[Trang chu] [Kinh sach]

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT

Giảng Giải

[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]


B. GIẢNG GIẢI (tt)

III. KỆ KIẾN TÁNH: (tt)

Nói năng đó là ǵ ? Cái ǵ biết hỏi đáp ?  Đây chính là Pháp thân của mọi người, là tự tánh chân không, hay ứng ra âm thanh, miệng lưỡi mà hỏi đáp. Đấy là tánh chân không người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, ở Thánh chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, không đổi khác, không cũ mới, không quá khứ hiện tại vị lai, rỗng rang b́nh đẳng, trong lặng tṛn sáng, từ vô lượng kiếp đến nay đặc biệt hiện tiền, gió thổi chẳng động, mưa rưới chẳng ướt, lửa đốt chẳng cháy, mặt trời rọi nóng chẳng khô, chùy nhọn dùi chẳng phủng, đao cắt chẳng đứt, thuốc nhuộm chẳng đen, đá mài chẳng ṃn, sương rét chẳng lạnh, nước tưới chẳng thấm, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt, lồ lộ trước mắt, rơ ràng soi khắp. Đây là Pháp thân thanh tịnh chân không, không h́nh không tướng, tṛn đồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ. Song hư không rộng lớn, bao trùm cả trời đất, xuyên suốt núi sông, tột cả xưa nay, vững măi như vậy. Nên biết, núi sông, quả đất trọn là hoa đốm trong hư không, sắc thân bốn đại là âm dương huyễn hóa, “phàm cái ǵ có tướng đều là hư vọng”.

Nói năng đó là ǵ ? Cái ǵ biết hỏi đáp ? Đây đặt câu hỏi cái ǵ biết nói năng, cái ǵ biết hỏi đáp. Nếu không có cái biết ẩn nơi thân th́ làm sao khiến ngôn ngữ phát ra để thưa hỏi. Nhưng khi phát ra thưa hỏi rồi lập thành câu và phân biệt đúng sai v.v... là đă cách xa cái biết rồi ! Đây chính là Pháp thân của mọi người, là tự tánh chân không. Pháp thân hay ứng ra âm thanh ở miệng lưỡi mà có hỏi đáp. Như vậy tất cả những hoạt động của chúng ta đều có Pháp thân ngầm trong đó. Trong kinh Lăng Nghiêm gọi là chơn tâm, nhưng không giữ tự tánh chơn tâm nên dấy khởi vọng động, do đó khi hỏi đáp thêm nhiều phân biệt, sanh ra vui buồn bực bội v.v... cách quá xa cái biết không sanh diệt của ḿnh. Đấy là tánh chân không người người sẵn đủ, kẻ kẻ viên thành, ở Thánh chẳng thêm, ở phàm chẳng bớt, không đổi khác, không cũ mới, không quá khứ hiện tại vị lai, rỗng rang b́nh đẳng, trong lặng tṛn sáng, từ vô lượng kiếp đến nay đặc biệt hiện tiền, gió thổi chẳng động, mưa rưới chẳng ướt, lửa đốt chẳng cháy, mặt trời rọi nóng chẳng khô, chùy nhọn dùi chẳng phủng, đao cắt chẳng đứt, thuốc nhuộm chẳng đen, đá mài chẳng ṃn, sương rét chẳng lạnh, nước trời chẳng thấm, sạch trọi trơn, bày trơ trơ, không một vật, không thể nắm bắt, lồ lộ trước mắt, rơ ràng soi khắp. Ngài nói tánh chân không của chúng ta sẵn đủ hiện tiền, không có ǵ phá hoại nó được, do đó đức Phật thường lấy chất kim cang cứng chắc để dụ cho nó. V́ kim cang là chất kim loại có thể phá vỡ các kim loại khác, mà các kim loại khác không thể phá hoại được chất kim cang. Như tôi và quí vị đều có cái hay thấy, vậy có ai cắt đứt hay nhuộm đen, dùi thủng cái hay thấy của tôi và của quí vị được không ? Nếu  phá hoại không được mới là cái thật của ḿnh.

Ví dụ có một buổi chiều chúng ta thấy bầu trời phủ mây đen chuyển mưa. Thấy như vậy th́ ngang đó không có lỗi ǵ cả. Nếu thêm ư nghĩ có mây đen chắc chắn trời sẽ mưa, nhưng một lát sau gió thổi, mây tan dần và trời không mưa. Hoặc nghĩ rằng tuy có mây đen nhưng có lẽ trời không mưa v́ một lát gió thổi mây tan hết. Tuy nhiên trời vẫn đổ mưa ầm ầm. Như vậy khi xúc cảnh chúng ta không thêm một ư nghĩ phân biệt phán đoán, cảnh ở trước mắt thế nào thấy như thế ấy, không thêm bớt ǵ cả th́ tâm an nhiên sáng suốt. Nếu thấy cảnh mà chúng ta đem những kinh nghiệm của quá khứ để so sánh với cái thấy hiện tại, rồi quyết định đúng sai; th́ đă rơi vào cái đối đăi hai bên. Hễ c̣n đối đăi là c̣n sanh diệt, c̣n sanh diệt là c̣n khổ đau. Chúng ta thấy mây đen th́ biết mây đen, thấy mây trắng th́ biết mây trắng, gió thổi qua th́ biết gió thổi qua v.v... Như vậy đủ rồi, đừng kèm theo cái kinh nghiệm quá khứ đúng sai chi cả. Qua đoạn này chúng ta thấy ngài Chân Nguyên nói hết  t́nh hết lư cho chúng ta hiểu, nhận ra cái sẵn có của ḿnh không ǵ phá hoại được, nó hiện tiền trước mắt, rơ ràng soi khắp, thế mà có mấy ai chịu nhận.

Đây là Pháp thân thanh tịnh chân không, không h́nh không tướng, tṛn đồng thái hư, nghiễm nhiên thường trụ. V́ Pháp thân không h́nh tướng nên nó trùm khắp hiện tiền, không thiếu vắng lúc nào. Song hư không rộng lớn, bao trùm cả trời đất, xuyên suốt núi sông, tột cả xưa nay, vững măi như vậy. Nên biết, núi sông, quả đất trọn là hoa đốm trong hư không, sắc thân bốn đại là âm dương huyễn hóa, “phàm cái ǵ có tướng đều là hư vọng”. Ở trước nói sắc thân tứ đại như ḥn bọt ở trong biển, Pháp thân như mặt biển. Đoạn này nói pháp thân trùm khắp không sanh không diệt, núi sông và cả quả địa cầu là cái tướng sanh diệt hư ảo như hoa đốm trong hư không. Pháp thân bất sanh bất diệt vững chắc không có ǵ phá hoại được, thân tứ đại do âm dương huyễn hóa hợp thành, song chúng ta chỉ nhận cái tạm bợ giả dối mà quên cái chân thật hiện tiền. Kế đến Ngài dẫn một câu trong kinh Kim Cang: “Phàm cái ǵ có tướng đều là hư vọng”. Có tướng như quả đất tồn tại hàng tỉ năm, nhưng một ngày nào đó nó cũng bể nát. Quả đất sống hàng tỉ năm mà sánh với Pháp thân tuổi thọ nó c̣n nhỏ, huống là sắc thân của chúng ta. Pháp thân ví như ḥn ngọc, sắc thân ví như hạt cát  đen thui nhỏ xíu, như vậy đối với hai cái đó người có trí chọn cái nào ? Dĩ nhiên là chọn ḥn ngọc. C̣n chúng ta th́ chọn hạt cát nhỏ xíu mà quên ḥn ngọc, cho nên đức Phật nói chúng sanh mê muội đáng thương. Nếu chúng ta sáng suốt th́ sẽ nhận ra nơi ḿnh có ḥn ngọc vô giá không có ǵ sánh bằng.

Chân không th́ không  tướng, muôn  kiếp c̣n măi, đó là thân vô vi, là thân chân Phật. Bởi thật tướng của chân Phật vốn là chân không diệu hữu, thật tướng của chân không là thật tướng vô tướng. Không tướng chẳng tướng, đó gọi là thật tướng. Thật tướng của pháp thân ấy, trong lặng tṛn sáng, rỗng rang rộng lớn, bao gồm một thể, tṛn đồng thái hư trùm cả mười phương đủ khắp muôn vật.

Chân không th́ không tướng, muôn kiếp c̣n măi, đó là thân vô vi, là thân chân Phật. Bởi thật tướng của chân Phật vốn là chân không diệu hữu, thật tướng của chân không là thật tướng vô tướng, không tướng chẳng tướng, đó gọi là thật tướng. Đoạn này có những từ ngữ hơi khó hiểu; không tướng, chẳng tướng, đó gọi là thật tướng. Không tướng tức là không có tướng, chẳng tướng là sao ? Chẳng tướng tức là có tướng. Đă là không tướng lại c̣n có tướng làm chi ? Bởi v́ ở đây dùng từ ngữ chân không diệu hữu, chân không là không tướng, diệu hữu th́ có tướng. Chúng ta sống được với Pháp thân, từ Pháp thân sẽ lưu xuất ra tất cả pháp thế gian đó là diệu hữu. Hữu mà diệu th́ hữu đó nằm trong phần tỉnh giác, hữu mà không diệu là hữu của thế gian sanh diệt. Do đó nói chân không diệu hữu là khi ta ngộ được lư chân không rồi th́ mọi hành động tạo tác của ta đều phù hợp với tánh giác nên gọi là diệu hữu. Như vậy người tu ngộ được chân không rồi chẳng phải là không ngơ, mà vận dụng diệu hữu làm lợi ích cho chúng sanh, chuyển hóa chúng sanh mê lầm trở thành giác ngộ sáng suốt, tất cả việc làm đó đều là diệu hữu, trở về với chân không th́ mọi hành động biến thành diệu hữu, đi trong tất cả loại, làm tất cả việc để lợi ích cho mọi người đó là diệu dụng của chân không. Cho nên đây nói “thật tướng của chân Phật vốn là chân không diệu hữu”. Thật tướng của Pháp thân ấy, trong lặng tṛn sáng, rỗng rang rộng lớn, bao gồm một thể, tṛn đồng thái hư trùm cả mười phương, đủ khắp muôn vật. Đoạn này Ngài nói thêm để giải thích về chân không diệu hữu.

Song từ thuở ban sơ chưa có trời đất, chưa có cha mẹ, một thể chân không, thái hư b́nh đẳng, lặng lẽ sáng rỡ như vậy, tự tại viên dung. Trạng thái đó, không h́nh không tướng, không đầu không đuôi, không trong không ngoài, không nhỏ không lớn, không một không khác, không sáng không tối, không thô không tế, chẳng phải không chẳng phải có, chẳng phải mở chẳng phải đóng, chẳng phải tụ chẳng phải tan, chẳng phải thành chẳng phải hoại, chẳng phải động chẳng phải tịnh, chẳng phải lại chẳng phải qua, chẳng phải sâu chẳng phải cạn, chẳng phải ngu chẳng phải trí, chẳng phải trái chẳng phải thuận, chẳng phải thông chẳng phải bít, chẳng phải giàu chẳng phải nghèo, chẳng phải mới chẳng phải cũ, chẳng phải tốt chẳng phải xấu, chẳng phải cứng chẳng phải mềm, không sanh không diệt, không qua không lại, không đi không đứng, không ngồi không nằm, không già không trẻ, không cao không thấp, không tên không hiệu, không mặt không mày, không nam không nữ, không sắc không thanh, không gan không phổi, không thịt không máu, không xương không tủy, không tóc không da, không xanh không vàng, không đen không trắng, không xuân không hạ,  không thu không đông, không thời không tiết, không số không kiếp, không đầu không cuối, không trước không sau, không trên không dưới, không giữa không bên, không trong không ngoài, không kia không đây, không sanh không tử, không động không lay, không dài không ngắn, không vuông không  tṛn, không  tội không phước, vô lậu vô vi, không tâm không tánh, không lẻ không đôi, không được không mất, bởi lược bày tướng đối đăi mà tạm nói, đâu thể nói tột hết ư nghĩa kia.

Đoạn này Ngài nêu lên nhiều cái chẳng phải rất là dài, nhưng tóm lại chỉ có một ư chính là pháp thân không tướng mạo nên không có tất cả những tướng đối đăi như ở trên. Tất cả những cái đối đăi như giàu nghèo, ngu trí v.v... không dính dáng ǵ đến pháp thân, nếu chúng ta c̣n dính mắc những thứ đó mà đ̣i chứng Pháp thân th́ không bao giờ được, khi nào dứt hẳn tâm đối đăi th́ pháp thân hiện tiền. Nhưng chúng ta th́ quen sống theo cái hai bên, giả sử nh́n người nào đó th́ chúng ta liền phê phán: người đó đẹp xấu, lùn cao, đen trắng v.v... thêm nữa là có duyên với ḿnh hay không có duyên, bận theo những cái đối đăi, cho nên chúng ta quên mất cái thật của ḿnh. Nếu từ sáng tới chiều chúng ta thấy người thấy vật mà không khởi tâm phân biệt đối đăi th́ tâm chúng ta không dao động v́ hơn thua yêu ghét. Như vậy ở ngay cuộc đời này người tỉnh cũng sinh hoạt b́nh thường, sinh hoạt trong tỉnh táo sáng suốt th́ được an vui, c̣n người mê cũng sinh hoạt, nhưng sinh hoạt trong mê tối, nên gặp việc bất như ư th́ sanh buồn phiền đau khổ. Như thấy tiền của, họ cho rằng tiền của là quí, do đó ḷng tham dấy khởi thúc dục làm nhiều, nhưng làm bị thất bại hay gặp chướng ngại th́ bị đau khổ. Xét cho cùng cái gốc của khổ đau là do nh́n sự vật theo chiều đối đăi sanh diệt, theo đối đăi là theo cái si mê, do si mê nên ḷng tham dấy khởi, tham không được th́ nổi sân. Si tham sân luôn luôn xoay vần măi trong tâm, khiến cho chúng ta sanh tử luân hồi không dứt.

Ĺa tất cả tướng rơ một chẳng một, gọi  là “một vật” lại chẳng trúng lư. Rơ  vô  trụ  chẳng phải một, nhận pháp môn chẳng hai. Pháp thân chân thật vốn không h́nh tướng, tṛn sáng rộng lớn, trong lặng như thái hư, rộng th́ pháp giới chẳng thể chứa, hẹp th́ một mảy lông không chỗ lập. Nếu y cứ nơi thật tế th́ vốn không có sắc thân, người ngộ được th́ hư không chẳng sanh hoa. Người rơ suốt th́ hoàn toàn không một điểm che mờ. Vô vị chân nhân rành rành đối trước mắt, chớ chấp vào sắc thân, thân như điện chớp; chớ tham đắm phước báo, phước tợ mây nổi, sanh tử toàn không, đâu có ǵ đến đi, giả gọi là chúng sanh thôi. Bỏ sự nghiệp đi xuất gia, ẩn náu nơi núi rừng giác ngộ gọi là tu hành. Tự giác, giác tha, và giác hạnh được viên măn gọi là Phật.

Pháp thân th́ ĺa tất cả tướng, rơ một chẳng phải một, nên nói một vật cũng chẳng trúng, hay là cái lư một vật cũng chẳng trúng. Rơ vô trụ chẳng  phải một th́ nhận ra pháp môn không hai. Như vậy là biết pháp môn không hai mà chẳng phải một. Pháp thân chân thật th́ không h́nh tướng, trong lặng sáng suốt rộng lớn như thái hư, rộng th́ pháp giới không thể dung chứa, hẹp th́ một mảy lông không chỗ dựng lập. Chỗ thật tế là chỗ chân thật tức là chân lư. Nếu căn cứ vào chỗ chân thật mà nói th́ sắc thân vốn không thật, mà người ngộ sắc thân không thật th́ hư không chẳng sanh ra hoa đốm. Ví dụ trưa nắng chúng ta nh́n ra hư không một hồi lâu chúng ta lấy tay dụi mắt, thấy ở ngoài trời có những tia chớp chớp. Những tia chớp chớp đó gọi là hoa đốm. Những hoa đốm đó do chúng ta dụi mắt mà thấy chớ nó không thực có trong hư không. Pháp thân dụ cho hư không, hoa đốm dụ cho sắc thân tứ đại. Chúng ta mê thấy có thân thật dụ cho dụi mắt thấy hư không có hoa đốm. Nếu chúng ta tỉnh thấy đúng chân lư th́ sắc thân vốn không thật, chỉ có Pháp thân thênh thang trùm khắp là thật nên nói: y cứ nơi thật tế th́ vốn không có sắc thân, người ngộ th́ hư không chẳng sanh hoa. Người nào rơ được lư này th́ không có ǵ che mờ được họ. “Vô vị chân nhân” là con người chân thật không có ngôi vị chỉ cho Phật tánh, nó hiện rành rành trước mắt chúng ta, không ở đâu xa hết, chúng ta đừng mắc kẹt vào sắc thân, v́ sắc thân chợt có chợt không, như lằn điện chớp xẹt qua rồi mất, không bền không thật. Ngài nhắc chúng ta tu không nên quá tham  đắm phước báo, v́ phước báu như mây nổi. Nhưng bây giờ đa số Phật tử ham tu phước hơn, có người quan niệm rằng rán làm việc phước thiện, đời này sung sướng, đời sau sung sướng hơn. Với cái nh́n của Ngài th́ phước báo như mây nổi, sanh tử không thật nên nói sanh tử toàn không, đâu có ǵ đến đi, danh từ chúng sanh cũng giả lập để gọi vậy thôi. Ngài lại nhắc thêm cho người xuất gia: “Bỏ sự nghiệp đi xuất gia, ẩn náu nơi núi rừng, giác ngộ gọi là tu hành. Tự giác, giác tha, và giác hạnh được viên măn gọi là Phật. Người xuất gia phải tu cho giác ngộ mới xứng đáng gọi là tu hành, chúng ta tu lơ mơ th́ chưa xứng đáng.

Lại  nói: thân ta hiện nay đây, là do bốn đại ḥa hợp, dụ như bốn con rắn độc đồng nhốt chung một cái rương; hai con rắn đất và nước tánh nó nặng ch́m xuống, hai con rắn gió và lửa th́ tánh nhẹ bay lên, đến lúc tan hoại th́ mỗi thứ trở về chỗ của nó. Nghĩa là tóc, lông, răng, móng, da thịt, gân xương, tủy năo, cấu bẩn... đều trở về đất; nước mắt nước mũi, máu mủ, mồ hôi, nước miếng đàm dăi, tinh khí, đại tiện, tiểu tiện... đều trở về nước; hơi ấm trở về lửa; động chuyển trở về gió, bốn đại mỗi thứ ră tan, th́ thân huyễn hiện nay sẽ ở chỗ nào ? Rơ biết sắc thân bốn đại, năm ấm nhóm họp rỗng mà nó hiện có ra; như đá nháng, điện xẹt, khởi diệt chẳng ĺa ngay đây mà trở về không. Sóng to nước lặng, vốn tự như, đâu có đến đi. Sắc thân ngoại vật không thật, như mộng huyễn, không hoa; trong cơi chân tịnh th́ pháp thân như vậy, lặng sáng chiếu khắp, thường trụ ở trước mắt.

Ngài nói thân tứ đại của chúng ta giống như bốn con rắn độc nhốt chung ở trong rương. Tôi nói nhốt chung trong cái lu cho dễ hiểu, tạm đặt tên cho nó là rắn hổ lửa, rắn nước, rắn hổ mây và rắn hổ đất. Bốn con rắn này ở chung nhưng không hợp nhau. Muốn nó ḥa hợp, con này không cắn con kia, chúng ta phải t́m cách can ngăn, luôn luôn cung cấp thức ăn thức uống đầy đủ để nuôi nó sống, thế mà nó cứ cự lộn với nhau hoài. Chúng ta th́ rán t́m đủ cách để ḥa hợp chúng, song bản chất bốn con rắn nghịch nhau, nên làm cho chúng ta rất gian nan khổ sở. Giả sử chúng ta là người bàng quan nh́n thấy người hàng xóm nhốt bốn con rắn trong một cái lu nuôi nấng tử tế. Bỗng một hôm cái lu bể bốn con rắn chạy mỗi con mỗi nơi. Người nuôi rắn thấy tiếc bèn kiếm bốn con rắn khác đem về nuôi nữa, chúng ta có tức cười không ? Cũng vậy sắc thân tứ đại đất nước gió lửa hợp thành, chúng ta lo nuôi nấng kỹ lưỡng, ngày ba bữa, cung cấp món ngon vật lạ mà nó ưa thích. Khéo léo cách mấy chúng ta cũng không thể làm vừa ḷng cả bốn. Giả sử khi thấy trong người nóng, t́m đồ mát ăn vô, nóng hạ xuống, nhưng thủy đại tăng lên. Chúng ta vừa lo t́m bốn đại bên ngoài để bồi bổ cho bốn đại bên trong, vừa lo cung cấp vừa lo điều ḥa từ sáng tới chiều, từ ngày này sang năm nọ, suốt đời như thế thật là khổ nhọc. Như chúng ta ở trong chùa, khuya thức dậy lo chuẩn bị thức ăn cho buổi sáng; công tác ít tiếng đồng hồ lại lo chuẩn bị ăn trưa; ngồi Thiền vài tiếng lại lo thức uống cho buổi chiều. Lo cung cấp thức ăn thức uống đầy đủ mà chưa yên, bốn đại không điều ḥa sanh ra bệnh hoạn đủ thứ. Bệnh th́ phải lo t́m thầy t́m thuốc để điều ḥa, cứ lo bồi bổ, điều ḥa ǵn giữ, nhưng nó đâu có tồn tại lâu dài, một ngày nào đó nó cũng tan ră. Giống như cái lu bể bốn con rắn chạy mỗi đứa mỗi nơi. Đó là h́nh ảnh vô thường Phật nêu lên trong kinh Niết Bàn. Cuộc sống của chúng ta giống như “dă tràng xe cát biển Đông, vô t́nh lượn sóng cướp công nhọc nhằn”. Cả cuộc đời làm một việc không có kết quả mà cứ làm hoài ! Ngài nói sắc thân như mộng như huyễn như hoa đốm trong hư không, thế mà chúng ta cho là quí và cả đời lo cho nó không biết chán, lo hết đời này lo sang đời khác, cứ chạy đuổi theo nó, rồi khổ kiếp này sang kiếp nọ. Nói bốn cái khổ của sanh già bệnh chết, chỉ xét qua cái khổ về thân bệnh cũng đủ chán chường sợ hăi. Thử hỏi ai có thân mà không có bệnh, mà bệnh là gây chướng ngại cho cuộc sống không phải ít. Nhức đầu, đau bụng, ung thư, đau gan, đau phổi... bệnh nào dù ít dù nhiều đều gây chướng ngại. Những chứng bệnh của thân đều là những hiện tượng nghịch nhau của bốn đại; nó nghịch nhau là chúng ta bất an, bất an th́ phải t́m cách điều ḥa cho nó được b́nh an, nhưng b́nh an tạm thời chớ không phải vĩnh viễn. Ta có cố gắng cách mấy cuối cùng bốn đại cũng ră tan. Do đó người tu không nên làm công việc của người nuôi rắn, mà phải nhận ra pháp thân lặng sáng chiếu khắp, thường trụ ở trước mắt, được như thế chúng ta mới thảnh thơi an nhàn. C̣n lo bắt bốn con rắn nuôi hoài là c̣n đau khổ, rất đáng thương.

            Vốn từ vô vi đến,

            Lại từ vô vi đi.

            Nay ngộ thân vô vi,

            Thường trụ chỗ vô vi.

Âm :

            Bổn tùng vô vi lai,

            Hoàn tùng vô vi khứ.

            Kim ngộ vô vi thân,

            Thường trụ vô vi xứ.

Vốn từ vô vi đến, lại từ vô vi đi. Ở trước đă có câu hỏi: Thân này từ đâu đến, chết rồi đi về đâu ? Đáp: Thân này từ vô vi đến, chết từ vô vi đi. Ở đây Ngài lặp lại câu đáp trong bài kệ: Vốn từ vô vi đến, lại từ vô vi đi. Vô vi là chỉ cho pháp thân bất sanh bất diệt. Như vậy hỏi thân này từ đâu đến ? Đáp: từ chỗ không sanh diệt đến. Chết trở về đâu, trở về chỗ không sanh diệt. Trả lời như vậy chúng ta đừng lầm rồi bị kẹt. Trở về vô vi là khi nào chúng ta không c̣n tạo nghiệp. Nếu c̣n tạo nghiệp th́ vẫn phải đi trong sanh tử luân hồi. Nay ngộ thân vô vi, thường trụ chỗ vô vi. Nghĩa là ngộ cái lư không sanh diệt th́ thường trụ ở chỗ không sanh diệt tức là hằng sống với pháp thân.

            Có vật trước trời đất,

            Không h́nh vốn lặng yên.

            Hay làm chủ muôn vật,

            Chẳng theo bốn mùa dời.

Âm :

            Hữu vật tiên thiên địa,

            Vô h́nh bổn tịch liêu.

            Năng vi vạn vật chủ,

            Bất trục tứ thời diêu.

Phó Đại Sĩ

Bài kệ này của ngài Phó Đại Sĩ chớ không phải của ngài Chân Nguyên.

Có vật trước trời đất, không h́nh vốn lặng yên. Khi trời đất chưa sanh là đă có pháp thân. Pháp thân không h́nh tướng, vốn lặng lẽ yên tịnh. Hay làm chủ muôn vật, chẳng theo bốn mùa dời. Nghĩa là Pháp thân (vô vi) của chúng ta nó có trước trời đất, nó không tướng mạo mà thường yên lặng, nó làm chủ muôn vật và không bị thời tiết bốn mùa chi phối.

Có h́nh, giả chóng mất,

            Không tướng, thật lâu bền.

            Trời đất mặc tạo hóa,

            Pháp thân thường trụ luôn.

Âm :

            Hữu h́nh giả tốc vong,

            Vô tướng thật cửu trường.

            Càn khôn nhậm tạo hóa,

            Pháp thân nguyên trụ thường.

Có h́nh, giả chóng mất, không tướng, thật lâu bền. Cái ǵ có h́nh tướng th́ hư dối, v́ hư dối nên không tồn tại lâu dài, cái ǵ không có tướng mạo th́ tồn tại bất diệt. Vậy chúng ta kiểm lại trong thân chúng ta xem cái nào có h́nh tướng, cái nào không h́nh tướng. Sắc thân của chúng ta do bốn đại duyên hợp có h́nh tướng, cho nên nó hư dối chóng hoại. Nhưng nơi thân chúng ta có cái hay thấy hay nghe, cái đó không có h́nh tướng, cho nên không có ǵ phá hoại được, đó là Pháp thân chân thật của mỗi người. Trời đất mặc tạo hóa, Pháp thân thường trụ luôn. Ở trong khoảng trời đất này mặc cho tạo hóa xoay vần, nhưng Pháp thân th́ thường trụ không mất. Pháp thân tức là cái hay thấy hay nghe của mỗi người.

            Trước trời đất, mẹ cha chưa sanh,

            Tịch quang tṛn lặng ấy nguồn linh.

            Rộng lớn vô vi trùm pháp giới,

            Có duyên đáng độ ứng theo h́nh.

Âm :

            Thiên địa phụ mẫu vị sanh tiền,

            Tịch quang viên trạm thị linh nguyên.

            Quảng đại vô vi chu pháp giới,

            Ứng vật tùy h́nh độ hữu duyên.

Bài này diễn tả Pháp thân thường trụ. Trước trời đất, mẹ cha chưa sanh, tịch quang tṛn lặng ấy nguồn linh. Pháp thân có trước khi có trời đất, trước khi cha mẹ sanh, Pháp thân lặng lẽ sáng suốt nên gọi là nguồn linh. Rộng lớn vô vi trùm pháp giới, có duyên đáng độ ứng theo h́nh. Pháp thân không tướng mạo nhưng rộng lớn trùm cả pháp giới, tùy theo chúng sanh nào có duyên th́ ứng thân hóa độ, tùy theo loại, theo h́nh tướng mà hiện ra. Tóm lại, Pháp thân chưa từng sanh diệt nên nó có trước trời đất, trước khi cha mẹ sanh thân này, nó lặng lẽ trong sáng trùm khắp tất cả, và tùy duyên ứng hiện thân để hóa độ chúng sanh.

            Sáng siêu nhựt nguyệt vững như như,

            Soi suốt càn khôn rực thái hư.

            Phật với chúng sanh đều một tánh,

            Tṛn đồng không thiếu cũng không dư.

Âm :

            Minh siêu nhựt nguyệt trấn như như,

            Chiếu triệt càn khôn thước thái hư.

            Phật dữ chúng sanh giai nhất tánh,

            Viên đồng vô khiếm diệc vô dư.

Sáng siêu nhật nguyệt vững như như, soi suốt càn khôn rực thái hư. Pháp thân sáng suốt hơn mặt trời mặt trăng, nó an trụ không có ǵ làm cho nó dao động, nên nói vững như như. Mặt trời mặt trăng c̣n bị mây che khuất, c̣n pháp thân th́ sáng soi cả càn khôn vũ trụ không có chỗ nào thiếu vắng. Phật với chúng sanh đều một tánh, tṛn đồng không thiếu cũng không dư. Phật và chúng sanh đồng một tánh sáng suốt, không thiếu không dư. Như một trăm ngọn đèn đồng một tánh sáng, ánh sáng giống nhau nhưng h́nh tướng của ngọn đèn khác nhau. Cũng vậy, Phật và chúng sanh tướng mạo khác nhau, nhưng tánh giác th́ đồng nhau.

            Sáng ngời một kẻ chủ nhân ông,

            Lặng yên chẳng động ở Linh cung.

            Trong đây nếu được không ngăn ngại,

            Bản thể thiên nhiên tự rỗng không.

Âm :

            Hoàng hoàng nhất cá chủ nhân ông,

            Tịch nhiên bất động tại Linh cung.

            Đăn đắc thử trung vô quái ngại,

            Thiên nhiên bản thể tự hư không.

Sáng ngời một kẻ chủ nhân ông, lặng yên chẳng động ở Linh cung. Nghĩa là chúng ta đều có tánh sáng suốt rạng ngời, tánh sáng suốt rạng ngời đó là chủ nhân ông của chúng ta. Cho nên Thiền sư Sư Nhan suốt ngày ngồi trên tảng đá thỉnh thoảng tự gọi: “Ông chủ !”. Lại ứng thinh: “Dạ !”. Bèn bảo: “Tỉnh tỉnh, chớ bị người lừa gạt !”, để nhắc nhở ḿnh đừng quên ông chủ sáng suốt của ḿnh. Ông chủ đó sáng suốt, mà lặng yên ở Linh cung. Linh là sáng suốt, tánh giác sáng suốt lặng lẽ nên nói là Linh cung chớ không có cung nào khác cả. Trong đây nếu được không ngăn ngại, bản thể thiên nhiên tự rỗng không. Nếu ở trong chỗ chân thật không ngăn ngại th́ bản thể tự rỗng không, rỗng không mà sáng suốt chớ không phải không ngơ. Những bài trên  nói  về  Pháp thân, kế đến Ngài phối hợp tinh thần Tịnh độ.

            Di Đà tự tánh vốn như như,

            Rỗng lặng sáng tṛn rực thái hư.

            Cha mẹ chưa sanh, mày mặt thật,

            Trở về đâu chẳng gặp y ư ?

Âm :

            Di Đà tự tánh bổn như như,

            Không tịc viên quang thước thái hư.

            Phụ mẫu vị sanh chân diện mục,

            Đông Tây qui khứ tất phùng cừ.

Di Đà tự tánh vốn như như, rỗng lặng sáng tṛn rực thái hư. Tự tánh Di Đà là chỉ cho tánh giác của chính ḿnh, tự tánh ấy tuổi thọ vô lượng, v́ nó vốn như như, ánh sáng vô lượng v́ nó vốn tṛn sáng. Hơn nữa tự tánh Di Đà rỗng rang lặng lẽ mà sáng rực cả bầu trời. Cha mẹ chưa sanh, mày mặt thật, trở về đâu chẳng gặp y ư ? Mày mặt thật là chỉ tự tánh, khi cha mẹ chưa sanh đă có mày mặt thật rồi. Khi trở về tức là khi chúng ta quay lại với chính ḿnh th́ gặp được mày mặt thật chớ có ǵ lạ đâu. Bản tánh sáng suốt, Pháp thân, tự tánh Di Đà, chủ nhân ông v.v... bao nhiêu tên gọi cũng đều chỉ cái ấy. Nếu chúng ta nhận ra tánh giác th́ mọi điều mong muốn  đều  được  viên măn như ư.

            Quang minh lặng chiếu khắp hà sa,

            Phàm Thánh đồng về chung một nhà.

            Pháp tánh viên dung trùm sát hải,

            Lặng trong thường trụ tát-bà-ha.

Âm :

            Quang minh tịch chiếu biến hà sa,

            Phàm Thánh đồng quy cộng nhất gia.

            Pháp tánh viên dung chu sát hải,

            Trạm nhiên thường trụ tát-bà-ha.

Bài kệ này nguyên bản chữ hán. Hai câu Quang minh lặng chiếu khắp hà sa, phàm Thánh đồng về chung một nhà là hai câu đầu của bài kệ tám câu của Tú Tài Trương Chuyết tŕnh kiến giải. Ở đây ngài Chân Nguyên mượn hai câu đầu của Tú Tài Trương Chuyết, rồi Ngài thêm hai câu sau. Ngài dẫn cái thấy của người xưa cộng với cái thấy của ḿnh để diễn tả Pháp thân bất diệt. Ngài nói Pháp thân sáng suốt lặng lẽ chiếu soi khắp cả thế gian, ai cũng có Pháp thân nên nói phàm Thánh đồng chung một nhà, pháp tánh viên dung trùm sát hải, lặng trong thường trụ tát-bà-ha. Pháp tánh chỉ cho Pháp thân của mọi người, nó trùm khắp cơi nước nhiều như biển cả, nó lặng lẽ trong sáng mà thường trụ viên măn. Ư Ngài nói trong bài kệ này là tất cả chúng ta ai cũng có sẵn pháp tánh, pháp tánh ấy sáng suốt trùm khắp nên nói là chung một nhà. Nếu nhận được nó th́ mọi điều mong muốn được như ư viên măn.

            Một cái xưa nay, một cái không,

            Trong không ẩn hiện thể lại đồng.

            Không đầu không cuối không bờ mé,

            Thường lặng sáng luôn thường biến thông.

Âm :

            Nhất cá tùng lai nhất cá không,

            Không trung ẩn hiện thể hoàn đồng.

            Vô đầu vô vĩ vô biên tế,

            Thường tịch thường quang thường biến thông.

Một cái xưa nay, một cái không, trong không ẩn hiện thể lại đồng. Nghĩa là cái mà từ xưa  nhẫn đến ngày nay nó không có h́nh tướng, có khi ẩn có khi hiện mà bản thể giống nhau. Không đầu không cuối không bờ mé, thường lặng sáng luôn thường biến thông. Trải qua ba thời quá khứ hiện tại vị lai nó không có giới hạn, nó thường trong lặng thông suốt không ngăn ngại. Đó là diệu dụng của Pháp thân.

            Trong ánh tịch quang viên măn giác,

            Trên đảnh Tỳ-lô mặc tung hoành.

            Hiện tại Như Lai luôn đối diện,

            Tùy cơ cảm đến cứu quần sanh.

Âm :

            Thường tịch quang trung viên măn giác,

            Tỳ-lô đảnh thượng nhậm tung hoành.

            Đương xứ Như Lai hằng đối diện,

            Tùy cơ phó cảm cứu quần sanh.

Trong ánh tịch quang viên măn giác, trên đảnh Tỳ-lô mặc tung hoành. Ánh tịch quang là ánh sáng trong trẻo sáng suốt chỉ cho tánh giác viên măn của chúng ta, nên gọi là viên măn giác. Tỳ-lô là Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân, nếu sống được với Pháp thân th́ ngang dọc tự do không có ǵ ngăn ngại, tức là sống với ông Phật của chính ḿnh th́ được tự do tự tại. Hiện tại Như Lai luôn đối diện, tùy cơ cảm đến cứu quần sanh. Như lai luôn đối diện tức là Phật hiện nơi tai, nơi mắt... Ở tất cả các cơ quan đều có Phật mà chúng ta không biết. Phật hiện tiền không lúc nào thiếu vắng, đầy đủ diệu dụng tùy theo căn cơ, tùy theo cảm ứng mà cứu độ chúng sanh.

            Tịnh độ rành rành ngay trước mắt,

            Chẳng nhọc khảy tay đến Tây thiên.

            Pháp thân trang trọng siêu ba cơi,

            Hóa hiện Di Đà ngồi chín sen.

Âm :

            Tịnh độ phân minh tại mục tiền,

            Bất lao đàn chỉ đáo Tây thiên.

            Pháp thân nghiễm hỷ siêu tam giới,

            Hóa hiện Di Đà tọa cửu liên.

Tịnh độ rành rành ngay trước mắt, chẳng nhọc khảy tay đến Tây thiên. Chúng ta tu cứ ngỡ rằng Tịnh độ ở cơi Cực-lạc phương Tây và mong cầu về bên ấy. Ở đây Ngài nói Tịnh độ ở ngay trước mắt. Thế nào là Tịnh độ ở trước mắt ? Tại chúng ta đang sống trong phiền năo nên nh́n cái ǵ cũng thấy phiền năo mà không thấy Tịnh độ. Ví dụ ngày nào trời nắng nóng nực, chúng ta than: trời nóng quá, phải đi tưới cây kiểng, phải đổ mồ hôi... khổ cực quá ! Trời đổ mưa chúng ta than: trời mưa đường sá lầy lội, đi lại khó khăn, đi chơi không được... Như vậy nắng không ưa mà mưa cũng không chịu, chúng ta chỉ thấy phiền năo chớ đâu có thấy Tịnh độ ! Lại thêm hôm nay nh́n ra vườn thấy cây kia khô cành, cây nọ bị sâu ăn, phải lo săn sóc v.v... khổ quá ! Nhiều lúc nh́n cảnh vật tôi liên tưởng đến những chuyện như trên cũng thấy tức cười. Thiên nhiên rất là vô tư, đâu có vui buồn, sướng khổ, thời tiết cũng vô tư mưa nắng, cây cối đủ duyên th́ tươi tốt, thiếu duyên th́ sâu bệnh. Tại chúng ta lúc nào cũng muốn tất cả cảnh vật phải theo ư của ḿnh. Do tâm quá tham cầu như ư nên lúc đi chơi th́ muốn trời nắng ráo, lúc tưới cây th́ muốn trời mưa to để khỏi tưới cho khỏe. Chúng ta muốn nhiều quá, muốn không được th́ sanh phiền năo rồi trách trời trách đất. Trời đất chẳng có tâm tranh giành hơn thua, thế mà chúng ta c̣n không bằng ḷng, huống là những người phàm sống chung quanh ḿnh, họ có lúc khỏe lúc mệt, khi vui khi buồn, làm sao vừa ư ḿnh được ! Lúc ḿnh vui thấy người khác buồn là bực bội, lúc ḿnh buồn thấy người khác cười cũng tức. Đối với thiên nhiên chúng ta không vừa ư, đối với người chung quanh chúng ta không bằng ḷng, làm sao ta thấy Tịnh độ ở trước mắt. Nếu chúng ta chịu khó tu, gỡ những phiền năo bỏ đi th́ nh́n cái ǵ cũng đẹp, trời mưa th́ có vẻ đẹp của trời mưa, trời nắng có vẻ đẹp của trời nắng. Người vui có vẻ đẹp của người vui, người buồn có vẻ đẹp của người buồn, thiên nhiên có quyền mưa nắng, người đời có quyền buồn vui. Nếu ḿnh ôm phiền năo nh́n trời đất thiên hạ th́ thấy cái ǵ cũng phiền năo cả. Ở chung năm bảy chục người, đi ra đi vào đụng với  nhau, cả ngày buồn giận, tu như vậy bao giờ hết phiền năo ? Tu không khó, khó là tại chúng ta mang cặp kính màu phiền năo, nếu chịu gỡ cặp kính phiền năo để xuống th́ chúng ta thấy Tịnh độ ở trước mắt. Ví dụ chúng ta muốn yên tĩnh nên t́m chỗ vắng ngồi, chợt có người đến vỗ vai hỏi chuyện. Ḿnh đang muốn yên mà lại vỗ vai hỏi chuyện làm mất sự yên tĩnh, nên nổi giận. Bị vỗ vai đă không yên rồi, mà nổi giận lại càng bất an. Thôi th́ người ta vỗ vai hỏi chuyện, ḿnh trả lời câu hỏi của người; từ tâm thanh tịnh lưu xuất nói năng th́ đâu có lỗi. Nếu gặp người hỏi chuyện tào lao, hơn thua phải quấy th́ ta chỉnh lại đừng theo là tốt. Khéo biết tu th́ trên thế gian này mở mắt nh́n người nh́n cảnh đâu đâu cũng là Tịnh độ. Nếu không biết tu cứ đeo mang phiền năo th́ nh́n đâu cũng thấy khổ: Thấy người vui ḿnh có tâm sự buồn cho nên bực bội là khổ. Ḿnh đang vui thấy người khác mặt mày bí xị, ḿnh không hài ḷng cũng khổ. Như vậy người ở ngoài làm cho ta khổ hay chính ta nh́n người qua cặp kính phiền năo của ḿnh mà khổ ? Hơn nữa vui buồn là chuyện của mỗi người, tại sao ḿnh vui buồn cũng muốn cho người vui buồn theo ḿnh ? Xét kỹ ở thế gian này không ai giống ai, mặt mày không giống, cá tính không giống, người ưa cái này kẻ thích cái kia. Ngồi ăn chung một bàn, người thích đậu hủ, kẻ ưa rau muống luộc chấm tương... Khẩu vị không ai giống ai. Như vậy muốn người giống ḿnh, họ không giống th́ phiền năo có vô lư không ? Chúng ta phải gỡ cặp kính phiền năo th́ thấy cơi Tịnh độ ở trước mắt, thấy Tịnh độ trước mắt th́ khảy móng tay là thấy cơi Tây phương liền.

Pháp thân trang trọng siêu ba cơi, hóa hiện Di Đà ngồi chín sen. Nếu thấy Phật ngồi chín phẩm ṭa sen, đó là thấy Phật hóa thân. Phật pháp thân th́ trùm khắp vượt qua ba cơi, không có chia cấp bậc. Hiểu như vậy, chúng ta mới thấy việc tu hành không phải đi t́m ở đâu xa, mà ngay ở trước mắt. Ngày nào không có phiền năo th́ người vật xung quanh ḿnh đều tốt đẹp. C̣n ngày nào phiền năo th́ người vật xung quanh ḿnh đều xấu xa, thấy người nào cũng dễ ghét, thấy vật ǵ cũng không bằng ḷng. Như vậy là do phiền năo làm gốc, khiến cho người vật xung quanh xấu xa đen tối.

Hỏi: Ở trong ba cơi, trên trời dưới đất, cơi này phương khác, sáu đường bốn châu, quần sanh muôn loài, tất cả đều học Phật, chẳng biết thuở xưa Phật trước học ai mà chứng Bồ-đề, đời tôn là Phật ?

Câu hỏi này nói gọn cho dễ hiểu: Hiện giờ tất cả chúng ta tôn sùng Phật, học theo đức Phật. Vậy khi xưa Phật học ai mà thành Phật ?

Đáp: Phật vốn không học, do tỏ  ngộ  trí tự nhiên vô sư, pháp thân rộng lớn, tṛn đồng thái hư, chân không trong lặng nhiệm mầu, lặng sáng không ǵ trên, cao vượt khỏi ba cơi, ngang khắp mười phương, suốt cả xưa nay, nghiễm nhiên thường trụ, vô vi vô tướng, chánh giác Bồ-đề, chẳng sanh chẳng diệt, ứng hiện c̣n măi, tuyệt không ǵ sánh bằng, đời tôn là Phật. Lại nói: Phật là tánh giác, chúng sanh là t́nh mê. Phật giác ngộ pháp tánh tṛn sáng, lóng trong, nhất như không tịch; chúng sanh th́ mê t́nh vọng khởi măi măi thọ thân trong ba cơi. Nên kinh Lăng Nghiêm nói: “Thanh tịnh sẵn vậy, tại sao chợt sanh núi sông, quả đất ?”.

Hỏi xưa đức Phật học ai, đáp rằng đức Phật không học ai, Ngài tỏ ngộ trí tự nhiên vô sư rồi Ngài nhận ra Pháp thân rộng lớn tṛn đồng thái hư, thường trụ chẳng sanh chẳng diệt, nên người đời tôn xưng Ngài là Phật.

Như chúng ta đă biết, ngày xưa đức Phật lúc c̣n là Thái tử, Ngài rời hoàng cung để đi tu, Ngài cũng t́m tới các vị đạo sĩ để tu. Đầu tiên Ngài gặp nhóm đạo sĩ Bạt-già, nhóm này tu khổ hạnh để cầu sanh về cơi Trời chớ không cầu giác ngộ, giải thoát. Thái tử thấy cách tu của họ không đúng với mục tiêu ḿnh nhắm, nên Ngài bỏ đi. Ngài t́m đến núi Tần-già gặp đạo sĩ A-la-lam, chỉ trong một thời gian ngắn Thái tử đă thâu nhiếp hết pháp yếu của A-la-lam chứng từ sơ thiền đến vô sở hữu xứ định. Nhưng hướng tu của A-la-lam không đạt đến chỗ giải thoát như ước nguyện của Thái tử, nên Ngài từ giả ra đi, t́m đến đạo sĩ lừng danh là Uất-đầu-lam-phất. Ở Uất-đầu-lam-phất Ngài tu không bao lâu đạt được tầng Thiền cao nhất là phi tưởng phi phi tưởng định. Pháp tu Uất-đầu-lam-phất không khác đạo sĩ A-la-lam, nên Thái tử cũng từ giả vị này vào rừng tu khổ hạnh một ḿnh. Thái tử tu khổ hạnh trong rừng theo sử kể lại đến sáu năm, thân thể c̣n da bọc xương mà vẫn không đạt được mục đích, cho nên Ngài từ bỏ. Sau cùng Ngài ăn uống lại b́nh thường rồi đến dưới gốc cây Bồ-đề ngồi Thiền, sau bốn mươi chín ngày đêm Ngài chứng đạo tức là tỏ ngộ pháp thân. Như vậy sự tỏ ngộ của Ngài không có ai dạy, nên Ngài tuyên bố ta học đạo không có thầy. Do thiền định mà trí vô sư Ngài sáng tỏ, tức là ngộ được Pháp thân thành Phật. Điều này cho chúng ta thấy rằng mục đích của Thái tử đi tu là giải thoát sanh tử, muốn đạt được điều đó phải nhận ra Pháp thân bất sanh bất diệt. Thế nhưng các vị đạo sĩ dạy tu cuối cùng chỉ chứng đến phi tưởng phi phi tưởng định, nên Ngài không chấp nhận từ giă họ ra đi. V́ giác ngộ thành Phật tức là ngộ được trí vô sư hay Pháp thân không sanh không diệt tṛn sáng trùm khắp. Từ đó Ngài tuyên bố thoát ly sanh tử, không c̣n sanh trở lại trong tam giới nữa. Mục tiêu mà Ngài t́m kiếm bao năm đă được khám phá. Như vậy thành Phật, tỏ ngộ trí vô sư, hay chứng pháp thân tên gọi tuy khác nhưng chỉ có một kết quả là giác ngộ giải thoát.

Nơi Thái tử có trí vô sư, vậy nơi chúng ta có không ? - Trí vô sư ai ai cũng có, muốn chứng được chúng ta phải thiền định như Thái tử Tất-đạt-đa khi xưa. Chúng ta tu chủ yếu là gạn lọc hết vọng tưởng cho tâm an định. Khi tâm an định trí vô sư hiển hiện rơ ràng, chúng ta thấy biết đúng như thật. Thấy biết như thế không ai dạy chúng ta cả, Phật Tổ, thầy bạn chỉ trợ duyên thôi, chính chúng ta phải tự tu, chớ không ai tu thế được. Chúng ta học nơi sách vở th́ sách vở chỉ là phương tiện, c̣n tu để phát minh trí vô sư mới là đạt đến chỗ cứu cánh. Như những nhà bác học muốn có những phát minh mới, họ phải đóng cửa pḥng thí nghiệm, ngồi trong đó nghiền ngẫm suốt tháng suốt năm, cho tới một lúc nào đó họ phát minh ra điều mà họ đang t́m kiếm. Vậy sự phát minh đó ai dạy ? Nếu có người dạy th́ không gọi là phát minh, không có người dạy mà biết là do trí vô sư phát sáng chớ ǵ ? Như vậy bất luận là người thế gian hay người tu nếu dồn hết tâm lực vào một việc, tâm an định th́ trí vô sư nơi ḿnh hiện sáng, chớ không có ǵ lạ hết. Ai có trải qua những kinh nghiệm này th́ không có nghi ngờ. Nếu ngộ lớn th́ nhận ra pháp thân, ngộ nhỏ th́ chợt hiểu nghĩa lư thâm sâu của câu kệ hay bài kinh ḿnh học từ lâu mà không hiểu. Lúc đó đâu có thầy dạy, chỉ do tâm định rồi phát sáng, đó là trí vô sư đă có sẵn nơi mỗi người, không phải là cái mới lạ hay ai cho, cũng không phải một ḿnh Thái tử mới có mà chính là cái có sẵn nơi mỗi người. Thái tử ngộ trí vô sư nên người đời mới tôn Ngài là Phật. Trí vô sư chỉ cho Phật pháp thân, Phật pháp thân mới không sanh không diệt. C̣n Phật Thích Ca ở Ấn Độ th́ có sanh có diệt, nếu Ngài không diệt th́ ngày nay chúng ta gặp Ngài. Như vậy, tất cả chúng ta ai cũng có Phật pháp thân và ai cũng có sắc thân phàm thế tục, sắc thân phàm thế tục th́ tạm bợ sanh diệt, pháp thân th́ bất sanh bất diệt thoát ly sanh tử mới là tối thượng, ai nhận ra Phật pháp thân và hằng sống với pháp thân gọi là chứng quả Phật. C̣n nếu mang thân này mà không ngộ được Phật pháp thân, dù cho tài giỏi tới đâu cũng chưa phải là Phật. Sau đây Ngài dẫn kinh Lăng Nghiêm: Bản thể vốn thanh tịnh, tại sao chợt sanh ra núi sông, quả đất, con người muôn vật. Th́ đây trả lời:

Dạy rằng:

Chân tánh lóng trong, vốn không có mờ tối. Vọng từ không dấy lên mà cảm đến gió thức. Song do gió thức thổi cho tâm động, nhân tâm lay động mà kích phát thêm gió cảnh. Nhân gió cảnh nổi dậy mănh liệt nên khởi vọng niệm. Do một niệm vọng sanh mà ba cơi bắt đầu thành lập. Ba cơi bên trong là sắc thân của ta; ba cơi bên ngoài tức là trời đất, thế giới, núi sông, quả đất, hết thảy muôn vật.

Đứng về mặt chân tánh th́ bản thể lóng trong không mờ tối, nhưng vọng từ tâm rỗng lặng dấy khởi, do đó sanh ra gió thức, gió thức thổi làm cho tâm động, do tâm dao động kích phát thêm gió cảnh, nhân gió cảnh nổi dậy mănh liệt nên khởi vọng niệm. Tại sao tâm đang yên lặng lại chợt sanh gió thức ? Ví dụ như chúng ta đang ngồi yên, tâm không suy nghĩ ǵ hết. Bất chợt nhớ đến chuyện hôm qua, vừa dấy niệm nhớ là thức phân biệt theo liền, nào là chuyện hôm qua hay dở, tốt xấu, đúng sai, thành ra có vọng tưởng nhất định. Đó là gặp gió cảnh thổi tới làm tâm dao động. Tâm dao động rồi khởi suy nghĩ thêm về việc xảy ra hôm qua hay dở, đúng sai, tốt xấu... Vọng niệm dấy khởi liên miên, nên vọng sanh ra ba cơi. Ba cơi bên trong là sắc thân, ba cơi bên ngoài là trời đất núi sông muôn vật. Như vậy để thấy rằng có lúc tâm ḿnh rất yên tỉnh, chợt có một niệm dấy lên tức là gió thức nổi dậy, nếu chúng ta chạy theo niệm phân biệt th́ gió nghiệp cảnh thổi đến làm cho tâm ta dao động nhiều hơn.

Ví dụ chúng ta đang ngồi yên chợt nhớ hôm qua cô A nói ḿnh câu: Cô đó giả bộ tu hành. Vọng niệm này vừa dấy lên chúng ta liền phân biệt cô A nói như vậy là khinh khi ḿnh. Niệm phân biệt tiếp theo là động lực thúc đẩy ḿnh đứng dậy đi kiếm cô A để trách móc. Do đó sanh ra đủ thứ chuyện lôi thôi. Như vậy để thấy rằng chúng ta ai cũng sẵn có tâm thể thanh tịnh, nhưng chợt bất giác để vọng niệm dấy khởi, mà vọng niệm dấy khởi th́ có đủ thứ âm thanh h́nh tướng, đủ chuyện phải quấy, hơn thua, vui buồn, sướng khổ v.v... Nếu người biết tu ngay lúc vừa dấy niệm biết nó là hư dối, không theo th́ lần hồi vọng niệm sẽ thưa dần. Đối với cảnh bên ngoài cũng bớt tâm phân biệt trở về với cái tâm nguyên thủy sẵn có của ḿnh. Tóm lại khởi niệm phân biệt, nên tạo nghiệp đi trong sanh tử. Niệm khởi không theo th́ sống với tâm như như dứt sanh tử, rất đơn giản. Thế nên biết th́ thấy ư nghĩa của sự tu hành, không biết th́ thấy cực nhọc, ngồi lâu đau chân, gục lên gục xuống không ích lợi chi cả. Tuy nhiên, tu đạt tới chỗ thông suốt rồi th́ công phu nhẹ nhàng và tâm lúc nào cũng sáng suốt an vui.

Giải rằng:

Thanh tịnh đến tột cùng th́ sáng thông, đạt tịch và chiếu th́ bao gồm cả hư không, rồi nh́n trở lại thế gian, giống như việc trong mộng. Pháp thân trong trẻo và lặng lẽ vốn không có nhơ sạch riêng khác, chân tánh lắng trong, đâu có Thánh phàm sai biệt. Đều bởi có mê ngộ, đến nổi khiến thành chẳng đồng. Kinh nói: Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Từ không mà khởi vọng, rồi vọng sanh mọi thứ sắc. Đă trái với lẽ không sanh không hóa, lại hằng có hóa, có sanh. Trọn là buông tâm phóng chạy, hoàn toàn không giác tánh hồi quang, lấy huyễn làm chân, trái không theo sắc. Bản tánh chân như từ ban sơ, vốn tṛn sáng, rỗng lặng vô vi, từ khi huyễn có sắc thân, vọng thức, mà kết nhân kết quả, vọng sự vọng lư, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp, thấm thêm vào sự mê hoặc mà thành thân, đi đi lại lại, theo nghiệp thọ báo. Thức thần đă theo nghiệp, rồi theo nghiệp thọ thân, ra nơi này vào nơi kia, bỏ kia sanh đây, lên xuống trong sáu đường, qua lại nơi ba cơi lành dữ chẳng đồng, muôn loài sai khác, giàu sang nghèo hèn, tùy hạnh nghiệp mà sanh, chẳng phải không nhân mà mong được quả. Thế gian mộng huyễn, há được dài lâu ? Muốn chứng chân thường, hăy xuất gia theo Phật, học đạo vô thượng, vượt cao lên quả thù thắng. Đạo vô thượng, tức là pháp tánh chân như. Nếu ngộ pháp tánh chân như, trong trẻo tṛn đầy, rỗng rang vắng lặng, th́ vọng t́nh dần dần dứt sạch, chánh giác trong sáng tṛn thành, không xưa không nay, vượt cao lên ba cơi, chẳng sanh chẳng diệt, ngang khắp mười phương, tṛn đồng thái hư, b́nh đẳng như vậy, hằng chứng Bồ-đề.

Thanh tịnh đến tột cùng th́ sáng thông, đạt tịch và chiếu th́ bao gồm cả hư không, rồi nh́n trở lại thế gian, giống như việc trong mộng. Nếu tâm thanh tịnh th́ thấu suốt lư tịch và chiếu. Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác nói “tỉnh tỉnh lặng lặng phải, tỉnh tỉnh vọng tưởng sai”. Tỉnh tỉnh là chiếu, lặng lặng là tịch. Ngược lại “lặng lặng tỉnh tỉnh phải, lặng lặng hôn trầm sai”. Lặng lặng là tịch, tỉnh tỉnh là chiếu. Đó là gốc của sự tu, nếu thiếu một trong hai cái th́ sự tu không đạt kết quả. Tịch mà chiếu, chiếu mà tịch. Chúng ta ngồi Thiền tỉnh sáng mà không vọng tưởng th́ đúng, c̣n tỉnh táo mà vọng tưởng đủ thứ th́ sai. Ngược lại nếu ngồi Thiền tâm lặng lẽ mà tỉnh sáng th́ đúng, nếu tâm lặng lẽ nhưng mơ mơ ngủ gục th́ sai. Như vậy chiếu mà tịch hoặc tịch mà chiếu th́ đúng, nếu chiếu mà loạn tưởng hoặc tịch mà hôn trầm vô kư th́ sai. Tự ḿnh xét lại công phu của ḿnh th́ biết đúng sai, không nên để lệch hai yếu tố chính đó. Chúng ta rà soát lại pháp ḿnh đang tu th́ không lầm lẫn. Nếu đạt được tịch và chiếu th́ bao gồm cả hư không, nh́n lại thế gian thấy như việc trong mộng.

Những pháp hữu vi hữu h́nh th́ hữu hoại, vô thường chi phối không chừa một ai, từ những cảnh vật chung quanh cho đến thân này, chẳng khác nào nằm ngủ mê, mộng thấy đủ thứ, khi thức dậy th́ không có ǵ cả. Đó là lẽ thật mỗi người chúng ta nên chiêm nghiệm cho kỹ để lo tu.

Pháp thân trong trẻo và lặng lẽ vốn không có nhơ sạch riêng khác, chân tánh lắng trong, đâu có Thánh phàm sai biệt. Đều bởi có mê ngộ, đến nỗi khiến thành chẳng đồng. Kinh nói: Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng phải có. Từ không mà khởi vọng, rồi vọng sanh mọi thứ sắc. Đă trái với lẽ không sanh không hóa, lại hằng có hóa, có sanh. Trọn là buông tâm phóng chạy, hoàn toàn không giác tánh hồi quang, lấy huyễn làm chân, trái không theo sắc.

Ư đoạn này nói rằng chúng ta có tánh giác sáng suốt mà bỏ giác chạy theo mê, tức là bối giác hiệp trần. Pháp thân hay chân tánh của chúng ta vốn trong trẻo lặng lẽ, không nhơ sạch không Thánh phàm, bởi có mê có ngộ nên chẳng đồng nhau. Thân tứ đại chẳng thật có, năm uẩn sắc, thọ, tưởng, hành, thức vốn không. Do từ cái thể chân không không giữ tự tánh, nên khởi vọng tưởng thành ra có đủ thứ sắc, như vậy đă trái với cái lẽ không sanh không hóa của pháp thân, cho nên sanh sanh hóa hóa liên tục. Chúng ta măi buông tâm chạy theo ngoại cảnh, không chịu xoay lại tánh giác của ḿnh - tức là không hồi quang phản chiếu. Chúng ta lầm cho cái sắc thân bốn đại năm uẩn tạm bợ giả dối này là thật, bỏ cái thể không, chạy theo h́nh sắc bên ngoài. Như trước có nói chúng ta chạy theo âm thanh sắc tướng mà quên ḿnh có cái hay nghe hay thấy không tướng mạo, không có ǵ phá hoại được nó.

Bản tánh chân như từ ban sơ, vốn tṛn sáng, rỗng lặng vô vi, từ khi huyễn có sắc thân, vọng thức, mà kết nhân kết quả, vọng sự vọng lư, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp, thấm thêm vào sự mê hoặc mà thành thân, đi đi lại lại, theo nghiệp thọ báo. 

Đoạn này Ngài nói cũng hết t́nh hết lư. Từ ban sơ bản tánh của chúng ta vốn tṛn sáng rỗng lặng, nhưng khi huyễn có sắc thân rồi th́ sanh vọng thức, kết nhân kết quả và sanh ra đủ thứ vọng sau này. Ngài thấy thân là huyễn, c̣n chúng ta thấy thân huyễn hay thật ? Trả lời được điều này là xác định rơ rệt hướng đi của ḿnh. Nếu thấy thân huyễn th́ đang đi trên con đường giác ngộ, nếu thấy thân thật th́ đang đi trên con đường mê lầm. Tuy nhiên nhiều khi chúng ta tự mâu thuẫn với ḿnh, miệng th́ nói tôi muốn đi đường giác ngộ, nhưng ư lại tham đắm sắc thân, v́ cho sắc thân là thật. Như vậy, tu th́ muốn giác ngộ, mà thấy sắc thân này là thật, ư muốn nó tồn tại lâu dài, thế là mê. Do đó chúng ta thường bị cái mâu thuẫn làm khổ ḿnh: đi tu th́ nguyện đi theo con đường giác ngộ của Phật Tổ, mà cứ quay đầu nh́n theo hướng mê của phàm phu, làm sao thấy đường giác mà đi ? Cho nên tiến không nổi mà lùi cũng không xong. Có người tu năm bảy năm mà chẳng thấy an lạc chỉ thấy toàn phiền năo ! Thỉnh thoảng tôi nghe một số người tu kể người này sân giận nhiều, người kia lắm phiền năo, người nọ hay căi lẫy với huynh đệ, ít nghe họ nói đến tâm định trí sáng, thấy thân này như huyễn, mọi việc xảy ra không c̣n dính mắc. Nếu nói chuyện đang đi trên đường giác ngộ như ư nguyện ban đầu của ḿnh th́ vui lắm. Như vậy muốn tu tiến chúng ta phải khẳng định hướng nhắm của ḿnh, đi đường nào phải hướng theo lối ấy. Việc này rất dễ và đơn giản, chúng ta nhất định phải chọn một bỏ một: hoặc thấy thân này huyễn, hoặc thấy thân này thật.

Thấy thân huyễn là thấy bằng tâm chớ không phải nói suông bằng miệng. Thấy thân huyễn th́ bị mắng chưởi thậm tệ cũng không buồn, được khen ngợi tâng bốc cũng không mừng, khổ vui được mất không làm động tâm v.v... Nếu miệng nói thân tôi huyễn hóa, nhưng ai chê một câu là mặt bí xị ư không vui, ai khen một lời là mặt mày hớn hở, nhớ măi không quên, đó là thấy thân tôi thật. Cứ lấy cây thước tám gió đo ḷng ḿnh th́ biết rơ ta thấy thân huyễn hay thật. Chúng ta phải mạnh dạn chọn một bỏ một, để khẳng định hướng đi của ḿnh. Trong số Tăng Ni ở đây (Thiền Viện Trúc Lâm), khi đi tu ai cũng phát nguyện đi trên con đường giác ngộ cho đến ngày viên măn, quyết chí như vậy thật là phi thường. Song vào chùa một thời gian cạo tóc, thọ giới xong, lư đáng phải tu tiến, nhưng thỉnh thoảng cũng có người sụt lùi, hoặc lọt hẳn xuống hố mê. Tôi thấy thương quá đưa gậy kéo họ lên, đẩy đi một hồi lại lọt xuống nữa. Cứ kéo lên lọt xuống hoài, thật khổ cho kẻ rơi xuống mà cũng nhọc nhằn cho người kéo lên ! Thế nên tôi mong quí vị phát tâm đi tu phải giữ tâm nguyện như lúc ban đầu th́ thành đạo có dư. Muốn thế phải thật sự thấy thân như huyễn. Chúng ta sống mấy mươi năm tưởng chừng dài lắm, thật ra ngày qua ngày, hết sáng tới tối, loay hoay nh́n lại mấy chục năm thấy như giấc mộng. Nếu thấy thân này như huyễn, cuộc sống như giấc mộng th́ không có chuyện phiền năo xảy ra. Tại không chịu hồi quang phản chiếu, cứ phóng tâm chạy theo cảnh, nên mới sanh ra các thứ: vọng sự vọng lư, vọng tạo vọng làm, vọng nghiệp vọng duyên, vọng năng vọng sở, vọng tưởng vọng chấp, thấm sâu vào tạng thức trở thành mê hoặc, do hoặc tạo nghiệp, mà có thân thọ báo đi trong tam giới.

Thức thần đă theo nghiệp, rồi theo nghiệp thọ thân, ra nơi này vào nơi kia, bỏ kia sanh đây, lên xuống trong sáu đường, qua lại nơi ba cơi lành dữ chẳng đồng, muôn loài sai khác, giàu sang nghèo hèn, tùy hạnh nghiệp mà sanh, chẳng phải không nhân mà mong được quả. Thế gian mộng huyễn, há được dài lâu ? Muốn chứng chân thường, hăy xuất gia theo Phật, học đạo vô thượng, vượt cao lên quả thù thắng.

Đây Ngài nói thêm, nếu chúng ta mê muội th́ thần thức sẽ theo nghiệp thọ thân trong ba cơi sáu đường, tùy theo nghiệp đă tạo mà thọ quả báo tốt xấu khác nhau. Thế nên, trên thế gian từ thân người cho đến cảnh sống chung quanh không ai giống ai cả. Trong đoạn này có một câu. Muốn chứng chân thường, hăy xuất gia theo Phật, tôi xin sửa “Muốn chứng chân thường hăy khéo tu học Phật” cho phù hợp với hoàn cảnh hiện tại. V́ người tại gia hay xuất gia nếu khéo tu học Phật đều có lợi ích. Theo quan niệm của quần chúng, muốn giác ngộ giải thoát th́ phải xuất gia, cạo tóc mặc áo nhuộm vào chùa ở. Như thế th́ những người lỡ có gia đ́nh con cái muốn giác ngộ giải thoát phải làm sao ? Bỏ gánh nặng cho người khác gánh để đi tu phải không ? Một người cho đến một ngàn người như thế th́ ai lo cho gia đ́nh, ai lo xây dựng xă hội đất nước ? Con cái lớn rồi nó tự lo liệu c̣n có thể được, nếu con mới năm ba tuổi bỏ lại cho vợ hoặc chồng nuôi làm sao nuôi nổi ? Có những trường hợp ban đầu ham tu quá bỏ vợ con vô chùa, tu một thời gian thấy vợ con nheo nhóc rồi hoàn tục lo cho vợ con. Như vậy đạo đời ǵ cũng dở dang không trọn vẹn. Cho nên tôi khuyên quí vị đă lỡ có gia đ́nh, muốn giác ngộ giải thoát hăy noi theo gương ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ, Ngài làm quan, thê thiếp nhiều, mà lúc sắp tịch, quí bà khóc lóc, Ngài vẫn tự tại ra đi không chút lưu luyến. Tu như Ngài mới giỏi, học tu theo Phật mà không xa lánh gia đ́nh xă hội, tu như vậy không ai than phiền trách móc ḿnh chi cả. Nếu ai cũng vô chùa tu hết th́ nguy lắm.

Đạo vô thượng tức là pháp tánh chân như. Nếu ngộ pháp tánh chân như, trong trẻo tṛn đầy, rỗng rang vắng lặng th́ vọng t́nh dần dần dứt sạch, chánh giác trong sáng tṛn thành, không xưa không nay, vượt cao lên ba cơi, chẳng sanh chẳng diệt, ngang khắp mười phương, tṛn đồng thái hư, b́nh đẳng như vậy, hằng chứng Bồ-đề.

Đoạn này nói về kiến tánh tức là nhận được bản tánh của ḿnh, nên mới diễn tả bản tánh tṛn sáng trong trẻo lặng lẽ. Nhưng v́ dấy niệm tạo nghiệp mà có sanh tử. Nếu biết thân sanh tử là huyễn hóa, cảnh vật không thật th́ trở về thể tánh trong sáng tṛn lặng ấy. Ngược lại th́ cứ ch́m đắm không biết chừng nào ra khỏi.

            Thân Phật siêu ba cơi,

            Tịch quang đầy thái hư.

            Hiện h́nh trăng trong nước,

            Măi làm thầy trời người.

Âm :

            Phật thân siêu tam giới,

            Tịch quang măn thái hư.

            Hiện h́nh thủy trung nguyệt,

            Vĩnh tác thiên nhân sư.

Thân Phật siêu ba cơi, tịch quang đầy thái hư.

Thân Phật tức là Pháp thân vượt ra ba cơi: dục giới, sắc giới và vô sắc giới, lặng lẽ sáng suốt đầy cả thái hư. Tịch là lặng, quang là sáng tức là tỉnh, ai ngồi Thiền mà tâm lặng và tỉnh là đang sống với Pháp thân của chính ḿnh. Hiện h́nh trăng trong nước, măi làm thầy trời người. Báo thân hay ứng thân do Pháp thân ứng hiện, giống như có bóng mặt trăng hiện trong nước là do mặt trăng thật trên hư không. Ví dụ đêm rằm trời không mây, chúng ta nh́n vào hồ nước trong thấy có bóng mặt trăng hiện dưới đáy nước, mặt trăng dưới đáy hồ nước là bóng chớ không phải mặt trăng thật ? Nếu thật th́ ta thử vớt xem có vớt được không ? Nếu nói không th́ sao có mặt trăng dưới nước ? Thấy có mặt trăng mà vớt không được, cho nên không phải thật có. Thấy rơ ràng có bóng mặt trăng nên không phải thật không. Cũng vậy hóa thân, báo thân của Phật hiện ra để làm thầy trời người đó là từ pháp thân ứng hiện, giống như bóng mặt trăng hiện trong nước, không phải thật có cũng không phải thật không. Cho nên Phật Thích Ca đă thành Phật, thân ba mươi hai tướng tốt sáng chói như vàng ṛng mà vẫn bị vô thường chi phối, ngày nay chỉ c̣n một chút ít xá lợi Phật thờ trong các bảo tháp rải rác trên khắp thế giới mà thôi.

Hỏi: Hai ngôi Phật và pháp, ngôi nào trước, ngôi nào sau ? Nếu nói Phật có trước, Phật này nương theo pháp nào mà được thành đạo nên gọi là Phật ? Nếu bảo pháp có trước, pháp này do Phật nào nói nên gọi là pháp ?

Lại hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ?

Đáp: Phật vốn có trước pháp, cũng có sau pháp.

Hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ?

Đáp: Nếu y cứ chân như thật tế, th́ chân Phật không h́nh, tṛn đồng thái hư, đối diện ở trước mắt, lặng sáng không ǵ trên, đây là Phật thật không h́nh tướng, Phật có trước.

Đoạn này nêu lên câu hỏi: Phật có trước hay pháp có trước, nếu Phật có trước th́ Phật nương pháp nào tu để được thành Phật ? Nếu nói pháp có trước th́ pháp này do Phật nào nói ? Câu trả lời không dứt khoát: Phật có trước pháp mà cũng có sau pháp. Hỏi: Thế nào là Phật pháp trước sau ? Đáp rằng: Nếu y cứ Phật pháp thân th́ Phật có trước.

Lại nói:

            Ta có một thân Phật,

            Người đời ít kẻ biết.

            Không một giọt tro bùn,

            Không một điểm màu sắc.

            Vàng ṛng khó đúc thành,

            Gỗ đá khó chạm khắc.

            Thợ trời tạo chẳng nên,

            Trộm đất trộm chẳng được.

            Nước lửa chẳng can chi,

            Nghiễm nhiên gió chẳng khác.

            Lặng sáng đầy thái hư,

            Đoan nghiêm rất kỳ đặc.

            Tṛn sáng có một thân,

            Hóa thân ngàn trăm ức.

Âm :

            Ngô hữu nhấtt khu Phật,

            Thế nhân thiểu giả thức.

            Vô nhất trích hôi nê,

            Vô nhất điểm thái sắc.

            Hoàn kim nan đào dung,

            Mộc thạch nan tạc khắc.

            Thiên công tạo bất thành,

            Địa đạo thâu bất đắc.

            Thủy hỏa bất thường can,

            Nghiễm nhiên phong bất thắc.

            Tịch quang măn thái hư,

            Đoan nghiêm thậm kỳ đặc.

            Viên minh hữu nhất khu,

            Hóa thân thiên bá ức.

Ngài nói thêm bài kệ để giải thích ư nghĩa Phật có trước: Ta có một thân Phật, người đời ít kẻ biết. Ai cũng có một vị Phật mà ít ai biết đến vị Phật đó. Không một giọt tro bùn, không một điểm màu sắc. Vị Phật đó không do tro bùn làm nên, cũng không có điểm màu sắc ǵ cả. Vàng ṛng khó đúc thành, gỗ đá khó chạm khắc. Dùng vàng ṛng đúc không được vị Phật này, dùng gỗ khắc chạm cũng không được. Thợ trời tạo chẳng nên, trộm đất trộm chẳng được. Thợ khéo ở trên trời cũng không tạo được, mà kẻ trộm ở dưới đất cũng không ăn cắp được vị Phật này. Nước lửa chẳng can chi, nghiễm nhiên gió chẳng khác. Vị Phật này vào nước không ch́m, gặp lửa không cháy, gió thổi chẳng rung rinh. Lặng sáng đầy thái hư, đoan nghiêm rất kỳ đặc. Phật pháp thân lặng lẽ rỗng sáng tṛn đầy như thái hư, rất trang nghiêm và kỳ đặc. Tṛn sáng có một thân, hóa thân ngàn trăm ức. Thể th́ tṛn sáng có một, khi ứng hóa th́ có trăm ngàn muôn ức thân.

Phật pháp thân là Phật thật có sẵn nơi mọi người, chớ không riêng của ai. Về sau, người đời không nhận được Phật pháp thân, nên mới dùng phương tiện đắp thành tượng Phật. Tượng Phật là Phật có h́nh tướng phỏng theo dáng hóa thân hoặc báo thân mà đắp, chớ Phật thật th́ không có thân.

Nên Thiền sư Xuyên Lăo nói: “Phật vàng chẳng độ ḷ đúc, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước”.

Tụng:

            Ba Phật h́nh nghi chẳng phải chân,

            Con ngươi trong mắt trước mặt xem.

            Nếu hay biết được trong nhà báu,

            Hoa núi chim kêu một dáng xuân.

            Ứng Phật, Hoá Phật, đều không thật,

            Bóng h́nh muôn thứ thảy là quyền.

            Cái ǵ có tướng đều hư vọng,

            Chân Phật không h́nh vốn tự nhiên.

Âm :

            Tam Phật h́nh nghi tổng bất chân,

            Nhăn trung đồng tử tiền diện nhân.

            Nhược năng thức đắc gia trung bảo,

            Đề điểu sơn hoa  nhất vạn xuân.

            Ứng Phật, Hóa Phật giai vô thật,

            Ảnh tượng thiên bang tổng thị quyền.

            Phàm sở hữu tướng giai hư vọng,

            Chân Phật vô h́nh bổn tự nhiên.

Nên Thiền sư Xuyên Lăo nói: “Phật vàng chẳng độ ḷ đúc, Phật gỗ chẳng độ lửa, Phật đất chẳng độ nước. Câu này Thiền sư Xuyên Lăo lặp lại câu nói của ngài Triệu Châu. Ngài Triệu Châu nói: Phật vàng không độ được ḷ đúc, Phật gỗ không độ được lửa, Phật đất không độ được nước, Phật thật ngồi ở trong. Tượng Phật bằng vàng nếu để vào ḷ đúc th́ không độ được ḷ đúc, mà bị ḷ đúc nung chảy ra nước; tượng Phật bằng gỗ đem để vào lửa bị lửa đốt thành tro. Tượng Phật bằng đất đem để vào nước, nước thấm ướt, đất ră ra. Bây giờ có thêm Phật xi-măng, Phật thạch cao không độ được cái  cái búa, v́ búa đập vào th́ xi-măng bể, thạch cao bể. Chỉ có ông Phật ngồi ở trong điện Tỳ-lô của mỗi người, là không có thứ ǵ làm tiêu hoại được. Khi Phật ấy hóa hiện thân ra th́ độ được tất cả mọi chúng sanh. Ngài Xuyên Lăo tụng thêm:

Ba Phật h́nh nghi chẳng phải chân, con ngươi trong mắt trước mặt xem. Ba h́nh chỉ cho Phật bằng vàng, Phật bằng gỗ, Phật bằng đất. Phật được tạc bằng một trong ba chất loại ấy dù có khéo đẹp thế mấy cũng không thật. Phật thật ở trong thân giả của mỗi người giống như con ngươi sáng nằm trong mắt ở trước mặt. Phải ngay đó mà nhận chớ đừng t́m kiếm ở đâu xa.

Nếu hay biết được trong nhà báu, hoa núi chim kêu một dáng xuân. Nếu biết được ḿnh có kho báu, tức là nhận được tánh Phật chân thật của ḿnh th́ nh́n hoa dại mọc ở kẻ đá trên núi, nghe tiếng chim hót trên cành cây, thấy đâu đâu cũng là cảnh xuân tươi đẹp. Ai biết trở về tánh Phật chân thật của chính ḿnh th́ tất cả cảnh, tất cả hiện tượng bên ngoài đều tươi sáng đẹp đẽ như hoa chim trong mùa xuân.

Ứng Phật, Hóa Phật đều không thật, bóng h́nh muôn thứ thảy đều quyền. Phật ứng thân, Phật hóa thân đều không phải Phật thật, v́ có h́nh có bóng tất cả đều là quyền là tạm không phải thật. Cái ǵ có tướng đều hư vọng, chân Phật không h́nh vốn tự nhiên. Chỉ có vị Phật chân thật không h́nh tướng là tự nhiên sẵn vậy. Ngài Xuyên Lăo tụng như thế để nhắc chúng ta nhớ trở về với vị Phật thật của ḿnh, không mắc kẹt nơi âm thanh, sắc tướng giả dối bên ngoài.

Hỏi: Thế nào Pháp có trước ?

Đáp: Nếu y cứ pháp tánh tịch diệt, th́ chân kinh không quyển, rỗng trơn bặt dấu vết, nghĩa ấy như sao trời sáng rực, lặng lẽ quên lời, biển chân giáo sóng bủa mênh mông, bao la pháp giới, lặng lẽ sáng soi tự tại, suốt tột xưa nay, dọc ngang khắp trời đất, đây là chân kinh không quyển, pháp có trước. Nếu y cứ pháp tịch diệt, đó là pháp trước Phật sau.

Thông thường ai cũng hiểu theo lịch sử th́, đức Phật Thích Ca sau khi thành đạo nói pháp trong bốn mươi chín năm, dạy cho mọi người tu hành hiện c̣n ghi chép trong Tam tạng kinh điển, pháp đó có sau, Phật có trước, v́ Phật thành đạo rồi mới nói pháp. Nhưng ngài Chân Nguyên lại nói pháp có trước, nên ở đây nêu câu hỏi: Thế nào là pháp có trước ? Đây giải thích pháp có trước là pháp tánh tịch diệt sẵn có của tất cả chúng ta, do ngộ được pháp đó mới thành Phật, nên nói pháp có trước, Phật có sau. Pháp này cũng gọi là chân kinh không quyển. Bởi v́ pháp này chỉ cho thể chân thật không có tướng mạo, nên không có dấu vết của văn tự, không có lời ghi chép, không có sách in thành quyển, đó là cái tịch diệt sẵn có muôn đời.

Kinh Nói :     

            Các pháp từ xưa nay,

            Tướng thường tự vắng lặng.              

            Phật tử hành đạo rồi,

            Đời sau được làm Phật.

Âm :

            Chư pháp tùng bản lai,

            Thường tự tịch diệt tướng.

            Phật tử hành đạo dĩ,

            Lai thế đắc tác Phật.

Tất cả chư Phật đều nhân nơi pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Nên kinh Lăng Già nói: “Ĺa tướng văn tự, ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận, mới có thể chứng Phật”. Nên biết, pháp tánh tịch diệt là thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau. V́ vậy kinh nói: “Có Phật không Phật, pháp tánh vẫn thường trụ. Có kinh không kinh, pháp thân vẫn hằng như vậy”. Một pháp mà có ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật, chân kinh, pháp tánh pháp thân vốn đồng một thể, không có tướng khác. Nếu có người huệ lớn, trí bậc thượng, chóng ngộ chân không, pháp tánh như vậy, chân Phật không h́nh, chân kinh không quyển, chân đạo không lư, chân pháp không lời, sẽ sớm được viên chứng quả Bồ-đề.

Các pháp từ xưa nay, tướng thường tự vắng lặng, Phật tử hành đạo rồi, đời sau được làm Phật. Các pháp từ xưa  tới  giờ, tướng  nó  thường  vắng lặng, người Phật tử đời này hành đạo rồi, đời sau sẽ được làm Phật. Ngày xưa có một Thiền tăng nghe hai câu kệ đầu: “Các pháp từ xưa nay tướng thường tự vắng lặng”, Ngài nghi ngờ tại sao các pháp từ xưa đến nay tướng thường tự vắng lặng ? Ngài ôm ấp thắc mắc măi trong ḷng. Một sáng mùa xuân đang ngồi trước cửa chùa, thấy muôn hoa đua nở và nghe chim hoàng oanh đậu trên cành hót líu lo, Ngài hoát nhiên ngộ đạo, liền đọc tiếp hai câu thơ:

            Xuân đến trăm hoa nở,

            Hoàng oanh hót trên cành.(Pháp Hoa Giảng giải-Thích Thanh Từ)

Ngài ngộ là v́ nhận ra rằng, các pháp thể tánh nó vốn lặng lẽ, mà tướng của nó th́ tùy duyên, duyên hợp th́ muôn sự muôn vật hiện tiền, như hoa nở chim hót khi mùa xuân đến. Ngộ đạo là thấy cùng tột bản thể của sự vật, cũng như nhận ra thể tánh của chính ḿnh, đồng thời cũng biết rơ tướng dụng sinh động của các pháp không lầm lẫn. Người học đạo thấu suốt cùng tột chỗ này th́ không những đời sau thành Phật mà ngay hiện tại cũng đă giác ngộ.

Tất cả chư Phật đều nhân nơi pháp tánh tịch diệt mà được thành Phật. Nên kinh Lăng Già nói: “Ĺa tướng văn tự, ĺa tướng ngôn thuyết, ĺa tướng tâm duyên, dứt mọi hí luận, mới có thể chứng Phật”. Chứng Phật quả là không mắc kẹt ở văn tự, không mắc kẹt ở lời nói, cũng không mắc kẹt ở cái tâm duyên theo cảnh, dứt hết những bàn luận  suông mới chứng được Phật quả. Chứng Phật quả là ngộ được pháp tánh tịch diệt, pháp tánh ấy ĺa tất cả tướng văn tự, ngôn ngữ, tâm duyên, hí luận. Nên biết pháp tánh tịch diệt là thầy chư Phật, đây là pháp trước Phật sau. Phật do ngộ pháp tánh tịch diệt mà thành Phật, nên nói pháp có trước, Phật có sau. V́ vậy kinh nói: Có Phật, không Phật, pháp tánh vẫn thường trụ, có kinh không kinh, Pháp thân vẫn hằng như vậy. Dù cho có Phật ra đời hay không Phật ra đời, pháp tánh vẫn thường trụ không biến đổi. Dù có kinh hay không có kinh, Pháp thân vẫn hằng như vậy. Pháp tánh hay Pháp thân không rời nhau. Một pháp mà có ngàn tên, ứng với duyên mà lập hiệu, chân Phật, chân kinh, Pháp tánh, Pháp thân vốn đồng một thể, không có tướng khác. Nói th́ có nhiều tên như chân Phật, pháp tánh, pháp thân... nhưng thể của nó th́ đồng không khác.

Nếu có người huệ lớn, trí bậc thượng chóng ngộ chân không, pháp tánh như vậy, chân Phật không h́nh, chân kinh không quyển, chân đạo không lư, chân pháp không lời, sẽ sớm  được  viên chứng quả Bồ-đề. Nếu người có trí tuệ lớn bậc thượng th́ mau ngộ được lư chân không. Đây nói chân Phật không h́nh, chân kinh không quyển, chân đạo không lư, chân pháp không lời. Bây giờ chúng ta thấy tượng Phật đúc bằng đồng hay thạch cao, xi-măng, hoặc gỗ, đó là Phật tượng, có tướng giả dối. C̣n chân Phật th́ không h́nh tướng, v́ Phật thật là Phật pháp thân bất sanh bất diệt. C̣n Phật hóa thân như Phật Thích Ca ở Ấn Độ sống tám mươi năm cũng là Phật sanh diệt. Chân kinh không quyển là chỉ cho pháp tánh, không phải quyển kinh bằng giấy mực chữ nghĩa. Chân đạo th́ không có lư lẽ c̣n lư lẽ không phải là chân. Chân pháp không có lời, lời nói ngôn ngữ là do niệm khởi; niệm khởi lời nói là tướng sanh diệt không phải là chân. Người ngộ được như thế th́ chứng quả Phật viên măn.

            Pháp thân thanh tịnh Phật vô tướng,

            Tịch quang tṛn lặng đồng hư không.

            H́nh nghi chẳng mượn dùng tiếng cầu,

            Dung mạo dính ǵ với sắc pháp.

            Muôn pháp đồng về biển tánh chân,

            Một trần chẳng nhiễm vốn nguồn linh.

            Rành rành hiển hiện chân thân Phật,

            Lồ lộ Như Lai đối mặt luôn.

Âm :

            Thanh tịnh pháp thân vô tướng Phật,

            Tịch quang viên trạm đẳng hư không.

            H́nh nghi phi giả dĩ thanh cầu,

            Dung mạo khởi quan ư sắc pháp.

            Vạn tượng đồng qui chân tánh hải,

            Nhất trần bất nhiễm bổn linh nguyên.

            Đường đường hiển hiện Phật chân thân,

            Lộ lộ Như Lai thường đối diện.

Pháp thân thanh tịnh Phật vô tướng, tịch quang tṛn lặng đồng hư không. Pháp thân tức Phật thân không tướng mạo, nhưng ánh sáng lặng lẽ trùm cả hư không. H́nh nghi chẳng mượn dùng tiếng cầu, dung mạo dính ǵ với sắc pháp. H́nh tướng không thể dùng tiếng mà cầu được, dung mạo không dính dáng ǵ với sắc pháp. Tóm lại: Pháp thân thanh tịnh lặng lẽ, hằng giác hằng tri không có tướng mạo nên không dính dáng ǵ với mọi h́nh sắc, âm thanh.

Muôn pháp đồng về biển tánh chân, một trần chẳng nhiễm vốn nguồn linh. Biển pháp tánh chân thật là thể của muôn pháp, nên muôn pháp thảy đều trở về đó. Nếu không nhiễm một tí bụi trần ấy là trở về nguồn linh của chúng ta. Rành rành hiển lộ chân thân Phật, lồ lộ Như Lai đối mặt luôn. Người trở về nguồn linh th́ chân thân Phật hiện rơ ràng, không bị che khuất, cho nên nói: Như Lai luôn luôn đối diện ở trước mắt. Như Lai là tên khác của Pháp thân, Pháp thân thường hiển lộ ngay trước mắt của mọi người. Trong nhà thiền có một từ ngữ kiến tánh, kiến tánh tức là nhận ra Pháp thân hay thấy tánh, nhưng thấy bằng cách nào, bằng cái nh́n của con mắt phải không ? Thấy tánh tức là nhận ra nơi ḿnh có tánh thấy chân thật, nếu không có tánh thấy th́ chúng ta không thể nhận thấy được tất cả người vật chung quanh. Tuy nhiên, người sáng mắt thấy người thấy vật biết ḿnh có tánh thấy, vậy người mù mắt không thấy cảnh vật họ có tánh thấy không ? Họ không thấy sự vật nhưng họ thấy tối đen, cái nhận biết của họ hiển lộ ở các cơ quan khác như mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm v.v...

Trong kinh Lăng Nghiêm đức Phật dạy Ngài A-nan về tánh thấy qua ví dụ nắm tay và con mắt. Phật dạy người không có bàn tay th́ tuyệt nhiên không có nắm tay, c̣n người mù mắt th́ không phải hoàn toàn không thấy. Cho nên Phật bảo ngài A-nan:

- Ông thử ra đường hỏi những người mù anh thấy cái ǵ ? Chắc chắn người mù trả lời: thấy trước mắt tối đen.

Ngài A-nan bạch Phật:

- Người mù thấy tối đen sao gọi là thấy ?

Phật dạy:

- Người mù thấy tối đen so với người sáng mắt ở trong pḥng tối, hai cái tối ấy có khác nhau không ?

- Không khác.

- Nếu người mù khi chữa lành bệnh, mắt sáng thấy được cảnh vật, cũng giống như người mắt sáng ở trong nhà tối có đèn sáng, họ cũng thấy cảnh vật.

 Như vậy, ai cũng có cái thấy hết, nhưng người sáng mắt th́ nh́n thấy người thấy vật rơ ràng, người mù th́ thấy ở trước tối đen. Tánh thấy lúc nào cũng hiện tiền trước mắt ḿnh, nhưng không bao giờ ḿnh dùng mắt thấy nó được, song biết ḿnh có tánh thấy là khi ḿnh thấy người vật bên ngoài. V́ nó không có h́nh tướng làm sao thấy được nó ? Như vậy th́ mọi người đều có cái hay thấy, tức là có tánh thấy, mà có tánh thấy là một phần Pháp thân hiển lộ, đó là Như Lai lồ lộ ngay trước mặt. Nên nhớ lồ lộ trước mặt không phải Phật hiện trước mặt ḿnh thấy bằng mắt, mà Như Lai lồ lộ ở sáu căn của ḿnh, tại ḿnh không chịu nhận. Chúng ta có thói quen hễ thấy người th́ khởi nghĩ người đó tên ǵ, đẹp xấu, tánh t́nh dễ chịu hay khó chịu, ḍng suy tư kéo đi một mạch, cái thấy không dừng ngang chỗ thấy, mà cái thấy theo ḍng nghĩ tưởng nên quên mất tánh thấy, nên chư Tổ dạy chúng ta đối duyên xúc cảnh thấy như mù, nghe như điếc. Nếu thấy người thấy vật mà không khởi niệm đẹp xấu, nghe mà không phân biệt dở hay đó là thấy như mù nghe như điếc. Giả sử chúng ta thấy có một người đi ngang qua, nếu không để ư phân biệt, có ai đó hỏi: Cô có thấy người đi ngang qua không ? - Có. Nhưng hỏi: Người ấy đẹp hay xấu, cao hay thấp... ? Đáp: Không biết. Như vậy là thấy tức như không thấy. Chúng ta th́ không như thế mà thấy cái ǵ là phải phăng t́m cho ra gốc rễ, đó là chạy theo vọng tưởng phân biệt, mà quên Như Lai ở nơi ḿnh đang hiển lộ.

?


[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]

[Trang chu] [Kinh sach]