhă th́ không thể được, nhưng v́ giáo hóa chúng sanh nếu nói không thể được th́ chúng sanh không biết để tu, cho nên khi ngộ đạo gọi là đắc pháp và để lời dặn ḍ các bậc thầy sau này phải ngầm chọn lựa người đệ tử đức hạnh thật tâm xuất gia, kính nhận và vâng theo lời dạy tu hành, ngộ sâu lư tánh, được người như thế mới trao truyền tâm ấn. Như vậy chọn một người đệ tử để truyền tâm ấn không phải là chuyện dễ, nên những người lôi thôi ngạo mạn kém trí kém đức không xứng đáng để truyền trao.

            Thấy cùng thầy bằng,

            Gần thầy bảy phần.

            Được người như thế,

            Mới đáng truyền trao.

Âm :

            Kiến dữ sư tề,

            Á sư thất phần.

            Đắc như thị nhân,

            Năi khả truyền thọ.

Ngài dẫn thêm bài kệ để cho sáng tỏ ư này. Ư bài kệ nói rằng người nào cái thấy bằng thầy tức là ngộ bằng thầy, mới xứng đáng được truyền thừa. Tuy nói bằng nhưng người đó cũng kém hơn thầy năm ba phần. Cho nên người xưa nói “Tṛ bằng thầy, thua thầy nửa đức”. Như vị thầy tu năm chục năm, sau khi tu hai mươi năm th́ nhận đệ tử, người đệ tử tu mười năm ngộ lư đạo như thầy. Tuy ngộ bằng thầy nhưng công đức tu hành thua thầy đến ba mươi năm, nên thua thầy nửa đức. Ở đây bằng thầy bảy phần, thua thầy ba phần mới truyền trao, chớ không truyền một cách bừa băi.

Xét tâm ấn của chư Phật hẳn chẳng lừa nhau, Pháp thân rỗng lặng tṛn đồng thái hư, không thiếu không dư, không được không mất, không thêm không bớt, không trao không truyền, v́ đối ngoại duyên mà giả lập tên “ấn” đó thôi.

Qua đoạn này chúng ta mới thấy cách truyền tâm ấn của Phật giáo khác với cách truyền tâm ấn của ngoại đạo. Trong nhà Thiền truyền tâm ấn là truyền cho người đă sống được với thể rỗng lặng như thái hư. Hơn nữa truyền mà không có truyền, v́ thể đó ai cũng sẵn có và chữ “ấn” cũng giả lập tên chớ không có thật. Sau này từ ngữ truyền tâm ấn của nhà Thiền bị lạm dụng quá đáng, mới vô chùa chưa hiểu đạo ǵ cả th́ được ông thầy truyền tâm ấn, nhưng vị thầy chưa sáng đạo th́ làm sao dám truyền và truyền cái ǵ cho học tṛ ? Chúng ta phải hiểu cho kỹ chữ ấn là in, như chúng ta có một con dấu, lấy con dấu đó thoa mực đóng vào tờ giấy, trên mặt con dấu có chữ ǵ th́ nó hiện rơ lên tờ giấy chữ ấy, giống hệt không khác chút nào cả. Cũng vậy vị thầy tu ngộ đạo, tức là có con mắt tuệ nh́n thấy người học tṛ cũng ngộ như ḿnh mới thừa nhận hay ấn chứng cho người học tṛ đă ngộ như ḿnh. Như thế mới gọi là truyền tâm ấn. Trường hợp Tổ Huệ Khả tŕnh với Tổ Bồ-đề-đạt-ma: “Con bặt hết các duyên”. Tổ bảo: “Coi chừng rơi vào không”. Huệ Khả thưa rằng: “Rơ ràng thường biết làm sao rơi vào không ?”. Tổ bảo: “Ông như thế ta cũng như thế, chư Phật cũng như thế”.

Đó là truyền tâm ấn, người học tṛ tŕnh cái thấy của ḿnh, vị thầy thừa nhận cái thấy của người học tṛ là đúng, chớ không truyền cái ǵ cho người tṛ cả.

V́ vậy trong kinh Pháp Bảo Đàn, Tỳ-kheo Pháp Hải thưa hỏi Lục Tổ rằng: “Chư Phật ứng ra đời số được bao nhiêu ?”. Lục Tổ Huệ Năng chỉ dạy Tỳ-kheo Pháp Hải: “Chư Phật ứng ra đời số như cát sông Hằng, danh tướng không cùng, khó thể tính  kể. Nay  đem  bảy  đức  Phật Tông  sư  làm  thủy  tổ  chúng  ta”. Do đó, ba đời chư Phật, pháp ấn như thế, đến cuối cùng nơi hải ấn th́ thầm trao đèn tâm, bốn mắt nh́n nhau, im lặng ấn chứng.

“Bốn mắt nh́n nhau im lặng ấn chứng” nghĩa là khi thầy nh́n tṛ, tṛ cảm thông được cái chỗ thầy muốn chỉ nh́n lại thầy và thầy cảm thông nh́n lại tṛ, đó là bốn mắt nh́n nhau im lặng ấn chứng.

Do được như thế mà nhiều đời Tổ sư bốn mắt nh́n nhau, im lặng ấn chứng. Do được như thế nên Truyền Đăng Ngữ Lục ghi: Đại sư Đạt-ma ngầm nói lời dặn ḍ Tổ Huệ Khả rằng: “Xưa đức Thích Ca Như Lai đem chánh pháp nhăn tạng, Niết-bàn diệu tâm phó chúc cho Tổ Ca-diếp, lưu truyền mấy mươi đời, đến tôn giả Bát-nhă-đa-la truyền trao cho ta. Nguyên ta đă được pháp ấn ở Tây Thiên, vâng theo bậc trên đến truyền bá tâm tông nơi Đông độ, nên đạp cành lau qua biển đến đây. Thấy ngươi một ḷng tinh thành, có khí tượng đại thừa nên truyền tâm ấn cho ngươi. Ngươi hăy nối chí thuật lại việc này, thể nhận tâm ta mà bền vững hộ tŕ chớ để cho đoạn dứt.

Đoạn này nhắc lại việc Tổ Bồ-đề-đạt-ma dặn ḍ Tổ Huệ Khả. Từ xưa Phật đem chánh pháp nhăn tạng trao cho Tổ Ca-diếp, lưu truyền măi đến Tổ Bát-nhă-đa-la và truyền đến Tổ Bồ-đề-đạt-ma, Tổ Bát-nhă-đa-la dặn Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa để truyền bá tâm tông. Do đó mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma vượt biển sang Trung Hoa gặp Tổ Huệ Khả, Tổ Đạt-ma nói rằng v́ thấy Tổ Huệ Khả một ḷng tin thành, có khí tượng đại thừa nên truyền tâm ấn cho và dặn ḍ không nên để đoạn dứt.

Lại trao cho ngươi một chiếc ca sa pháp phục, với bốn quyển kinh Lăng Già để làm pháp tín, che chở cho Thiền tông phát triển. Trong th́ truyền pháp ấn để khế hợp tâm chứng, ngoài trao ca sa để định tông chỉ, tránh cho người đời sau khắt khe, sanh nhiều nghi ngờ, bảo rằng. - Ta vốn là người phương Tây, ngươi là kẻ ở phương Nam, từ đâu mà được pháp ? Lấy ǵ làm bằng chứng truyền trao tâm ấn cho ngươi ? Chính y bát, kinh pháp dùng để tiêu biểu mở mang giáo pháp, rộng độ chúng sanh. Sau khi ta diệt độ, khoảng hai trăm năm, y nên dừng chẳng truyền nữa.

Đoạn này kể lại việc Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho Tổ Huệ Khả; Tổ truyền bốn quyển kinh Lăng Già và y ca sa để làm chứng tín cho người sau tin. Tổ Đạt-ma là người Ấn Độ, Tổ Huệ Khả là người Trung Hoa nên phải có những vật này làm chứng tín để cho người sau tin tưởng là Tổ Huệ Khả thật sự được Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn để việc truyền bá đạo pháp được lâu dài. Nhưng Tổ cũng dặn ḍ là sau hai trăm năm không được truyền y bát nữa. Tại sao vậy ? V́ sau hai trăm năm người hiểu đạo cũng khá nhiều, nên không cần truyền y bát, v́ y bát là đầu mối của sự tranh giành. Ví dụ trong Thiền Viện có một trăm Tăng Ni và Phật tử đông đảo, nếu có người nào đó tu sáng đạo đến tŕnh với tôi, tôi thấy phù hợp với yếu chỉ của Phật Tổ th́ tôi tin và chấp nhận. Tuy tôi không truyền y bát mà mọi người cũng thầm nhận người đó là người đáng tin cậy. Ngày xưa các Tổ một thầy  truyền cho một tṛ, bây giờ một thầy mà rất nhiều tṛ, giả sử có năm bảy người cùng ngộ, vậy truyền y bát cho người nào ? Nếu truyền y bát cho một người th́ những người kia sẽ ra sao ? Cho nên chỉ cần tuyên bố một câu là đủ cho người sau tin tưởng. Nhưng bây giờ vẫn có người bắt chước truyền y bát lăng xăng, điều đó không thích hợp với hoàn cảnh hiện tại.

Lúc này pháp đă khắp giáp mọi nơi, người hiểu đạo th́ nhiều, người hành th́ ít, người nói lư th́ nhiều, người thông lư th́ ít, ngầm hợp thầm chứng có hơn ngàn muôn người, ngươi hăy xiển dương chớ khinh người  chưa ngộ, một niệm hồi cơ liền đồng với sẵn được.

Như trên Tổ đă dặn không nên truyền y nữa v́ sau này cơ duyên truyền bá rộng răi, người ngộ rất nhiều. Như trong pháp hội của Mă Tổ có tới tám mươi hai vị thiện tri thức ngộ đạo, nếu truyền y bát lấy đâu truyền cho đủ ? Song, lại cũng có những pháp hội rất nhiều người đến tham vấn học đạo, nhưng người hành th́ ít mà người nói lư th́ nhiều. Cho nên sang đời Tống các Tổ bèn nảy sanh ra Thiền thoại đầu, người tham Thiền chết sống với câu thoại đầu, tham cho đến khi ngộ đạo, không cần bàn luận lư lẽ cao siêu. Như vậy Thiền thoại đầu có từ khi người học Thiền nghiêng về mặt lư thuyết suông hơn là thực hành. Tuy nhiên, trường hợp của chúng ta ngày nay th́ khác, Thiền tông mới được khôi phục, người học Thiền cần phải thông lư rồi mới thực hành. Cho nên tôi mới đem kinh luận ra giảng giải cho quí vị hiểu. Do đó người học đạo và truyền đạo phải nắm vững chỗ này để ứng dụng cho đúng với hoàn cảnh. Kế đến Tổ khuyên là không nên khinh người chưa ngộ, v́ một khi họ chịu quay đầu lại họ cũng nhận ra cái thể sẵn có. Tôi thường ví dụ một vị trưởng giả có nhiều ngọc quí, khi sắp chết ông chia cho mỗi người con một viên, những người con lớn khôn hơn  lấy ra xài nên trở thành giàu có. Những người con nhỏ dại chôn cất không dám đem ra xài nên nghèo thiếu. Vậy mấy người anh có dám khinh em ḿnh nghèo không ? Mai kia đào lên nó cũng giàu như ḿnh làm sao dám khinh ? Nếu những vật ḿnh có mà người không có th́ mới xem thường và cho rằng ḿnh hơn họ. C̣n ḿnh và người đều có, họ c̣n cất, ḿnh lấy ra xài trước, như vậy ḿnh chỉ hơn họ ở chỗ xài trước thôi, chớ không phải hơn thật sự. Cũng vậy ḿnh và người đều sẵn có Phật tánh, vậy người đă ngộ đâu dám khinh người chưa ngộ ? Cho nên trong kinh Pháp Hoa đức Phật đưa ra một h́nh ảnh hết sức là chân thành và gần gũi để cho chúng ta noi theo, đó là Bồ-tát Thường Bất Khinh đi đâu, gặp người nào cũng lễ bái và nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, v́ các Ngài đều sẽ thành Phật”. Chúng ta lầm tưởng cho rằng Ngài tu hạnh nhẫn nhục, nhưng thật sự là Ngài nhắc cho chúng ta nhớ khả năng thành Phật đang có sẵn nơi ḿnh. Tóm lại, nhà Thiền nói một niệm hồi cơ liền đồng với cái sẵn được, kinh đưa ra h́nh ảnh Bồ-tát Thường Bất Khinh, như vậy kinh và Thiền đâu có khác !

Nghe ta nói kệ:

            Ta vốn đến xứ này,

            Truyền pháp cứu mê t́nh.

            Một hoa nở năm cánh,

            Kết quả tự nhiên thành.

Âm :

            Ngô bổn lai tư độ,

            Truyền pháp cứu mê t́nh.

            Nhất hoa khai ngũ diệp,

            Kết quả tự nhiên thành.

Tổ Đạt-ma nói: Ta đến xứ Trung Hoa, truyền pháp Thiền để cứu những chúng sanh mê muội, Ngài sang Trung Hoa là một đóa hoa nở, năm cánh là sau Ngài có năm vị nữa kế thừa, năm vị đó là ngài Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng, đó là một thành quả tự nhiên không có ǵ nghi ngờ.

Kệ chứng cớ xưa:

            Ca-diếp ban sơ y bát truyền,

            Bao đời Bát-nhă nhận ḍng Thiền.

            Đa-la trao đèn truyền ta đó,

            Ta gởi sáng thừa con làm duyên.

Âm :

Trưng cổ kệ

            Ca-diếp sơ ưng y bát truyền,

            Nguyên lưu Bát-nhă kỷ kinh niên.

            Đa-la phục bả đăng truyền ngă,

            Ngă yết dư quang thác tiếp duyên.

Nghĩa là ban đầu Tổ Ca-diếp được đức Phật truyền y bát, do Thiền tông lấy Trí tuệ Bát-nhă làm cửa vào, nên tinh thần Bát-nhă được truyền qua bao thế hệ, rồi truyền măi cho tới Tổ Đa-la, Tổ Đa-la truyền cho Tổ Bồ-đề-đạt-ma nên nói trao đèn cho ta. Tổ Bồ-đề-đạt-ma sang Trung Hoa truyền cho Tổ Huệ Khả là gởi ánh sáng thừa con tiếp duyên. Đó là nói việc truyền thừa từ Tổ Ca-diếp cho đến Tổ Huệ Khả.

Kệ truyền kinh:

            Bốn quyển Lăng Già trao lại con,

            Như Lai tâm địa pháp măi thơm.

            Chúng sanh dùng đó v́ khai thị,

            Khiến họ chóng liền tỏ ngộ sâu.

Âm :

Truyền kinh kệ

            Thọ tử Lăng Già tứ quyển kinh,

            Như Lai tâm địa pháp môn liêm.

            Chúng sanh dụng thử vi khai thị,

            Linh bỉ xâm sâm diệu ngộ thâm.

Tổ Bồ-đề-đạt-ma trao bốn quyển kinh Lăng Già cho Tổ Huệ Khả, để pháp môn tâm địa của Phật được truyền thừa măi măi về sau, chúng sanh nhờ đó mà được khai thị, tỏ ngộ được diệu lư sâu xa của Thiền.

Song thường trụ ở thế gian, thể tánh như như, viên giác rỗng lặng, gọi đó là Phật. Sáng tỏ tâm tông của Phật, hiểu và làm ứng hợp với nhau gọi đó là Tổ. Phật Tổ chỉ một lư không sai khác.

Lại nói:

            Đạt đạo lớn chừ quá lượng,

            Thông tâm Phật chừ khó lường.

            Chẳng cùng phàm Thánh chung nhà

            Vượt lên gọi đó là tổ.

Âm :

            Đạt đại đạo hề quá lưoợng,

            Thông Phật tầm hề xuất độ.

            Bất dữ phàm Thánh đồng miên,

            Siêu nhiên danh vi viết Tổ.

Đoạn này có một câu nghe rất là chí lư: “Hiểu và làm ứng hợp với nhau gọi đó là Tổ”. Định nghĩa Tổ hết sức đơn giản. Chúng ta có cái bệnh hiểu và làm không giống nhau cho nên măi làm phàm phu. Chúng ta tự kiểm lại xem ḿnh hiểu bao nhiêu và hành  bao nhiêu ? Hiểu một trăm phần hành chừng mười phần hoặc hai chục phần. Như vậy chúng ta hiểu gần bằng Tổ mà hành th́ giống phàm phu. Ví dụ như Tăng Ni ai cũng biết tham sân si là bệnh xấu, nếu giảng dạy cho Phật tử nghe th́ chúng ta nói rất là rành rẽ lưu loát. Nhưng giả sử có người tới mắng chừng vài ba câu th́ cũng sân si như ai, lúc đó cái hiểu nó bay đâu mất ! Lại có khi quí Phật tử gặp chuyện buồn, quí thầy quí cô khuyên giải: Đời là vô thường buồn làm chi ! Nhưng khi thầy cô có chuyện buồn, th́ Phật tử khuyên lại: Đời là giả tạm buồn vô ích ! Thầy khuyên tṛ, tṛ khuyên thầy, khuyên qua khuyên lại rốt cuộc rồi ai cũng c̣n buồn bực khổ đau v́ những điều bất như ư. Điều này xảy ra là do chúng ta học hiểu trên lư thuyết mà không thực hành. Nếu hiểu được một trăm phần mà thực hành được năm mươi phần cũng là khá lắm, nếu thực hành chừng mười hoặc hai mươi phần th́ quá dở. Ngài lại nói thêm: Đạt được đạo lớn, thông được tâm Phật, không c̣n niệm phàm Thánh hai bên, vượt lên trên niệm đối đăi là làm Tổ. Phật Tổ một lư không có sai khác.

Tôi (Chân Nguyên) xem trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ Huệ Năng thuật: “Phật Phật chỉ truyền pháp tánh, sư sư thầm trao bản tâm, y bát thuộc vật bên ngoài, là đầu mối cho sự tranh giành, hăy dừng việc ấy chớ truyền nhau nữa”. Lại thấy cơ thần ư mật, Ca-sa chia làm ba: một tấm thường mặc theo ḿnh. Một tấm đắp cho ảnh tượng. Một tấm cất chứa kỹ trong chùa. Theo nguyện lớn lại nói lời sấm kư rằng: “Đời sau này ai được tấm y, th́ đây là đạo của ta trở lại nơi đời”. Có vị tăng Duy Tiên ở trong chùa, sửa sang xây dựng lại điện vũ, t́nh cờ phát hiện được tấm Ca-sa, pháp phục vẫn được rực rỡ như ban đầu.

Xem kinh Pháp Bảo Đàn Giảng Giải th́ đoạn này có sai khác.

Nên biết, trí lực của Phật Tổ rất rộng sâu, vận dụng cơ thần ẩn hiện khó lường, thường tự đối diện trước mắt, không sắc viên dung, ra đời độ sanh, ứng khắp mọi nơi, diệt và chẳng diệt thảy là phương tiện, tượng giáo hiển dương, Phật Phật đều như vậy.

Ngài Chân Nguyên nói rằng: Trí lực của Phật Tổ rất rộng sâu, các Ngài ẩn hiện khó lường, việc ra đời độ sanh của Phật ứng hiện khắp mọi nơi, diệt và chẳng diệt của Phật Tổ thảy đều là phương tiện và đó là “tượng giáo hiển dương”. Tượng là h́nh ảnh biểu trưng chỉ cho y bát, giáo là kinh điển, chư Phật đều dùng phương tiện đó để xiển dương Phật pháp.

Từ trước, Phật Phật Tổ Tổ, đời đời tiếp nối nhau đều cùng chung bốn mắt nh́n nhau, thầm trao tâm ấn, như thế mà được, ta cũng như thế mà được, chư huynh đệ thiện tri thức cũng như thế mà được, cho đến hữu t́nh, vô t́nh thảy đều cũng như thế mà được. Tỏ ngộ pháp tánh vốn rỗng lặng, chỉ trí chứng biết, nói năng chẳng kịp, tâm ấn như như, xưa nay một lư, người thấu suốt đồng như vậy. Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, ngàn muôn Tổ sư đều dùng bốn mắt nh́n nhau, thầm trao tâm ấn mà truyền y thừa tiếp làm Tổ, mồi đèn tiếp lửa, nối Tổ truyền tông. Chính kinh Lăng Già là tâm ấn của Như Lai hiển lộ ở quyển hai. Bốn mắt nh́n nhau, Sơ Tổ Đạt-ma vượt biển đem đến. Người học về sau có nghi ngờ, hăy quán rơ thật chứng.

Ngài nói Phật Tổ từ trước cho đến sau, đời đời tiếp nối đều nh́n nhau mà ngộ được truyền tâm ấn. Tất cả mọi người nếu ai ngộ đạo cũng được truyền tâm ấn như thế. Tuy nhiên tỏ ngộ Pháp tánh rỗng lặng th́ chỉ có trí chứng biết, chỗ đó ngôn ngữ chẳng nói đến được, tâm ấn vốn là như như, xưa nay chỉ có một lư, người thấu suốt th́ đồng như nhau không khác. Ngài dẫn Ngũ Đăng Hội Nguyên nói rằng Tổ sư đều dùng bốn mắt nh́n nhau thầm trao tâm ấn, truyền y bát để kế thừa Tổ vị, chính kinh Lăng Già là tâm ấn của Như Lai, nó hiển lộ ở quyển hai. Bốn mắt nh́n nhau là do Sơ Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ vượt biển đem truyền sang Trung Hoa. Ngài đă dẫn chứng nguồn gốc của sự truyền thừa rơ ràng như vậy, nếu người sau có nghi ngờ nên lấy sự thật chứng mà quán xét th́ rơ ràng hơn.

Chân Nguyên kính vâng theo, mở mang tâm tông của Phật. Kinh nói: “Chẳng phải bậc Đại Thánh vô cớ mà mở ra giáo pháp, bởi có duyên từ xưa mới có thể tỏ ngộ tông chỉ. Ai là người hội được tâm tông, thật chính là con Phật, mồi đèn nối pháp, tiếp độ quần sanh, diệu tâm Niết-bàn, đại ấn vô tướng”.

 Đây là lời nói tha thiết xuất phát từ tấm ḷng chân thành của ngài Chân Nguyên, Ngài kính vâng theo những ǵ mà người xưa đă dạy, đă làm để mở mang Phật tâm tông. Tông là tông chỉ, mà tông chỉ của Thiền là tâm, cho nên nói là truyền Phật tâm tông. Người tu Thiền là trở về bản tâm của ḿnh, ngộ ngay nơi tâm, không t́m kiếm cái ǵ ngoài tâm. Ai ngộ được tâm là con của Phật, mồi đèn chánh pháp để tiếp độ quần sanh, đó gọi là diệu tâm Niết-bàn đại ấn, là cái ấn lớn không tướng mạo.

Sau đây tôi tóm kết vài điểm then chốt. Quyển Kiến tánh thành Phật không giống những quyển sách khác, có chia ra từng mục riêng mà từ đầu đến cuối chỉ luận có một mục Kiến tánh thành Phật. Học qua quyển luận này chúng ta thấy ngài Chân Nguyên tŕnh bày hết sức rơ ràng để chúng ta nhận ra, chớ không nói úp mở như các Thiền sư Trung Hoa. Đọc hành trạng hay Ngữ lục của các Thiền sư Trung Hoa chúng ta thấy các Ngài nói những câu úp mở khiến chúng ta khó lănh hội. C̣n ở đây Thiền sư Chân Nguyên thấy thế nào nói thế ấy, nên toàn bộ quyển luận lặp tới lặp lui, chỉ ngang chỉ dọc chủ yếu nhắc người học đạo nhớ ḿnh có tâm thể không sanh không diệt, gọi là nguồn linh, là Phật tánh, là Pháp thân là tánh giác... Cái đó ai cũng có, nếu người nào nhận ra tánh giác gọi là kiến tánh, v́ tánh giác là Phật nên nói kiến tánh thành Phật. Thành Phật không phải thành đức Phật Ca-diếp, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, đó là những vị Phật bên ngoài, mà kiến tánh là nhận ra tánh giác, tánh giác đó là Phật của chính ḿnh. Tuy nhiên kiến tánh chỉ mới nhận ra Phật nhân, c̣n Phật Ca-diếp, Phật Thích Ca... là Phật quả, v́ các Ngài đă dẹp hết phiền năo vô minh nơi các Ngài. Các Ngài c̣n chỉ dạy cho mọi người giác ngộ, nên nói tự giác, giác tha, giác hạnh viên măn mới được thành Phật. Chúng ta mới nhận ra Phật nhân, tự giác chưa xong, giác tha chưa có th́ giác hạnh chưa viên măn, nên chưa thành tựu quả Phật. Đây nói Kiến tánh thành Phật là mới nhận ra Phật nhân mà thôi. Từ khi kiến tánh cho đến lúc thành Phật  phải có thời gian bảo nhậm. Như vậy, kiến tánh là mới nhận ra tánh giác nơi ḿnh chớ chưa thành Phật, nên chúng ta phải khéo bảo nhậm mới thành Phật quả. Như chúng ta có hạt bắp giống chưa chắc là có bắp ăn, có hạt bắp giống chúng ta phải trồng, phải bón phân tưới nước, xịt thuốc sâu... th́ mới có bắp ăn. Cũng thế, đức Phật nói tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, người nhận ra th́ gọi là kiến tánh, là nhận ra Phật nhân. Phật nhân là hạt giống sẵn có, nhưng chúng ta phải khéo léo bảo nhậm, như người có hạt bắp giống phải biết trồng và săn sóc mới có quả bắp ăn. Nhưng chúng ta thường có bệnh lười biếng không nỗ lực làm việc nên dù có hạt bắp giống mà cam chịu thèm khát, hoặc chờ người làm sẵn rồi đến xin ăn. Cũng thế, chúng ta nghe nói ḿnh có sẵn Phật nhân, khao khát muốn thành Phật quả, nhưng không khôn ngoan sáng suốt thực hành mà cứ ao ước suông hoặc đến lạy Phật cầu xin th́ không bao giờ được. Lại càng đáng thương là lạy hoài mà Phật ngồi trên bàn chẳng gật đầu thuận cho. Chúng ta cứ làm những chuyện không đâu mà chuyện thực tế làm được lại không chịu làm.

Bây giờ quí vị thử xét lại ngay nơi ḿnh có tánh giác mà cũng có phiền năo phải không ? Nhưng tánh giác thật hay phiền năo thật ? Dĩ nhiên ai cũng biết là tánh giác thật, v́ tánh giác là sẵn có, là chân thật, phiền năo do duyên bên ngoài mới dấy khởi, là giả dối. Thế mà chúng ta lại sợ phiền năo, than rằng: Sao phiền năo có sức lôi cuốn dữ dội, làm cho tôi bất an, tu thành Phật khó quá ! Chúng ta thử xét coi, tu thành Phật dễ hay khó ? Chỉ cần buông cái giả th́ cái thật hiện ra dễ như trở bàn tay. Chúng ta tu không nên sợ cái giả mà chỉ sợ mê chạy theo cái giả không chịu buông. Khi dụng tâm tu có hai điều chúng ta phải lưu ư: Biết cái giả không theo, nhận cái thật và hằng sống với nó. Ví dụ mặt biển thênh thang bỗng dậy sóng ầm ầm dữ dội, nhưng chúng ta biết biển dậy sóng là do gió thổi, đó là giả dối không thật nên không sợ, v́ gió dừng th́ sóng lặng. Mặt biển dù có sóng hay không sóng lúc nào cũng hiện hữu không bao giờ thiếu vắng. Hơn nữa sóng chỉ làm dao động mặt biển mà không làm mất mặt biển. Cũng thế tâm chúng ta xao xuyến bất an là do gió ngoại trần thổi. Như chúng ta đang ngồi an nhiên, bỗng có người kêu tên chửi mắng, âm thanh của người ấy khiến cho chúng ta có phản ứng, v́ phản ứng nên tâm chúng ta bị xao xuyếân, dao động, giống như mặt biển đang lặng, gió thổi làm cho dậy sóng. Do đó chúng ta tu phải ngăn ngừa gió ngoại trần, nhưng ngăn ngừa bằng cách nào ? Không cho mắt thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị phải không ? - Năm căn vẫn tiếp xúc với năm trần nhưng chúng ta biết nó là duyên hợp tạm có, có rồi mất không thật, cho nên dù có ai kêu tên mắng chửi vẫn không giận không buồn, dù cho thấy sắc tốt, sắc xấu vẫn không ưa không chán v.v... Đó là chặng thứ nhất thấy ngoại trần không thật. Chặng thứ hai là chúng ta biết pháp trần hay vọng tưởng là không thật, v́ vọng tưởng là do ngoại trần mà có, giống như có gió thổi mặt biển mới dậy sóng. Như vậy gió không thật th́ sóng có thật đâu ? Cũng thế ngoại trần không thật nên vọng tưởng cũng không thật. Thế mà có nhiều người tu than: sao mà vọng tưởng dấy khởi liên miên, buông không được ! Tại sao vậy ? Tại chúng ta cứ măi nhớ ngoại trần. Ví dụ như hôm qua có ai chửi chúng ta một câu, hôm nay âm thanh câu chửi không c̣n nữa, nhưng bóng dáng hư ảo của câu chửi khởi lên hoài làm cho tâm chúng ta dao động bất an. Khi tiếp xúc với âm thanh chửi mắng chúng ta đă biết nó là không thật, bây giờ ư căn tiếp xúc với bóng dáng của thanh trần th́ đâu có thật mà quan trọng ! Sở dĩ tâm chúng ta bất an là v́ khi xúc cảnh thấy cảnh thật, cả ngày chúng ta cứ dính với cảnh nên nội tâm dấy động bất an. Chúng ta phải học theo gương của đức Phật. Trong kinh có kể lại câu chuyện: Đức Phật đang đi có người theo sau mắng chửi, Ngài thản nhiên đi không trả lời. Người kia hỏi Ngài có nghe không ? Sao tôi chửi Ngài mà Ngài không trả lời ? Phật không đáp thẳng mà nêu lên câu hỏi: Giả sử ông đem lễ vật cho người, người không nhận th́ lễ vật về ai ? Người kia đáp: Về tôi chớ về ai ! Người ta mắng chửi Phật, Phật không nhận nên tâm b́nh thản không dao động, c̣n chúng ta th́ ai cho ǵ nhận nấy không từ chối một món nào, nên chứa đầy cả kho, do đó phải nhọc công loại bỏ.

Tóm lại khi dụng tâm tu trước hết dùng trí Bát-nhă thấy rơ ngoại trần không thật, biết nó không thật th́ tâm không dính mắc. Kế đến nội tâm dấy niệm cũng biết rơ vọng niệm hư dối không thật không theo. Ban đầu nó dấy lên rất nhiều nhưng lâu ngày nó thưa dần và lặng hết, chỉ c̣n lại thể tánh sáng suốt thanh tịnh. Cũng như sóng dấy lên từ nước, khi lặng th́ sóng trở về nước. Cũng thế, vọng niệm khởi lên từ cái biết, khi vọng niệm lặng th́ trở về cái biết, cái biết vẫn liễu liễu thường tri, lúc đó không cần dẹp trừ ǵ nữa mà hằng sống với cái biết thênh thang thanh tịnh sáng suốt của chính ḿnh. Đó là Phật là Tổ. Chỗ này Tổ Lâm Tế dạy:

- Đoạt nhân chẳng đoạt cảnh: dấy niệm không theo, tức là dẹp vọng niệm bên trong.

- Đoạt cảnh chẳng đoạt nhân: quán tất cả ngoại cảnh đều không thật, tức là dẹp cảnh bên ngoài.

- Nhân cảnh đều đoạt: trong không dấy niệm, ngoài không theo cảnh.

- Nhân cảnh đều chẳng đoạt: trở về với tâm như như thanh tịnh, như sóng dừng, biển lặng yên.

Đó là theo Tứ liệu giản của Tổ Lâm Tế. C̣n ở đây chúng ta tu đầu tiên là dùng trí Bát-nhă quán chiếu thấy sáu trần không thật, kế đến là biết rơ những vọng niệm dấy lên từ nội tâm không thật nên không theo. Trong ngoài không giao thiệp nữa th́ tâm an nhiên tự tại.

Như vậy, nơi chúng ta đă có sẵn tánh Phật nhưng v́ chúng ta để cho tam bành lục tặc dấy khởi nhiễu loạn nên không bao giờ yên, đó là do chúng ta thấy sáu trần là thật, nếu thấy sáu trần là giả dối th́ lục tặc biến thành lục thông, thành lục thông th́ trở về thể như như đâu có khó. Cho nên tu mà khéo nhận th́ dễ đạt kết quả, nếu không khéo nhận th́ dù cho trải qua thời gian dài cố gắng tối đa mà vẫn không kết quả. Do đó có nhiều người ham tu ngồi thiền rất giỏi mà nghe một câu nói hơi nặng th́ nhớ hoài không quên, đó là c̣n thấy thanh trần thật, do đó nên tu không tiến.

Tóm lại, đối với người tu kiến tánh rất là quan trọng, kiến tánh khởi tu th́ không c̣n sợ lầm lạc. Mong rằng sau khi đọc xong quyển luận này quí vị đủ ḷng tin mà tiến tu, không bao giờ thối chuyển.

]


[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]

[Trang chu] [Kinh sach]