[Trang chu] [Kinh sach]

KIẾN TÁNH THÀNH PHẬT

Giảng Giải

[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]


B. GIẢNG GIẢI (tt)

III. KỆ KIẾN TÁNH: (tt)

Mật thu lại th́ không dấu vết, hiển buông ra th́ không cùng tận. Bởi lược bày các cơ chỉ dạy, song đối với diệu lư khó đem nói hết. Cần biết mặc áo ăn cơm, nói  năng  đối đáp, sáu căn vận dụng, gậy đánh miệng hét, quát mắng  khảy tay, đánh phách thổi sáo, tiếng tăm cười nói, cho đến gánh nước bửa củi, nơi nơi toàn bày lư diệu; vo gạo thổi lửa, chỗ chỗ thảy hiện chân cơ. Trăm khéo ngàn hay, cơ huyền lư diệu, tất cả hành động trọn là tự tánh của mọi người hiển hiện ứng dụng.

Đoạn này Ngài nói khi trở về thể th́ tâm linh giác không có dấu vết, nếu ứng hiện ra diệu dụng th́ không cùng tận, cho nên ở đây Ngài lược bày để chỉ dạy chớ chỗ diệu lư của tâm không thể dùng ngôn ngữ nói hết được. Nên nói nó hiển hiện ứng dụng ra mọi hành động như mặc áo ăn cơm, nói năng đối đáp... cho đến vo gạo thổi lửa đều từ tự tánh mà ứng dụng ra. Như vậy ở chỗ nào chúng ta cũng tu được hết. Thế mà có nhiều người than, chiều nay bận công tác, ngồi Thiền không được, mất một buổi tu. Nếu cho rằng ngồi Thiền mới tu th́ mất, c̣n biết tu trong mọi hành động th́ không mất. V́ trong mọi hành động đều có Pháp thân ứng hiện th́ mất cái ǵ ? Chỉ sợ không biết tu chớ không sợ mất thời  giờ  tu. Nhớ điều  này  cho  kỹ. Biết  tu  th́  giờ  nào  cũng  tu  được, cuốc  đất,  nấu  cơm,  nhổ  cỏ  đều  tu. Không  biết  tu  th́  giờ ngồi Thiền  chưa  chắc  đă  tu, ngồi  đó mà để  tâm nhớ  nghĩ chuyện đă qua nhớ chuyện sắp tới, hết chuyện người này tới chuyện  người kia. Thế nên chúng ta khéo ứng dụng tu th́ trường hợp nào tu cũng được. Hiểu như vậy rồi người tu mới tự tại, không than phiền trách móc ai, luôn luôn an ổn trong mọi cảnh thuận nghịch an nguy. Ngày xưa, có vị gánh nước đ̣n gánh găy, ngay đó ngộ đạo. Có vị cuốc đất lượm ḥn gạch ném trúng cây tre vang tiếng, ngay đó ngộ đạo. Có vị cỡi ngựa đi ngang qua cầu, cầu găy, ngựa sụp chân té xuống, ngay đó ngộ đạo. Những trường hợp như thế có tu không ? Nếu không tu làm sao ngộ đạo ? C̣n chúng ta ngày nay ngồi Thiền giờ  này qua giờ kia mà sao không ngộ đạo ? Như vậy trong giờ ngồi Thiền đó chúng ta tu nhiều hay ít ? Tóm lại, nếu tâm chúng ta lúc nào cũng trong sáng hồn nhiên, th́ trong một thời gian nào đó cơ duyên đầy đủ chúng ta cũng ngộ đạo, chớ không phải chỉ ngộ đạo trong lúc ngồi Thiền.

Tỏ rơ rằng :

Trước kia đă có việc như trên, ngày nay đâu không việc này ! Xưa nay thấy tánh thành Phật, chung ngộ tâm tông Bát-nhă. Tướng mộc tuổi tác chẳng đồng, tánh hỏa trước sau như thế. Ai biết ví dụ này, trí tuệ thật rộng sâu. Pháp tánh hằng không, vốn không số kiếp. Trước sau chỉ một lư, người thông suốt đồng một đường. Cần biết, một tánh linh chân, trong lặng như thái hư; sắc thân năm uẩn thật như mộng huyễn. Quả là  trên  đảnh  môn  đủ  mắt,  liền  biết  trên  hư không không có hoa. Phật ở tự tâm, chớ t́m kiếm nơi người được. Nên trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo, Tổ Điều Ngự nói:

“Rơ chân như, tin Bát-nhă, chớ c̣n t́m Phật Tổ Tây Đông.

Chứng thật tướng, đạt vô vi, đâu nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc”.

Khiến người người phản bổn hoàn nguyên, cho kẻ kẻ hồi quang tự ngộ. Chỉ chín chắn quán xét sâu xa, rơ được tột người người là Phật, ngộ tâm tông Phật Phật là người. Xin hăy đều thẳng đó thừa đương, chớ chạy đuổi bên ngoài t́m kiếm !

Ngài nói: Trước kia có việc như trên, ngày nay đâu không việc này. Nghĩa là ngày xưa chư Tổ hét một tiếng đánh một cái mà người xưa ngộ đạo, ngày nay nếu chúng ta khéo nhận th́ cũng được như người xưa. V́ xưa hay là nay đều thấy tánh thành Phật, đều ngộ tâm tông Bát-nhă. Ngài ví như tướng cây nhỏ cây lớn như cây xoài, cây mít, cây ổi... khác nhau, nhưng phơi khô đem đốt vẫn cháy ra lửa, vẫn nóng như nhau. Ai biết ví dụ này th́ người ấy có trí tuệ sâu rộng. Lại như quí vị ngồi đây một hai trăm người, mỗi người có h́nh tướng, suy nghĩ, ngôn ngữ khác nhau mà tánh Phật th́ không khác. Hiểu được điều này là người trí tuệ sâu rộng và người có trí th́ không dám xem thường ai. V́ đứng về mặt tướng mạo th́ có người đẹp người xấu, đứng về mặt học thức th́ người học cao người học thấp, về mặt nói năng suy nghĩ th́ có người lanh lẹ người chậm chạp... nhưng tánh Phật th́ không khác. Hiểu như thế khởi tâm ngă mạn xem thường, hay khởi tâm cung kính mọi người như Bồ-tát Thường Bất Khinh trong kinh Pháp Hoa ? Ngài gặp ai cũng xá lạy và nói: “Tôi không dám khinh các Ngài v́ các ngài đều sẽ thành Phật”. Ngài đang là Bồ-tát, mọi người đang là phàm phu, thế mà Ngài không khinh v́ biết họ sẽ thành Phật như Ngài. Biết như thế tâm Ngă mạn giảm, trí tuệ tăng.

Pháp tánh hằng không, vốn không số kiếp. Pháp tánh hằng rỗng lặng vốn không có số kiếp. V́ từ lâu chúng ta sống theo vọng niệm nên tạo nghiệp và theo nghiệp thọ báo thân sanh tử luân hồi vô số kiếp. Cái nhân là vọng tưởng không thật, tạo nghiệp th́ cái nghiệp cũng không thật, nghiệp không thật th́ kết quả thọ thân cũng không thật. Cả ba đều không thật, bây giờ buông vọng tưởng, nhận ra và hằng sống với pháp tánh th́ không tạo nghiệp, không thọ thân luân hồi sanh tử th́ số kiếp cũng không. Nếu người thông suốt lư này th́ cùng chung một đường. Tức là biết cái tánh chân thật linh thiêng mầu nhiệm nó trong lặng như thái hư, c̣n sắc thân năm uẩn  vốn như mộng huyễn. Nếu ai sống sáu bảy chục tuổi ôn lại cuộc đời đều thấy như mộng huyễn. Giống như đêm ngủ nằm mộng, sáng thức dậy ôn lại giấc mộng th́ có đáng kể ǵ ? Thế mà cứ tưởng là thật. Cho nên nói quả là trên đảnh môn có đủ con mắt liền biết trên hư không không có hoa. Đảnh môn có đủ con mắt tức là con mắt thứ ba, con mắt trí tuệ. Sở dĩ nh́n trên hư không chúng ta thấy có hoa đốm là tại con mắt bệnh. Nếu con mắt không bệnh th́ thấy hư không không có hoa. Con mắt không bệnh là chỉ cho trí tuệ mở sáng. Người tu khi trí tuệ mở sáng th́ biết rơ Phật ở tự tâm, không t́m kiếm ở bên ngoài. Sau đây Ngài dẫn hai câu trong bài Phú Cư Trần Lạc Đạo của Tổ Điều Ngự:

Rơ chân như, tin Bát-nhă, chớ c̣n t́m Phật Tổ Tây Đông.

Chứng thật tướng, đạt vô vi, đâu nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc.

Biết được như vậy để chúng ta trở về nguồn gốc của ḿnh, quay ánh sáng chiếu soi lại ḿnh để ngộ được pháp thân. Quán sát chính chắn như thế để rơ rằng người người là Phật, mà Phật Phật đó gốc từ người. Vậy Phật và người không hai, rời người không có Phật, rời Phật không có người. Như vậy chúng ta và Phật gần không xa. Thế mà cứ lạy Phật hoài, lạy đến chai cả đầu gối. Sở  dĩ chúng ta phải lạy Phật nhiều là tại chúng ta quên tánh Phật của chính ḿnh, nên phải nhờ đức Phật ngồi trên bàn chứng minh cho chúng ta lạy để nhớ lại tánh Phật của chính ḿnh. Lạy Phật để nhớ ḿnh có tánh Phật chớ không phải lạy cầu xin Phật cho phước. Vậy lâu nay chúng ta lạy Phật với ư nghĩa ǵ ? Hiểu như thế mới thấu được ư nghĩa tu là xoay lại ḿnh chớ không phải chạy ra bên ngoài kiếm t́m. Hăy ngay nơi đây mà thừa đương.

Sau đây là những bài kệ Ngài chỉ thẳng cho chúng ta nhận ra tánh Phật của chính ḿnh.

Kệ rằng :

I-         Ngàn kinh  muôn luận trỏ tâm tông,

            Bốn mắt trừng nhau mắt tuệ thông.

            Ba thuở Như Lai truyền pháp ấn,

            Một tâm là Phật sẵn vậy đồng.

Âm :

            Thiên kinh vạn luận chỉ tâm tông,

            Tứ mục trừng giao tuệ nhăn thông.

            Tam thế Như Lai truyền pháp ấn,

            Nhất tâm thị Phật bổn nhiên đồng.

Ngàn Kinh muôn luận trỏ tâm tông, bốn mắt trừng nhau mắt tuệ thông. Ngài nói kinh luận nào cũng chỉ tâm ḿnh là Phật và bốn mắt nh́n nhau là Phật hiện tiền, nếu biết được như thế là mắt tuệ thông suốt.

Ba thuở Như Lai truyền pháp ấn, một tâm là Phật sẵn vậy đồng. Ba đời chư Phật truyền pháp ấn là chỉ cho chúng ta biết tâm ḿnh là Phật, ai cũng có sẵn, chớ không riêng người nào.

II-        Ngộ tâm thành Phật không thừa pháp,

            Mê tánh bôn ba kiếm ngoài tâm.

            Một niệm rỗng thênh siêu bản tế,

            Giống hệt rửa chân lên mũi thuyền.

Âm :

            Ngộ tâm thành Phật vô dư pháp,

            Mê tánh bôn ba tâm ngoại cầu.

            Nhất niệm khuyếch nhiên siêu bản tế,

            Hoàn như tẩy cước thướng thuyền đầu.

Ngộ tâm thành Phật không thừa pháp, mê tánh bôn ba kiếm ngoài tâm. Nếu chúng ta ngộ tâm ḿnh là Phật th́ không c̣n pháp nào ngoài pháp này nữa. Nếu mê, quên bản tánh của ḿnh th́ mới chạy ra ngoài t́m kiếm, người ngộ th́ ngay nơi tâm mà sống chớ không t́m kiếm bên ngoài.

Một niệm rỗng thênh siêu bản tế, giống hệt rửa chân lên mũi thuyền. Nếu không c̣n một niệm dấy khởi che đậy, tâm rỗng thênh thang th́ vượt hết mọi bờ mé xưa cũ. Giống như người rửa chân bước lên mũi thuyền, đơn giản và nhẹ nhàng như vậy. H́nh ảnh này chỉ có những người ở miền Tây mới dễ thông cảm. Như chúng ta muốn đi thuyền, bước xuống cây cầu rửa chân cho sạch rồi bước lên thuyền, việc làm rất gần gũi dễ dàng, không có ǵ khó khăn xa lạ. Cũng vậy trong tâm không khởi một niệm th́ tất cả những mê lầm từ ngàn xưa đều giũ sạch.

III-       Che trời che đất đây tâm báu,

            Không cổ không kim tự tánh châu.

            Giá trị càn khôn chưa dễ trả,

            Sáng ngời pháp giới vẫn hằng như.   

Âm :

            Cái thiên cái địa ngô tâm bảo,

            Vô cổ vô kim tự tánh châu.

            Giá trọng càn khôn thù vị đắc,

            Linh quang pháp giới nghiễm nhiên như.

Che trời che đất đây tâm báu, không cổ không kim tự tánh châu. Tâm chân thật của chúng ta che khắp trời đất, và không bị thời gian xưa nay chi phối. Hay nói cách khác là tâm thể chân thật quí báu của chúng ta không bị không gian hạn chế, không bị thời gian chi phối.

Giá trị càn khôn chưa dễ trả, sáng ngời pháp giới vẫn hằng như. Giá trị quí báu của tâm chân thật đem cả càn khôn so sánh cũng không so sánh được. Tức là giá trị của tâm chân thật hơn cả giá trị của càn khôn. Nó sáng ngời cả pháp giới mà hằng chân thật như như. Ư bài kệ này đánh giá người ngộ được tâm chân thật của chính ḿnh th́ thoát khỏi sự hạn chế của không gian, lớn nhỏ trong ngoài. Thoát khỏi sự chi phối của thời gian quá khứ hiện tại đều không thật và đem cả càn khôn để so sánh với tâm thể này cũng không sánh được. Như vậy chúng ta sống giữa thế gian này có cái ǵ để tính toán ? Ví dụ có người kiếm được ít thoi vàng cho là quí, nhưng đem vàng cả càn khôn này dồn lại chừng bao nhiêu ? Thế mà ḿnh chỉ có ít thoi vàng lại cho là quí và quên cả cái tâm chân thật quí báu của ḿnh. Cho nên người thấy đạo rồi th́ sống với cái tâm thể chân thật quí báu của chính ḿnh là hơn hết.

IV-       Tâm ta, tâm Phật vốn không hai,

            Nhiều kiếp nổi ch́m chỉ tại mê.

            Nay đă tỏ tường ḿnh tự nhận,

            Linh quang lặng chiếu ấy Bồ-đề.

Âm :   

            Ngă tâm bổn dữ Phật tâm tề,

            Lịch kiếp phiêu trầm chỉ vị mê.

            Kim nhật phân minh tương tự nhận,

            Linh quang tịch chiếu thị Bồ-đề.

Tâm ta, tâm Phật vốn không hai, nhiều kiếp nổi ch́m chỉ tại mê. Tâm ta và tâm của Phật  không khác, Phật trở về với tâm Phật c̣n chúng ta th́ quên tâm Phật nên làm chúng sanh. Nếu trở về tâm Phật th́ Phật cũng như ta và ta cũng như Phật. Bởi ta quên tâm ḿnh là Phật nên nhiều kiếp trôi lăn trong sanh tử ch́m nổi khổ đau.

Nay đă tỏ tường ḿnh tự nhận, linh quang lặng chiếu ấy Bồ-đề. Ngày nay chúng ta nhận ra tâm ḿnh là Phật th́ cái sáng suốt chiếu soi trong lặng đó là Bồ-đề tức là tâm Phật chớ không có ǵ khác lạ. Như vậy ư toàn bài kệ là tâm ta đồng với tâm Phật, v́ mê nên phải luân hồi sanh tử khổ đau. Nếu tự nhận tâm ḿnh là Phật th́ cái sáng suốt trong lặng nó hiện tiền đó là Bồ-đề, khỏi kiếm Bồ-đề ở đâu xa.

V-        Gượng gọi là Phật, gượng nói tâm,

            Pháp tánh sáng tṛn suốt cổ kim.

            Thượng trí siêu quần xoay tự ngộ,

            Như vầy mới hiểu đạo cao thâm.     

Âm :

            Cưỡng danh vi Phật cưỡng xưng tâm,

            Pháp tánh viên minh tuyên cổ kim.

            Thượng trí siêu quần hồi tự ngộ,

            Năng như thị giải đạo cao thâm.

Gượng gọi là Phật, gượng nói tâm, pháp tánh sáng tṛn suốt cổ kim. Cái tâm thể không tên, tự trong sáng nhưng đối với chúng sanh mê th́ tạm gọi là Phật, hoặc nói là tâm, ấy là nói gượng chớ không phải thật. Pháp tánh nó tṛn sáng xuyên suốt từ xưa đến nay không bị giới hạn bởi thời gian.

Thượng trí siêu quần xoay tự ngộ, như vầy mới hiểu đạo cao thâm. Bậc thượng trí siêu quần bạt tụy chỉ cần xoay lại là nhận ra, người như vậy mới là người thấy được chỗ cao thâm của đạo. Cao thâm là chỉ cái thể thênh thang không bị thời gian, không gian chi phối, giới hạn đó là cái gốc không ǵ b́ kịp sánh nổi cho nên gọi là cao thâm.

Trước khi học bài kệ mới tôi xin nhắc qua vài điều cần thiết để cho Tăng Ni và Phật tử nhớ. Chúng ta thật là người có phước mới được nghe và nhận được những lời chân thật của Phật Tổ chỉ bày. Thế nên Thiền sư Chân Nguyên sau khi kiến tánh, Ngài vận dụng phương tiện truyền đạt chỉ bày cho chúng ta bằng những bài kệ, để chúng ta nhận ra bản tánh của chính ḿnh. Ngày xưa  các Thiền sư Trung Hoa th́ dùng phương tiện đánh, hét, giơ phất tử... để chỉ cho người nhận ra Phật tánh nơi ḿnh. Người nào lanh lẹ th́ nhận ra, c̣n người căn cơ cạn mỏng th́ không làm sao hiểu được chỗ sâu kín của nhà Thiền, rồi đâm ra ngờ vực. Thiền du nhập vào Việt Nam, từ đời Trần cho tới đời Lê, các Thiền sư Việt Nam không dùng phương tiện đánh hét... mà các Ngài giải thích qua các bài thơ kệ để cho chúng ta đọc rồi nhận ra được Phật tánh nơi ḿnh, th́ đủ niềm tin để tu cho đến khi chứng ngộ. Nếu dùng những thủ thuật đánh hét th́ e chúng ta khó lănh hội, không lănh hội th́ không tin, không tin th́ không tu được. Cho nên các Ngài dùng phương tiện nói trắng chỉ thẳng. Tuy nhiên, nói trắng th́ dễ hiểu mà không có những trường hợp đặc biệt ngộ sâu và nhớ hoài không quên. Như trường hợp ngài Nghĩa Huyền ba lần thưa hỏi ba lần bị ăn đ̣n, không được thầy giải thích một câu, cho nên sau khi ngộ rồi Ngài nhớ hoài không quên. C̣n bây giờ chúng ta giải thích hằng ngày, nếu có nhận ra nhưng rồi cũng quên, v́ cái nhận đó không sâu không có kỷ niệm chết sống nên dễ quên. Ở đây tôi muốn quí vị có một kỷ niệm chết sống, cho nên bắt ngồi Thiền mấy tiếng đồng hồ, ngồi cho thật lâu cho thật đau chân điếng người để tỉnh ra. Chính nhờ cái đau thấu xương đó làm cho chúng ta khó quên, khó quên trong cái thầm lặng. C̣n  các Thiền sư Trung Hoa th́ dùng bạo lực dồn người tham vấn vào thế bí cùng cực, sau đó có ai khơi lại th́ nhận ra đời đời không quên. Ở đây tôi bắt quí vị ngồi Thiền ngày sáu giờ mỗi lần hai giờ, đối với những vị mới tập th́ rất là cay đắng khổ sở. Nhưng khổ cực cay đắng để làm ǵ ? Để tỉnh nhiều hơn mê, trong một ngày tỉnh táo nhiều giờ như thế mới sực nhớ ra ông Phật của ḿnh mà lâu nay ḿnh quên. Khi ấy quí vị mới vỡ lẽ rằng: À ! Lâu nay ông thầy bắt ḿnh ngồi nhiều là để cho ḿnh tỉnh, ḿnh nhớ. Nhờ nghe lư thuyết rồi thực hành mà nhớ, nhớ rồi th́ không quên. Nếu chúng tôi chỉ giảng nói cho quí vị nghe, rồi để cho quí vị tha hồ rong chơi, không nhốt quí vị lại th́ chắc không bao giờ có người lóe sáng. V́ quí vị nghe có hiểu nhưng không thực hành th́ không bao giờ ngộ ? Tóm lại phương tiện tuy có khác, nhưng mục đích cùng đưa hành giả đến chỗ cứu cánh là nhận ra Phật tánh nơi ḿnh. Các Thiền sư Trung Hoa th́ dồn người học đạo tới chỗ bí có khi khóc có khi muốn liều chết, nhưng khi nhận ra th́ nhớ đời không quên. C̣n ở đây tôi giảng để quí vị hiểu nhưng bắt quí vị ngồi Thiền, ngồi cho đến lúc lặng hết vọng tưởng rồi bừng ngộ th́ cũng ngộ sâu và không quên. Như vậy phương tiện tuy khác nhưng đều đưa hành giả đến chỗ ngộ sâu và nhớ măi không quên.

VI-       Đạt-ma Tây đến một chữ không,

            Toàn y tâm địa để dụng công.

            Chín năm ngó vách không lời nói,

            Một sớm truyền tâm Huệ Khả thông.

Âm :

            Đạt-ma Tây lai nhất tự vô,

            Toàn bằng tâm địa dụng công phu.

            Cửu niên diện bích vô ngôn thuyết,

            Nhất đán truyền tâm Huệ Khả sư.   

Đạt-ma Tây đến một chữ không, toàn y tâm địa để dụng công. Tổ Đạt-ma từ Ấn Độ sang Trung Hoa không truyền dạy một chữ, nên nói một chữ không, Ngài chỉ nương nơi pháp môn tâm địa để chỉ dạy người dụng công tu. Trong nhà Phật thường nói tâm địa, tâm là tâm con người, địa là đất. Tâm địa chỉ cho tâm chân thật của chúng ta giống như mặt đất, tất cả người vật trên thế gian đều nương nơi đất mà đứng vững sanh tồn. Cũng thế tất cả những điều thấy nghe, hiểu biết cũng đều lưu xuất từ tâm, tâm tạo thành tất cả cho nên nói là tâm điạ.

Chín năm ngó vách không lời nói, một  sớm truyền tâm Huệ Khả thông. Suốt chín năm ở chùa Thiếu Lâm Tổ ngồi ngó vách không nói một lời, một hôm ngài Thần Quang t́m tới cầu chỉ dạy, Tổ truyền cho pháp an tâm, Ngài ngộ cho nên được đổi tên là Huệ Khả, nên nói Huệ Khả thông. Thần Quang trước khi gặp Tổ đă dụng công tu hành đáng kể, nhưng chưa ngộ. Nghe Tổ Bồ-đề-đạt-ma từ Ấn Độ sang ở tại chùa Thiếu Lâm, bèn đến yết kiến. Thần Quang đă đủ lễ nghi mà Tổ vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Ngài tự nghĩ: “Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các Ngài”. Hôm ấy nhằm tiết Đông nên tuyết rơi nhiều, Thần Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về Tổ ? Đến sáng tuyết ngập đến đầu gối mà gương mặt Ngài vẫn thản nhiên. Tổ thấy thế thương t́nh, xoay ra hỏi:

- Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết ư muốn cầu việc ǵ ?

Ngài Thần Quang thưa:

- Cúi xin Tổ từ bi mở cửa cam lồ rộng độ chúng con.

Tổ quở:

- Diệu đạo vô thượng của chư  Phật, dù  nhiều kiếp tinh tấn, hay làm việc khó làm, hay nhẫn điều khó nhẫn, c̣n không thể được, huống là dùng một chút khó nhọc này mà cầu được sao ?

Thần Quang nghe dạy lén lấy con dao chặt cánh tay để trước Tổ tỏ ḷng thiết tha cầu đạo  của ḿnh. Tổ khen:

- Chư Phật xưa v́ pháp quên thân mạng, nay ngươi chặt cánh tay để cầu pháp, tâm cầu đạo như thế cũng khá đó. Tổ nhận làm đệ tử và đặt tên là Huệ Khả.

Câu chuyện Thần Quang chặt tay cầu đạo thực hư chúng ta chưa kiểm chứng được. Nhưng h́nh ảnh đứng trong tuyết lạnh thấu xương, quên thân cầu đạo của Ngài là tấm gương sáng cho kẻ hậu sanh như chúng ta noi theo. Ngài quên thân cầu đạo mới ngộ, do đó mà Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho Ngài làm Tổ thứ hai của Thiền tông Trung Hoa. Câu cuối bài kệ là muốn nhắc lại lịch sử truyền thừa Tổ vị này.

VII-     Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh,

            Truyền nhau bốn mắt đă phân rành.

            Nối hương tiếp lửa luôn sáng măi,

            Soi khắp đất trời độ hữu t́nh.

Âm :

            Nhất điểm tâm đăng tuệ cự sanh,

            Tương truyền tứ mục thái phân minh.

            Liên phương tục diệm quang vô tận,

            Phổ chiếu càn khôn độ hữu t́nh.

Một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh, truyền nhau bốn mắt đă phân rành. Ở trên nói Tổ Bồ-đề-đạt-ma truyền tâm ấn cho ngài Huệ Khả làm vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa, cho nên khi được truyền tâm ấn ngài Huệ Khả suy tôn Tổ Đạt-ma là Sơ Tổ Thiền tông Trung Hoa. Sự truyền tâm đó tượng trưng bằng ngọn đèn hay cây đuốc. Đèn tâm, đuốc trí tuệ cho nên câu đầu nói một điểm đèn tâm đuốc tuệ sanh. Tuy nhiên người nào ngộ cũng được thắp sáng đèn tâm, đuốc tuệ chớ không riêng ǵ ngài Huệ Khả. Đèn tâm đuốc tuệ được truyền bằng bốn mắt nh́n nhau. Khi xưa, ở hội Linh Sơn Phật đưa cành hoa sen lên nh́n khắp đại chúng, nh́n tới Ma-ha-ca-diếp, Ma-ha-ca-diếp nh́n Phật mỉm cười, liền được truyền tâm, sau này Thiền sư Chân Nguyên hỏi “Bao năm dồn chứa ngọc trong đăy, hôm nay tận mặt thấy thế nào, là sao ?”. Thiền sư Minh Lương đưa mắt nh́n thẳng vào Ngài, Ngài nh́n lại, liền cảm ngộ, được truyền tâm. C̣n bây giờ thầy tṛ nh́n nhau hoài sao chẳng được truyền tâm ? Lỗi đó tại đâu ? Tại cây đuốc của chúng ta chưa cháy, tại tâm nghĩ suy của chúng ta chưa dừng.

Nối hương tiếp lửa luôn sáng măi, soi khắp đất trời độ hữu t́nh. Người ngộ được bản tâm rồi đem cái thấy cái ngộ của ḿnh tiếp nối chỉ dạy cho người sau, cho nên gọi là nối hương tiếp lửa. Bởi v́ đạo đức ví như mùi hương, mùi hương  đạo  đức không bị gió thổi cuốn theo chiều gió. Cho nên trong kinh nói mùi hương của thế gian th́ theo gió thổi đi, c̣n mùi hương của đạo đức th́ gió hướng nào cũng không ngại hết, mùi hương đức hạnh dù ngược gió mà vẫn bay khắp cả muôn phương. Như vậy chỉ có hương đạo đức là không ngại gió, nối hương là nối mùi hương đạo đức. Tiếp lửa là mồi đèn tiếp đuốc để cho nó sáng măi ở cơi nhân gian. V́ đạo Phật lấy sự giác ngộ làm chủ yếu, và ví ánh sáng giác ngộ như ánh sáng của ngọn đuốc, của mặt trời mặt trăng. Cho nên thế gian này có người giác ngộ th́ thế gian có ánh sáng, nếu không người giác ngộ th́ thế gian sẽ tối tăm. Do đó bổn phận của người tu là phải tu cho sáng đạo, rồi chỉ dạy mọi người để đèn trí tuệ luôn luôn được thắp sáng ở cơi thế gian nhiều tăm tối này. Nên nói ánh sáng trí tuệ soi khắp để độ chúng hữu t́nh.

VIII-    Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm,

            Kho báu nhà ḿnh chớ chạy tầm.

            Có ai thử hỏi đâu là Phật ?

            Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời).

Âm :

            Chân Phật chân kinh tổng tại tâm,

            Tự gia bảo tạng mạc tha tầm.

            Hữu nhân thí vấn Phật hà tại,

            Ứng đối đương thời tại nhăn âm.

Chân Phật, chân kinh thảy ở tâm, kho báu nhà ḿnh chớ chạy tầm. Phật thật kinh thật đều ở trong tâm, đó là kho báu của ḿnh đừng chạy ra ngoài để t́m kiếm. Chúng ta có thói quen hễ nói đến Phật th́ nghĩ rằng Phật thờ ở chùa, nói đến kinh th́ chỉ thấy kinh là những pho sách ghi chép lời Phật dạy để trong tủ. Nhưng Phật ngồi trên bàn, kinh để trong tủ có phải là chân Phật chân kinh mà ngài Chân Nguyên nói ở đây không ? Phật ngồi trên bàn là Phật tượng, nh́n Phật tượng chúng ta phải nhớ lại ông Phật thật của ḿnh, ông Phật của ḿnh th́ giác và linh động nói năng đi lại là Phật thật. C̣n Phật tượng th́ ngồi im ĺm không nói năng hoạt động, sao gọi là Phật thật được ? Kinh nằm trong tủ th́ ghi chép những lời Phật dạy, nương lời dạy ấy chúng ta tu ngộ được bản tâm, mở sáng mắt tuệ. Bản tâm và mắt tuệ không phải là giấy mực chữ nghĩa. Kinh Viên Giác nói rằng: Kinh là ngón tay chỉ mặt trăng, nương theo ngón tay để nh́n thấy mặt trăng, chớ ngón tay  không  phải  là mặt trăng. Cũng thế kinh ghi lại những lời Phật dạy để chúng ta đọc ngộ được bản tâm, nhưng nếu chúng ta chỉ đọc lời Phật mà không ngộ bản tâm th́ chưa phải là chân kinh. Chân kinh chân Phật đều là tự tâm. V́ Phật là giác, mà giác là tâm ḿnh giác, Phật tượng vô tri không giác. Tâm bất sanh bất diệt hằng tri hằng giác, mà kinh bằng giấy mực văn tự không tri giác, nên không phải là chân kinh.

Chân Phật chân kinh, kho báu gốc từ tâm ḿnh mà ra chớ không phải ở ngoài. Như vậy muốn thấy Phật thật thấy kinh thật, th́ ngay nơi tâm ḿnh là kho báu vô tận ai ai cũng sẵn đủ. Quay lại kho báu nhà ḿnh th́ có đầy đủ tất cả chớ chạy t́m ở đâu cho nhọc.

Có ai thử hỏi đâu là Phật ? Ngay khi hỏi đáp tại mắt, âm (lời). Nếu hỏi đâu là Phật th́ đáp: Lời hỏi mắt nh́n, ngay khi hỏi đáp là Phật. Thiền sư Huệ Hải khi đến chỗ Mă Tổ Đạo Nhất, Mă Tổ hỏi:

- Ông đi đâu ?

Sư thưa:

- Con đến cầu Phật pháp.

Tổ bảo:

- Kho báu nhà ḿnh không đoái hoài, bỏ nhà chạy đi t́m cái ǵ ?

Sư thưa:

- Thế nào là kho báu nhà ḿnh ?

Tổ bảo:

- Chính khi ngươi hỏi ta đó là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả, tự do sử dụng đâu nhờ t́m cầu bên ngoài.

Cái thưa hỏi là kho báu, v́ lời nói phát xuất từ tâm, nên mới phát ra âm thanh, phát ra cái nh́n đều từ tâm Phật, nhưng tại sao chúng ta không chịu nhận ? Bởi v́ từ thuở bé cho đến lớn chúng ta có thói quen hễ mắt thấy sắc, tai nghe tiếng th́ phân biệt đẹp xấu hay dở. Mũi lưỡi thân ư cũng lại như vậy. Chúng ta luôn luôn chạy theo phân biệt, phân biệt rành rẽ th́ gọi là người khôn. Ví dụ hôm nay Phật tử cúng dường cho chư Tăng một bữa ăn. Ăn xong Phật tử đó hỏi: Thưa Thầy thức ăn hôm nay ngon không ? Phải trả lời như thế nào ? Nếu nói ngon th́ họ vui, c̣n nói tôi ăn chỉ biết ăn th́ họ buồn. Bởi v́ họ cố t́nh nấu cho ngon để cúng dường cho quí thầy, thế mà nói ăn chỉ biết ăn th́ họ buồn, nếu nói ngon th́ họ rất là hoan hỷ. Cho nên khi ăn phải biết ngon hay dở, lại ngon nhiều ngon ít nữa. Như vậy tất cả sinh hoạt ở thế gian đều huân tập cho chúng ta thói quen phân biệt rành rẽ, mà phân biệt th́ đă rơi vào t́nh thức chúng sanh, chớ không phải là tâm Phật giác ngộ.  Nếu tâm giác ngộ th́ thấy nghe hay biết rất rành rẽ mà không có t́nh thức phân biệt xen vào, điều này nói nghe th́ dễ nhưng rất khó làm. V́, môi trường gia đ́nh xă hội luôn luôn tạo cơ hội thuận tiện lôi cuốn chúng ta chạy theo thức t́nh phân biệt. Do đó, ông Phật của chính ḿnh ẩn khuất mất tiêu. Như vậy Phật cũng rất gần ta mà cũng rất xa ta. Nếu tỉnh Phật ở ngay lời hỏi câu đáp, ngay nơi bốn mắt nh́n..., nếu mê chạy theo t́nh thức phân biệt hay dở, khen chê tốt xấu th́ không bao giờ nhận ra kho báu của chính ḿnh. Chủ yếu bốn câu kệ này Ngài chỉ cho chúng ta nhận ra Phật thật kinh thật ngay nơi tâm ḿnh, đó là kho báu sẵn có của chính mỗi người. Kho báu đó không có xa lạ mà ngay nơi lời hỏi câu đáp, ngay nơi mắt thấy tai nghe của chính ḿnh, đừng nên chạy đi đâu t́m kiếm nhọc nhằn.

IX-      Chân kinh chẳng đổi vốn như thường,

            Chưa từng mở miệng hiện tỏ tường.

            Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất,

            Một chữ vô sanh thẳng thừa đương.

Âm :

            Chân kinh bất dịch bổn như thường,

            Vị tằng khai khẩu hiển đường đường.

            Bất khả nghĩ tŕ sai thác quá,

            Vô sanh nhất cú trực thừa đương.

Chân kinh chẳng đổi vốn như thường, chưa từng mở miệng hiện tỏ tường. Chân kinh là chỉ cho tâm Phật xưa nay nó vốn như vậy không hề  thay đổi. Nó đă có sẵn không đợi nói, không đợi đọc tụng mới có kinh, mà kinh đă hiện đầy đủ không có ẩn giấu chút nào cả. Cho nên nói “chưa từng mở miệng hiện tỏ tường”.

Nghĩ toan nắm bắt lầm qua mất, một chữ vô sanh thẳng thừa đương. Vừa khởi nghĩ t́m chân kinh, th́ lầm qua mất. Chỉ ngay tâm phẳng lặng hiện tiền hằng giác hằng tri không khởi diệt là tâm vô sanh luôn luôn bảo nhậm ngay nơi đó mà sống đừng quên, thế nhưng chúng ta quen sống với tâm sanh diệt, cho nên thấy cái đồng hồ liền hỏi hiệu ǵ, sản xuất ở đâu tốt hay xấu, bền hay không bền... Thấy không nhớ ḿnh có cái hay thấy, mà khởi lên nhiều niệm là sanh chớ không c̣n vô sanh. Ví dụ có người đi từ trên chùa xuống tới cổng nội viện, bất thần có người kêu tên chửi, lúc đó vị ấy có tỉnh giác vô sanh được không ? Có ngoại duyên chạm đến là sanh liền. Có khi sanh những cái tốt đẹp hiền lành, cũng có khi sanh những thứ dữ dằn xấu xa. Cho nên sống với cái vô sanh không phải chuyện đơn giản dễ làm. Ngồi một ḿnh ở một ḿnh khả dĩ giữ được, c̣n khi đối duyên xúc cảnh rất khó giữ. Bởi v́ gặp cảnh th́ niệm sanh diệt dấy khởi khó dừng  được, cho nên chủ yếu của sự tu hành là đừng để cái sanh diệt chi phối, luôn luôn sống với cái tâm vô sanh đó là cái gốc của sự tu.

X-        Không văn không chữ đấy chân kinh,

            Một quyển trường không quá phân minh.

            Miệng nói c̣n xa ba ngàn dặm,

            Tai nghe thêm tiến chục vạn tŕnh.  

Âm :

            Vô văn vô tự thị chân kinh,

            Trường không nhất quyển thái phân minh.

            Khẩu tuyên thượng cách tam thiên lư,

            Nhĩ thính tăng dao thập vạn tŕnh.

Không văn không chữ đấy chân kinh, một quyển trường không quá phân minh. Chân kinh th́ không có văn tự chữ nghĩa, tuy không văn tự chữ nghĩa, nhưng quyển kinh này rất là rành rẽ, trùm khắp cả hư không.

Miệng nói c̣n xa ba ngàn dặm, tai nghe thêm tiến chục vạn tŕnh. Kinh này v́ không văn tự chữ nghĩa, nên mở miệng nói th́ xa ba ngàn dặm, nếu dùng tai nghe th́ càng xa hơn đến mười vạn tŕnh, tức là mười vạn cây số. Như vậy không dùng ngôn ngữ để diễn đạt chân kinh, không dùng tai nghe để nghe chân kinh mà chỉ có tâm vô sanh là hiển bày chân kinh rồi. Tóm lại, ư bốn câu kệ nói chân kinh vốn không ngôn ngữ không văn tự, nó trùm cả hư không. Dùng ngôn ngữ không diễn đạt được, dùng tai nghe lại càng xa hơn. Chỉ sống với tâm vô sanh là đầy đủ chân kinh.

XI-      Chân Phật chân kinh vốn một đồng,

            Tịch quang tṛn lặng suốt hư không.

            Thật tế nhất như gồm mọi lư,

            Tạm bày muôn pháp độ quần mông.

Âm :

            Chân Phật chân kinh bổn nhất đồng,

            Tịch quang viên trạm đẳng hư không.

            Thật tế nhất như bao chúng lư,

            Quyền khai vạn pháp độ quần mông.

Chân Phật chân kinh vốn một đồng, tịch quang tṛn lặng suốt hư không. Phật thật kinh thật vốn đồng một thể, ánh sáng lặng lẽ của nó xuyên suốt hư không. Như vậy nói chân Phật chân kinh tuy hai tên mà chỉ là một pháp thân thanh tịnh trong sáng trùm khắp cả hư không chớ không có ǵ lạ.

Thật tế nhất như gồm mọi lư, tạm bày muôn pháp độ quần mông. Bờ mé chân thật th́ nhất như không lư lẽ, nhưng bao trùm mọi lư lẽ, nên tạm bày ra muôn pháp để hóa độ người mê muội. Thế nên Tổ Qui Sơn nói: “Thật tế lư địa bất thọ nhất trần, vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp”. Nghĩa là chỗ chân thật th́ không dính một mảy bụi, mà trong cửa vạn hạnh (cửa phương tiện) th́ không xả bỏ một pháp nào. Để thấy rằng mọi phương tiện đều y cứ nơi thể chân thật mà lập, lập phương tiện là v́ kẻ mê muội giáo hóa cho họ thức tỉnh.

XII-     Lư mầu Phật pháp không văn tự,

            Cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn.

            Rộng tiếp người sau thông một tuyến,

            Thượng căn mắt thấy đạo tâm c̣n.

Âm :

            Phật pháp diệu lư vô văn tự,

            Tổ đạo huyền cơ mạc ngữ ngôn.

            Hoằng tiếp hậu lai thông nhất tuyến,

            Thượng căn mục kích đạo tâm tồn.

Lư mầu Phật pháp không văn tự, cơ huyền đạo Tổ chẳng ngữ ngôn. Lư nhiệm mầu của Phật pháp th́ không dùng văn tự, cơ huyền của chư Tổ th́ chẳng dùng ngôn ngữ. Nghĩa là lư nhiệm mầu của Phật pháp chỉ dùng tâm ấn tâm, chớ không dùng văn tự giải thích, và cơ huyền đạo của chư Tổ th́ không dùng ngôn ngữ, v́ ngôn ngữ là đầu mối của sự phân biệt. Thế nên các Ngài thường dùng hành động để chỉ thẳng cho người học đạo nhận ra cái chân thật. Nếu có tạm mượn ngôn ngữ để chỉ th́ ngôn ngữ ấy không làm cho người học đạo mắc  kẹt vào phân biệt đối đăi.

Sau đây là những câu chuyện không dùng ngôn ngữ của các Thiền sư. Có người tới hỏi Thiền sư Đả Địa: Thế nào là Phật ? Ngài cầm cây gậy đập xuống ba cái. Đó là ngôn ngữ ǵ ? Ngài Lâm Tế đến hỏi Tổ Hoàng Bá: Thế nào là đại ư Phật pháp ? Ba lần hỏi ba lần bị đánh. Đó là ngôn ngữ ǵ ?

Những cơ huyền như thế không có ngôn ngữ, nhưng người hỏi khéo nhận th́ nhận được cái chỗ không ngôn ngữ. Không khéo nhận th́ khóc lóc khổ sở hoặc ra về tay không.

Rộng tiếp người sau thông một tuyến, thượng căn mắt thấy đạo tâm c̣n. V́ rộng độ người sau nên lập bày phương tiện, người thượng căn nếu nhận được cái chân thật th́ tâm đạo của họ c̣n măi không bao giờ mất. Tóm lại bài kệ này ư nói, lư mầu của Phật pháp không dùng văn tự, phương tiện chỉ bày chỗ huyền diệu của chư Tổ không dùng  ngữ ngôn, nhưng v́ độ người sau cho nên tạm lập bày phương tiện, người thượng căn nhân phương tiện đó nhận ra cái chân thật th́ đạo tâm không bao giờ mất.

XIII-    Tâm tông Bát-nhă ai lănh ngộ,

            Rơ ràng tự tánh tức Như Lai.

            Kẻ kẻ viên thành đồng chứng Phật,

            Người người đầy đủ chẳng cầu ai.

Âm :

            Bát-nhă tâm tông thùy lănh ngộ,

            Liễu minh tự tánh tức Như Lai.

            Cá cá viên thành đồng chứng Phật,

            Nhân nhân cụ túc bất cầu ai (tha).

Tâm tông Bát-nhă ai lănh ngộ, rơ ràng tự tánh tức Như Lai. Tâm tông là tông chủ đích chỉ thẳng về tâm, chỉ thẳng lư Bát-nhă tột cùng, hỏi ai lănh ngộ chỗ không có người không có pháp. Th́ rơ ràng tự tánh ḿnh tức là Phật, tức là Như Lai, tức là Bát-nhă.

Kẻ kẻ viên thành đồng  chứng  Phật, người người đầy đủ chẳng cầu ai. Nếu nhận được tự tánh của ḿnh là Phật th́ ai ai cũng thành Phật quả hết, và mọi người sẵn đủ tánh Phật th́ không c̣n cầu xin, không c̣n trông cậy vào người khác. Ư bốn câu kệ này nói người ngộ được tâm tông Bát-nhă th́ biết rơ tự tánh ḿnh là Phật và tất cả mọi người đều sẽ thành Phật, mọi người đều sẵn đủ tánh Phật nên không cầu xin ai cả.

XIV-    Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển,

            Cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao.

            Một tông vô trụ tâm ấn Phật,

            Muôn pháp hữu vi bọt nước xao.

Âm :

            Kinh,Lục trùng trùng phương tiện hải,

            Phật Tổ cơ duyên giáo vơng bao.

            Vô trụ nhất tông Phật tâm ấn,

            Hữu vi vạn pháp thủy phù bào.

Kinh, Lục trùng trùng phương tiện biển, cơ duyên Phật Tổ lưới giáo bao. Câu này phá chấp niệm muốn đọc hết Kinh hết Lục. Ngài nói, Kinh lời dạy của Phật, Lục là lời dạy của Tổ. Kinh Lục chỉ là phương tiện, nhiều như biển cả. C̣n cơ duyên của Phật Tổ giáo hóa chúng sanh là lưới giáo bao trùm tất cả. Nói về Kinh Lục của Phật Tổ chúng ta thấy Đại Tạng Kinh chữ Hán trên năm ngàn quyển, nhưng chúng ta giỏi lắm đọc được vài trăm quyển là cùng. C̣n Lục của chư Tổ th́ Thiền tạng gom lại có một trăm lẻ một quyển. Phương tiện th́ nhiều.

Nhưng: Một tâm vô trụ tâm ấn Phật, muôn pháp hữu vi bọt nước xao. Chỉ một tâm vô trụ đó là tâm ấn của chư Phật, c̣n các pháp hữu vi sanh diệt ví như bọt nước ngoài biển cả bị sóng vỗ là tan ngay. Tóm lại ư bài kệ nói Kinh Lục là phương tiện truyền bá của Phật Tổ nhiều như biển, cơ duyên giáo hóa  của Phật Tổ là lưới giáo bao trùm tất cả mọi người. Phương tiện tuy nhiều nhưng người học đạo ngộ được tâm vô trụ, tâm vô trụ là tâm ấn của chư Phật. Người ngộ được tâm ấn của chư Phật th́ thấy các pháp hữu vi chỉ là vô thường tạm bợ như ḥn bọt ngoài biển cả.

XV-     Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ,

            Hai người bốn mắt đối nh́n nhau.

            Nguồn linh nước pháp sa giới chảy,

            Đuốc tuệ sáng thông cơi cơi nào.

Âm :

            Tam thế Như Lai truyền diệu chỉ,

            Nhị nhân tứ mục nhăn tương giao.

            Linh nguyên pháp thủy lưu sa giới,

            Tuệ chúc quang thông sát hải dao.

Ba thuở Như Lai truyền diệu chỉ, hai người bốn mắt đối nh́n nhau. Ba đời chư Phật truyền yếu chỉ qua bốn mắt nh́n nhau. Nếu bốn mắt nh́n nhau mà nhận ra yếu chỉ nhiệm mầu của đạo th́:

Nguồn linh nước pháp sa giới chảy, đuốc tuệ sáng thông cơi cơi nào. Nguồn sáng suốt nhiệm mầu chảy khắp hết hằng sa cơi nước và ánh sáng của ngọn đuốc trí tuệ thông hết tất cả chỗ. Ư bài kệ nói rằng: ba đời chư Phật truyền diệu chỉ nếu người nào qua bốn mắt nh́n nhau mà ngộ được th́ nguồn sáng suốt chảy khắp sa giới và ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả cơi. Chúng ta thấy ngài Chân Nguyên ngộ ở chỗ bốn mắt nh́n nhau nên kết thúc mười lăm bài kệ, ở bài kệ thứ mười lăm Ngài chỉ thẳng: Bốn mắt nh́n nhau là cái gốc nhận ra tâm ḿnh là Phật. Sau đó truyền bá măi không cùng tận.

Cho nên Tổ sư Đại Huệ nói: “Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép. Đời nay nếu chẳng lănh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhă trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người, chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma, mầm linh giống trí, đồng tử đi xuất gia, theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ”. Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật; tu mà chưa thành, c̣n hơn quả trời người. Chúng sanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ. Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu tự ḿnh chẳng đoạn trừ nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, th́ chư Phật quá khứ đă thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? V́ sao chúng ta c̣n trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay, chẳng thể thành Phật ? Phải biết tự tu, tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lư này. Hăy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực.

Sau đây là dẫn lời ngài Đại Huệ, một Thiền sư nổi tiếng ở Trung Hoa đời Tống. Ngài nói rằng: Học đạo vốn không nhiều pháp, chỉ lấy tin ngộ tự tánh làm khuôn phép, nghĩa là người học đạo lấy cái ngộ tự tánh làm căn bản. Bởi v́ chúng ta tu mà không nhận ra tự tánh sẵn có của ḿnh th́ chưa giác ngộ, cho nên nói lấy tin ngộ làm khuôn phép. Đời nay nếu chẳng lănh ngộ cũng gieo được trí Bát-nhă trên đất tánh, đời đời chẳng rơi vào đường ác, kiếp kiếp chẳng mất thân người. Người chỉ tin ngộ tự tánh, tuy ngay trong đời này chưa lănh ngộ như những người căn cơ nhạy bén, cũng gieo được trí Bát-nhă trên đất tánh của ḿnh. Người nhận được bản tánh th́ đời đời không rơi vào đường ác, kiếp kiếp tái sanh vẫn được làm người. Chẳng sanh vào nhà tà kiến, chẳng vào loài quân ma. Người tin ḿnh có tự tánh th́ đời sau không sanh vào nhà ngoại đạo tà kiến, cũng chẳng kẹt vào quân ma. Mầm linh giống trí, đồng tử xuất gia theo Phật tu hành, một nghe ngàn ngộ. Người tin ḿnh có tự tánh đă sẵn có mầm linh, sẵn hạt giống trí nên c̣n bé (đồng tử) đă theo Phật xuất gia tu hành, một nghe ngàn ngộ tức là nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu. Nghe một câu mà ngộ cả ngàn câu nghĩa là sao ? Như chúng ta tu Thiền khi nghe một câu nói của một vị Tổ mà ngộ, th́ một ngàn câu của chư Tổ ta đều thông suốt. Như vậy chỉ cần ngộ một câu là mọi câu đều thông suốt, cho nên nói một nghe ngàn ngộ. Cũng như các vị tham công án mà ngộ th́ giải được tất cả các công án.

Giả sử tham học như trên mà chưa triệt, vẫn kết chủng duyên Phật, tu mà chưa thành, c̣n hơn quả trời người. Ngài Chân Nguyên nói: Giả sử người tham học như trên mà chưa thấu triệt vẫn có chủng duyên với Phật, tuy tu chưa thành chánh quả nhưng vẫn hơn quả vị ở cơi trời cơi người. Chúng  sanh phải gắng sức tự độ, Phật chẳng thể độ. Chúng ta tu là phải tự độ ḿnh, chớ Phật không thể độ được. Ở đây nói như thế cũng hơi cực đoan, đoạn sau sẽ bù lại. Nếu chẳng thật tâm tu hành, bền giữ trai giới, mà ngưỡng trông Phật đến cứu độ, không có lẽ ấy. Nếu ḿnh chẳng thật tâm tu, trai giới không giữ, mà cứ trông cầu Phật đến cứu độ th́ không bao giờ có Phật đến cứu. Nếu tự ḿnh chẳng đoạn nghiệp ác, cứ đợi Phật khác đến cứu độ, th́ chư Phật quá khứ đă thành đạo, ứng hiện nơi đời số như vi trần, sao chẳng độ hết tất cả chúng sanh ? V́ sao chúng ta c̣n trôi nổi nơi biển khổ sanh tử đến nay chẳng thể thành Phật ? Nếu tu mà cứ mong Phật tới cứu độ th́ ở đây Ngài nói, Phật ra đời ứng thân vô số sao Phật không độ cho mọi người hết mê ? Thực tế th́ chúng sanh c̣n nhiều mê lầm, vậy th́ trông cậy Phật độ bằng cách cầu xin khấn nguyện có được như ư không ? Chắc chắn là không. Cho nên phải biết tự tu tự độ, Phật chẳng thể độ. Nên biết, phân nửa ở Phật, phân nửa ở ta, xét cho tường tận lư này, hăy gắng sức tự tu chớ ỷ lại vào tha lực. Ngài nhắc chúng ta phải tự tu tự độ chớ Phật không thể độ ḿnh được. Tuy nhiên phân nửa ở Phật phân nửa ở ta. Câu này có an ủi chúng ta một chút. Phân nửa nào ở Phật, phân nửa nào ở ta ? Ví dụ đứa học tṛ đến trường học, nó học được là nhờ thầy dạy, nếu nó không học th́ không thuộc bài. Như vậy thầy giáo dạy là phân nửa của thầy, nó học thuộc bài là phân nửa của nó. Nhờ phân nửa của thầy và phân nửa của nó mà làm thành cho đứa học tṛ. Cũng vậy đức Phật đem chánh pháp truyền bá chỉ dạy, chúng ta hiểu rồi phải nỗ lực thực hành, phân nửa của Phật cộng với phân nửa của chúng ta th́ mới viên măn sự tu hành, chớ không phải cực đoan một bên. Như vậy khi tu chúng ta tha thiết lạy Phật cầu gia bị, mà cũng phải học hiểu lời dạy của Ngài, ứng dụng tu th́ mới được thành tựu viên măn. Ngài khuyên chúng ta phải xét cho kỹ lư này để nỗ lực tu hành, không nên ỷ lại vào kẻ khác. Một người học tṛ ỷ lại vào ông thầy th́ người học tṛ đó sẽ hư. Cũng vậy, người tu mà cứ ỷ lại nơi Phật không chịu tu th́ sẽ không đạt kết quả.

Xưa đức Phật Bổn Sư Thích Ca Thế Tôn đinh ninh dặn ḍ: Phật c̣n tại thế, lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Tự tánh xưa nay rỗng lặng tṛn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lư khác. Nên biết người có trí phải lập chí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng. Niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích, thường nói diệu pháp Bát-nhă, phương tiện tiếp dẫn người sau. Người chưa ngộ th́ chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành mong khiến cho chóng thành. Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn pḥng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương. Tự tánh nếu mê, phước làm sao cứu ? Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, ḷng tin khó sanh, bạn lành khó hội ngộ. Phước duyên kim cải, mừng đă hợp nhau. May thay như rùa mù gặp được bộng cây. Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc ǵ ? Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn t́m thầy, v́ pháp quên ḿnh, lôïi nước trèo non, kính lễ thưa hỏi.

Xưa đức Phật Bổn sư Thích Ca Thế tôn đinh ninh dặn ḍ: Phật c̣n tại thế lấy Phật làm thầy, Phật vào Niết-bàn lấy Giới làm thầy. Đây là dẫn lời Phật dạy trong kinh Di Giáo. Phật tức là tâm, tâm tức là Phật, tự tánh xưa nay rỗng lặng tṛn sáng, trong lặng nhiệm mầu, như như đó là chân Phật của ta, dẫu Phật ở đời cũng không có lư khác. Ngài nói Phật tức là tâm, tâm tức là Phật. Vậy Phật mà Ngài nói đây không phải Phật ở Ấn Độ, mà là Phật tâm của mỗi người chúng ta. Phật tâm của chúng ta xưa nay vốn rỗng lặng, nhiệm mầu, tṛn sáng, như như không động, ấy mới là chân Phật. Dẫu cho Phật Thích Ca c̣n tại thế cũng như vậy chớ không có lư nào khác. Nên biết người có trí phải lập  chí, phước huệ song tu, chân như riêng chứng, niệm niệm từ bi, cửa cửa lợi ích. Ngài dạy rằng người có trí tuệ th́ khi tu hành phải lập chí cho vững, phải phước huệ song tu, phải chứng ngộ chân như của chính ḿnh. Mỗi niệm mỗi niệm phải phát khởi tâm từ bi, phải khéo vận dụng phương tiện thiện xảo để làm lợi ích cho chúng sanh, không bao giờ quên và bỏ họ. Thường nói diệu pháp Bát-nhă, phương tiện tiếp dẫn người sau, người chưa ngộ th́ chỉ bày cho tỏ ngộ, nếu chưa thành th́ mong khiến cho chóng thành. Ngài dạy rằng muốn làm lợi ích cho người sau, th́ phải nói pháp nhiệm mầu của kinh Bát-nhă cho họ hiểu. Người chưa ngộ th́ giúp cho họ tỏ ngộ, người chưa thành tựu công phu làm cho họ thành tựu công phu. Nhưng muốn thực hiện được điều nói trên, trước hết chúng ta phải tỏ ngộ, phải thành tựu công phu tu hành. Nếu chúng ta chưa tỏ ngộ chưa thành tựu công phu tu hành mà giúp cho người tỏ ngộ, th́ e rằng không có kết quả. Đó là điều tối quan trọng trong việc lợi tha. Nếu không hiểu chỗ này, nhiều khi chúng ta nhiệt t́nh quá, muốn làm cho người ngộ mà chính ḿnh chưa ngộ, dù có làm thế mấy cũng không tới đâu.

Kinh nói: tài thí như ngọn đèn chỉ soi sáng một căn pḥng, pháp thí như mặt trời sáng đầy khắp mười phương. Ngài dẫn lời trong kinh nói người bố thí tiền của, giống như ngọn đèn sáng để ở  trong căn pḥng, tuy có ánh sáng nhưng chỉ sáng trong phạm vi nhỏ hẹp. C̣n pháp thí tức là đem Phật pháp giảng dạy cho mọi người nghe, th́ lợi ích rất nhiều, như ánh sáng mặt trời soi khắp mười phương. Ví dụ như chúng ta có một trăm ngàn đồng đem ra bố thí, th́ chỉ giúp được một vài gia đ́nh qua cơn thiếu thốn, vậy chỉ cứu được cái khổ tạm thời. C̣n nếu chúng ta thâm nhập Phật pháp th́ một buổi giảng, một hai ngàn người nghe, hiểu, ứng dụng tu lợi ích rất nhiều. Hơn nữa họ nghe Phật pháp họ tu, để hết khổ an vui lâu dài th́ chúng ta sẽ cứu được cái khổ vĩnh viễn. Như vậy bố thí pháp Phật không có giới hạn nên ví như mặt trời soi sáng mười phương. Bố thí tiền của có giới hạn nên ví như ngọn đèn có ánh sáng soi trong một phạm vi nhỏ hẹp. Hiểu rơ như thế nên người tu hành phải thâm nhập chánh pháp, đem ra giảng dạy để cứu khổ vô minh cho chúng sanh, đó mới là việc quan trọng. C̣n chúng ta làm ra tiền để giúp đỡ người nghèo, đó chỉ là việc thiện nhỏ thôi. Bởi v́ sức người có chừng mực, tiền của có giới hạn, biết bao nhiêu tiền của mà chia cho đủ, chỉ có bố thí pháp là khắp cùng không giới hạn. Tự tánh nếu mê phước làm sao cứu. Ngài nói nếu người mê không nhận ra tự tánh, tức tánh Phật của ḿnh th́ dù có làm việc phước thiện bao nhiêu đi nữa, cũng không cứu được họ. Cho nên muốn cứu ḿnh th́ trước hết phải  nhận ra tự tánh. Ví dụ như có người c̣n rất nhiều tham sân si, phiền năo đủ thứ, nhưng họ có nhiều tiền đem ra bố thí giúp đỡ người này người kia. Tuy làm việc bố thí là có phước, nhưng vẫn không cứu được cái mê của họ, v́ họ chưa nhận ra tánh giác của chính ḿnh. Cho nên người tu mà mê tự tánh là điều đáng sợ, chúng ta không nên xem thường. Có nhiều người nói tôi tu sơ sơ, hoặc tôi tu phước là đủ rồi, cho nên suốt đời lo giúp người này, cứu khổ người kia, mà quên cứu ḿnh, chuyện giác ngộ đối với họ rất là xa xôi.

Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, Thánh tăng khó thấy, chánh pháp khó nghe, tín tâm khó phát sanh, bạn lành khó hội ngộ. Ngài nói được sanh thân làm người là cái khó thứ nhất. Cho nên Phật tử đă được thân người, sáu căn đầy đủ, mà gặp chuyện buồn khổ đ̣i tự tử là không hiểu đạo, chẳng những mang tiếng ngu, mà c̣n bị người ta chê cười, Phật tử mà không xứng đáng là con Phật. Phật tử gặp chuyện buồn tự tử c̣n bị người đời chê ngu, không xứng đáng là đệ tử Phật, huống nữa là người xuất gia. Người xuất gia gặp chuyện buồn đ̣i tự tử có thể tha thứ được không ? Người xuất gia hiểu đạo, biết thân này khó được, nương thân giả tạm để tu hành như người nương bè qua sông, qua chưa tới bờ mà đ̣i phá bè là chuyện làm của kẻ ngu. Người tu mà đ̣i tự tử là ư phạm giới sát, ḿnh tự sát ḿnh đáng ăn đ̣n không biết bao nhiêu gậy. Chúng ta tu nếu chưa được an lạc th́ phải khéo léo chuyển hóa nội tâm cho được an lạc. Hơn nữa được thân người rất khó mà tự tử là hủy hoại thân, người hủy hoại thân là người đáng chê  trách  nhất. Cho nên ở trong chùa mà nói tự tử thật là khó nghe.

Cái khó thứ hai là Phật pháp khó gặp. Song có người nói muốn gặp Phật pháp, th́ đến các nhà phát hành kinh sách thỉnh bao nhiêu cũng có, sao nói khó gặp ? Kinh Phật để lại rất nhiều, nói Phật pháp khó gặp là khó chỗ nào ? Chúng ta đừng hiểu rằng gặp Phật pháp là thấy được quyển kinh Phật, mà gặp ở đây là nghe Phật pháp nhận hiểu để ứng dụng tu, đó mới là khó. Hiểu Phật pháp là khó, c̣n xem kinh bằng mắt là chuyện dễ. Thế mà có người cầm quyển kinh Phật lên xem th́ buồn ngủ, ngồi trong giảng đường nghe giảng th́ ngủ gục, c̣n xem truyện, xem tiểu thuyết th́ quên ăn bỏ ngủ, xem truyền h́nh suốt ngày, nhất là xem phim chưởng đấm đá với nhau, suốt ngày không biết chán. Như vậy với người không biết tu gặp kinh Phật xem bằng mắt cũng là chuyện khó, huống là nhận hiểu Phật pháp bằng tâm để ứng dụng tu lại càng khó hơn.

Cái khó thứ ba là Thánh tăng khó gặp. Điều này dĩ nhiên, nhất là ở thời kỳ mạt  pháp, phàm Tăng th́ dễ kiếm, chớ Thánh tăng th́ rất khó gặp.

Cái khó thứ tư là chánh pháp khó nghe. Người đời thường nói “Thuốc đắng đă tật lời thật trái tai”. Chánh pháp là pháp chân chánh đúng đắn nói lên lẽ thật của con người và sự vật. Ví dụ có người thấy chúng ta liền khen thầy là người có. phước tướng, thông minh... nói như vậy rất là dễ nghe và cảm thấy vui trong ḷng. Nếu họ nói thầy là cái túi da hôi thúi, là cái bô đựng đồ dơ được đậy kín và sơn vẽ bên ngoài. Nói như vậy là nói sự thật mà người nghe cảm thấy khó chịu không vui. Chánh pháp khó nghe là khó ở chỗ đó. V́ chánh pháp luôn nói lên sự thật mà mọi người muốn che đậy.

Cái khó thứ năm là tín tâm khó phát sanh. Tại sao khó ? Giả sử tôi nói tụng kinh chừng bảy biến th́ được phước nhiều, đó là điều dễ tin, nếu tôi nói quí vị hăy tin tâm ḿnh là Phật, đó là điều khó tin. Bởi v́ có nhiều người khi nghe nói tâm ḿnh là Phật th́ lắc đầu từ chối con không dám tin đâu, con không có phần chỉ mong cầu phước báo ở cơi nhơn thiên thôi. Tin tâm ḿnh là Phật ít người dám tin cho nên nói ḷng tin khó phát sanh.

Cái khó thứ sáu là bạn lành khó hội ngộ, tức là bạn lành khó gặp. Trước hết chúng ta phải phân biệt thế nào là bạn lành, thế nào là bạn dữ. Giả sử ở trong Thiền Viện, nếu có một sư huynh thấy một sư đệ đang ngồi Thiền bỏ đi xuống, hôm sau hỏi lư do sư đệ đáp rằng đau bụng. Vài ba lần như thế và lần nào cũng trả lời có lư do. Sư huynh biết sư đệ này đang mang bệnh lười biếng cho nên rầy rà: đệ tu hành ǵ mà lười biếng quá, cưng chiều cái thân này lắm, phải nỗ lực vượt  qua  chớ ! Nghe  như  thế  sư đệ nọ hết muốn gần sư huynh. Nhưng nếu có một sư huynh khác nghe sư đệ nói đau bụng, th́ lấy dầu xoa, nghe than buồn ngủ th́ bảo đi ngủ, nghe nói đau chân th́ bảo thôi đừng rán, coi chừng bệnh à... Một người rầy quở, một người săn sóc an ủi, chúng ta thử xét ai là bạn lành ? Nếu trong Thiền Viện năm chục chúng mà có ba chục vị thương sư đệ giống như vị sư huynh thứ hai th́ sư đệ tu có tiến không ? Chắc chắn là không tiến. Như vậy người khó khăn rầy rà để thúc đẩy ḿnh tiến lên đó là bạn lành. Người dễ dăi ch́u chuộng theo cái sở thích của ḿnh, làm cho ḿnh tu không tiến đó là bạn chẳng lành. Tổ Qui Sơn có dạy “Gần gủi bạn lành như đi trong sương móc, tuy thấy chẳng ướt áo, nhưng lần lần thấm nhuận. Lân la đứa dữ ắt nhiễm lấy hung hăng gây ra nhiều tội lỗi, quả báo ngay trước mắt”. Song theo thường t́nh th́ bạn dữ dễ gần hơn bạn lành. Đó là chuyện trong chùa. Sau đây là chuyện ngoài đời. Ví dụ có một Phật tử nam đi ngang qua quán rượu, có người bạn đang ngồi uống rượu trong quán kêu vô nài ép bảo  uống, Phật tử ấy từ chối, bị người bạn chê cười cho rằng đàn ông mà không có chí khí của kẻ nam nhi, giống như đàn bà. Giả sử lúc đó Phật tử kia nhận lời mời của người bạn uống rượu say sưa. Nhưng có người bạn thứ hai can rằng: Bạn là Phật tử đă thọ qui giới uống rượu là phạm giới cấm của Phật. Quí vị xét coi người ép uống rượu và người la rầy khuyên can không cho uống rượu, người nào là bạn lành ? Quí vị thích người nào hơn ? Dĩ nhiên là thích người ép uống, nhưng người đó đem đến điều không tốt cho ḿnh. Như vậy bạn chẳng lành dễ gần hơn là bạn lành, cho nên nói bạn lành khó hội ngộ. Chúng ta là người học đạo phải biết rơ ai là bạn lành, để gần gủi được thấm nhuần những điều tốt, ai là bạn chẳng lành phải khéo dùng phương tiện để chuyển hóa họ, nếu không đủ đạo lực th́ không nên gần nhiều, gần nhiều sẽ có hại cho việc tiến tu. Xét qua sáu điều khó được Ngài nêu ở trên, đa số chúng ta đều có đủ. Như vậy là quá tốt, nếu người nào chưa đủ th́ hăy rán tạo nhân duyên cho đủ. Phước duyên kim cải, mừng đă hợp nhau. Người ta thường nói cây kim hạt cải, hai cái đó gặp th́ hút vào nhau, ư muốn nói mừng cho ḿnh đă có phước duyên tốt, hội đủ những điều kiện tốt, những điều khó thực hiện được mà ḿnh thực hiện được như: Phật pháp khó gặp mà ḿnh gặp, chánh pháp khó nghe mà ḿnh được nghe v.v...

May thay như rùa mù gặp bọng cây. Câu chuyện rùa mù gặp bộng cây, trong kinh A-hàm đức Phật có kể: Có một cái bộng cây trôi giạt ngoài biển cả, sóng gió đưa đẩy nay ở bên Đông, mai qua bên Tây. Có con rùa mù ở dưới đáy biển, một trăm năm nó trồi đầu lên một lần, nó muốn t́m bộng cây để chui vào. Vậy rùa mù t́m được bộng cây dễ hay khó ? Rất khó. Ư đức Phật nói con người sau khi mất thân này, muốn được thân trở lại khó như rùa mù t́m gặp bộng cây vậy. Ngày nay chúng ta được thân này thật là có nhiều phúc duyên, nếu không chịu nỗ lực tu hành theo lời Phật dạy, khi mất thân này rồi sẽ ra sao ? Chúng ta bỏ sự nghiệp đi xuất gia nên cầu việc ǵ ? Chúng ta bỏ nhà, bỏ cha mẹ thân bằng quyến thuộc vào chùa tu, mục đích cầu cái ǵ ? Phải xét kỹ, cầu no ấm sung sướng, hay cầu giác ngộ, giải thoát khổ sanh tử cho chính ḿnh và chúng sanh ? Đây là câu hỏi mỗi người phải tự trả lời. Chớ tham đắm danh lợi, phải chọn bạn t́m thầy, v́ pháp quên ḿnh lội nước trèo non kính lễ thưa hỏi. Ngài răn những lời hết sức thực tế và tha thiết vô cùng. Chúng ta đi tu đừng tham đắm danh lợi v́ danh lợi làm chướng ngại sự tu hành. Đi tu th́ phải cầu thầy sáng, để hướng dẫn ḿnh tu đúng chánh pháp Phật dạy. Chọn bạn lành để trợ những duyên tốt cho đường tu được tiến bộ hanh thông. Phải v́ Phật pháp quên thân mạng, phải vượt suối  băng rừng để t́m những bậc đạo cao đức trọng mà thưa hỏi chỗ thâm áo của Phật pháp, có như thế mới không uổng một đời tu. Nếu đi tu v́ mục đích an nhàn, sung sướng cho bản thân th́ chưa phải là người thật tâm xuất gia cầu đạo giải thoát.

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ?

Dạy rằng : Sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Đây là hai việc thật rất khó. Song này các người, do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham t́m minh sư, bạn tốt, cúi đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Đại đức từ bi, mở rộng phương tiện chỉ bày cho sáng tỏ lư này, sớm được ngộ đạo.

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Đáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết, chết đi về đâu ?

Đáp: Lại từ vô vi đi.

Hỏi: Thế gian không việc khó, thế gian có hai việc khó. Thế nào là hai việc khó ? Câu hỏi này nghe hơi khó hiểu. Thế gian không việc khó, lại nói thế gian có hai việc khó, nếu không việc khó  th́ làm ǵ có hai việc khó ? Ư Ngài muốn nói rằng trên thế gian không có việc ǵ khó, nhưng xét kỹ có hai việc khó, đó là sanh từ đâu đến ? Chết rồi đi đâu ? Đây là hai việc rất khó, v́ hai điều này là hai điều thắc mắc lớn lao của con người. Tất cả chúng ta đều thắc mắc ḿnh từ đâu đến đây và sau khi chết ḿnh sẽ về đâu ? Đó là hai câu hỏi mà tất cả chúng ta không ai giải đáp được. Chính hai điều này khi xưa đức Phật Thích Ca lúc c̣n là Thái tử, Ngài cũng thắc mắc như chúng ta. Và, Ngài quyết phăng t́m cho ra manh mối, bằng cách từ bỏ hoàng cung vượt thành đi tu. Ngày nay chúng ta là người tu theo đức Phật cũng phải quyết tâm t́m cho ra manh mối. Muốn thực hiện điều đó Ngài dạy: Song này các người do hai việc này mà bỏ sự nghiệp đi xuất gia, lội suối trèo non, tham t́m minh sư, bạn tốt, cuối đầu lễ bái thưa hỏi: Kính mong Đại đức từ bi, mở rộng phương tiện cho sáng tỏ lư này, sớm được ngộ đạo. Muốn giải quyết hai mối nghi trên, người học đạo phải lội suối trèo non, t́m thầy sáng bạn lành cầu chỉ dạy cho ḿnh tu, khi ngộ đạo th́ giải quyết được hai mối nghi trên. Khi xưa Thái tử Sĩ-đạt-ta ngồi tu dưới cội Bồ-đề trong suốt bốn mươi chín ngày đêm. Đêm cuối cùng khoảng canh hai Ngài chứng được túc mạng minh, biết được đời sống vô số kiếp về trước nên giải quyết được câu hỏi “ta từ đâu đến đây”. Khoảng canh ba Ngài chứng được thiên nhăn minh, thấy rơ con người sau khi chết theo nghiệp dẫn đi luân hồi trong lục đạo, kẻ đi lên, người đi xuống v.v... Như vậy muốn giải đáp câu hỏi thứ nhất người tu phải chứng túc mạng minh, giải đáp câu hỏi thứ hai phải chứng thiên nhăn minh. Ngày nay chúng ta tu c̣n mờ mịt thật là khó giải quyết được hai mối nghi “sanh từ  đâu đến, chết đi về đâu”.

Hỏi: Trước khi trời đất và cha mẹ chưa sanh, cái thân người này sanh từ đâu đến ?

Đáp: Vốn từ vô vi đến.

Lại hỏi: Người sanh ra ở đời, đến khi số hết chết đi về đâu ?

Đáp: Lại từ vô vi đi.

Đến từ vô vi đến, đi cũng từ vô vi đi. Nhưng vô vi là cái ǵ ? “Vô vi” là từ ngữ của đạo Lăo, khi Phật giáo du nhập vào Trung Quốc, nói đến lư bất sanh bất diệt, các Ngài mượn từ vô vi của đạo Lăo để dùng. Nhà Phật dùng từ vô vi, là đối lại từ chữ hữu vi. Phàm tất cả sự vật có h́nh tướng ở thế gian có sanh có diệt là hữu vi, pháp không sanh diệt gọi là vô vi. Hỏi rằng: khi cha mẹ chưa sanh ta từ đâu đến ? Đáp: từ vô vi đến tức là từ chỗ bất sanh bất diệt đến. Hỏi sau khi chết rồi đi về đâu ? Đáp rằng: trở về chỗ bất sanh bất diệt. Câu đáp này hơi gượng một chút, không sát nghĩa lắm. Sau  đây tôi giải thích kỹ hơn về câu đáp sanh từ vô vi đến. Kinh Lăng Nghiêm nói: Chân như không giữ tự tánh hốt nhiên một niệm vô minh dấy khởi, tất cả tướng sanh diệt dấy khởi theo nên đi vào sanh tử. Từ chân mà khởi vọng niệm đi vào sanh tử nghe khó hiểu quá. Song tôi ví dụ cho dễ hiểu: Hiện giờ chúng ta đang mở mắt tỉnh táo, nhưng một lúc sau nghe mỏi mệt, gió mát thổi qua chúng ta thiu thiu ngủ gục. Vậy thử hỏi ngủ gục đó từ đâu đến ? Có phải từ cái tỉnh táo hồi nảy đến không ? Nếu không có cái tỉnh làm ǵ có cái mê, cái mê ngủ gục từ cái tỉnh. Nếu ai đánh thức chúng ta tỉnh lại th́ không c̣n mê nữa. Như vậy cái mê nó đến lúc nào chúng ta không dự biết trước được, có ai biết ḿnh sửa soạn buồn ngủ không ? Chỉ quên cái tỉnh là bị cái mê xâm chiếm, mê xâm chiếm th́ ngủ say mộng mị đủ thứ. Cũng vậy, nếu chúng ta quên tự tánh chân như th́ sẽ dấy sanh vọng niệm, v́ vọng niệm dấy khởi nên sanh ra đủ thứ khổ đau. Cho nên hỏi sanh từ đâu đến ? Đáp từ vô vi, tức là quên cái không sanh diệt nên dấy niệm sanh diệt rồi đi vào trong sanh tử, chịu sanh tử khổ đau. Khi chết trở về vô vi tức là trở về chỗ không sanh diệt. Nghe như thế có người hiểu lầm cho rằng không tu chết cũng trở về chỗ không sanh diệt. Hiểu như thế là sai lầm, chúng ta phải tu dứt hết mầm sanh diệt mới được trở về chỗ không sanh diệt, nếu không  tu th́ vẫn tiếp tục đi trong sanh tử.

Gượng nói đến đi, mà thật không có đến đi. Thế nào là thật không có đến đi ? - Chỉ kinh Bát-nhă làm chứng, nói: “Tướng không của các pháp đó, chẳng sanh chẳng diệt”. Sanh diệt đă không, th́ đến đi đâu có. Đây là khí âm dương biến hóa, ngưng tụ thành h́nh mà người sanh ra. Sắc thân bốn đại dụ như ḥn bọt nổi, có sanh có diệt. C̣n Pháp thân tṛn sáng th́ rỗng rang, rộng lớn, đích thực là biển tánh Tỳ-lô, không có lay động, vốn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, tánh đồng với hư không, biết khắp mọi nơi. V́ vậy gọi là xưa nay vô vi, vẫn hằng thường trụ, chân không lồ lộ, thật tướng rành rành, tṛn đồng thái hư, không thiếu không dư, sáng thông bát ngát, trong lặng như như, đối diện ngay trước mắt, tại sao chẳng hội ? Kinh nói: “Chân Phật pháp thân giống như hư không”. Đây thật là Pháp thân tức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư không cùng với Pháp thân không có tướng khác, chư Phật cùng với chúng sanh không có tánh khác. Chẳng ngộ tự tánh tức gọi chúng sanh, giác biết tự tánh nên gọi chư Phật. Đó là chân Phật vốn không h́nh tướng, đầy khắp cả  hư không, thế giới, đâu có đến đi ?

Gượng nói đến đi mà thật không có đến đi. Thế nào là thật không có đến đi ? Chỉ kinh Bát-nhă làm chứng, nói: Tướng không của các pháp đó, chẳng sanh chẳng diệt. Ngài dẫn văn kinh Bát-nhă để giải thích lư không đến không đi. Trong kinh Bát-nhă nói “tướng không của các pháp chẳng sanh chẳng diệt”, chẳng sanh diệt th́ đâu có đến đi. V́ các pháp do duyên hợp không có thật thể cố định, nên nói tướng của nó là không, tướng không đó chẳng sanh diệt nên không đến đi. Đây là khí âm dương biến hóa, ngưng tụ thành h́nh mà người sanh ra. Sắc thân bốn đại dụ như ḥn bọt nổi, có sanh có diệt. C̣n Pháp thân tṛn sáng th́ rỗng rang, rộng lớn, đích thực là biển tánh Tỳ-lô, không có lay động, vốn không từ đâu đến, cũng không đi về đâu, tánh đồng với hư không, biết khắp mọi nơi. Ở trên giải thích rằng sanh từ vô vi đến, tử trở về vô vi, v́ chữ vô vi là chỉ cho thể tánh bất sanh bất diệt của con người và của muôn pháp. Kế đây Ngài giải thích theo bên Nho thân người có ra là do khí âm dương biến hóa ngưng tụ mà thành h́nh, c̣n theo nhà Phật thân người là do tứ đại duyên hợp. Sắc thân do tứ đại hợp, dụ như ḥn bọt nổi chợt sanh chợt diệt, thế mà chúng ta cứ cho rằng sống sáu bảy mươi năm là lâu dài, xứng đáng. Nhưng đối với con mắt của nhà Phật thời gian sáu bảy  mươi năm không nghĩa lư ǵ cả, như bóng con ngựa chạy qua cửa sổ thật là mau. Chúng ta nh́n xuống biển thấy những ḥn bọt nổi trên mặt biển và mặt biển, vậy cái nào ngắn cái nào dài ? Ḥn bọt tụ rồi tan, không có nghĩa lư ǵ cả đối với mặt biển. Cũng vậy, nơi mỗi chúng ta sẵn có Pháp thân tṛn sáng, rộng lớn thênh thang, đây gọi là biển tánh Tỳ-lô, Tỳ-lô-giá-na chỉ cho Pháp thân. Thế mà chúng ta quên cái Pháp thân, lại nhận cái thân tứ đại duyên hợp tạm bợ, chợt c̣n chợt mất, giống như nhận ḥn bọt mà quên mặt biển thênh thang. Tuy nhiên ḥn bọt tụ tán không ngoài mặt biển. Tụ ví cho sanh, tán ví cho tử, nên nói sanh từ vô vi đến, tử từ vô vi đi, vô vi chỉ cho Pháp thân bất sanh bất diệt. Như vậy căn cứ trên Pháp thân th́ thân này sanh ra từ Pháp thân và thân này hoại đi cũng trở về Pháp thân. Ngài ví dụ sắc thân như ḥn bọt, Pháp thân như mặt biển thênh thang, thế mà chúng ta cứ lo lắng bảo vệ sắc thân nên quên mất Pháp thân, giống như người ra biển nâng niu ḥn bọt, mà quên mặt biển. Ḥn bọt dễ vỡ lại nâng niu, c̣n mặt biển thênh thang rộng lớn th́ quên, người như thế Phật nói là người đáng thương xót. Chúng ta là người quá mê muội, nên lo bảo vệ sắc thân sớm c̣n tối mất, mà quên Pháp thân chân thật không bao giờ mất. Ví như người ra biển thấy bọt nước nổi ch́m cố lấy tay vớt mà quên đi mặt biển thênh thang. Phật Tổ thương hết ḷng chỉ dạy cho chúng ta nhận ra, trở về sống với cái chân thật của ḿnh. Như vậy chúng ta mới thấy tầm quan trọng của sự tu. Tu không phải t́m kiếm những cái được mất trên thế gian này mà phải nhận ra và sống trọn vẹn với Pháp thân sẵn ở nơi ḿnh.

V́ vậy gọi là xưa nay vô vi vẫn hằng thường trụ, chân không lồ lộ, thật tướng rành rành, tṛn đồng thái hư, không thiếu không dư, sáng thông bát ngát, trong lặng như như đối diện ngay trước mắt, tại sao không hội. Ngài nói pháp thân thường trụ, thật tướng rành rành, thênh thang trùm khắp, lồ lộ, đối diện trước mắt. Vậy đối diện trước mắt là chỗ nào ? - Chúng ta nh́n thấy b́nh hoa, nh́n thấy đồng hồ ở trước mắt là đối diện trước mắt phải không ? Nếu thế là chúng ta chạy theo cảnh bên ngoài, mà quên rằng đối diện trước mắt là cái hay thấy b́nh hoa, hay thấy đồng hồ. B́nh hoa và đồng hồ là vật tụ tán sanh diệt, c̣n cái hay thấy b́nh hoa hay thấy đồng hồ là cái không sanh diệt, không bao giờ mất. Nếu không có b́nh hoa, không có đồng hồ nó vẫn thấy bầu trời hay mây nước... Cái hay thấy không bao giờ mất, nhưng khởi niệm t́m kiếm th́ sai, chỉ thầm nhận ḿnh có cái hay thấy là được rồi. Bởi v́ nếu không có cái hay thấy th́ làm sao thấy b́nh hoa, thấy đồng hồ, thấy trời, thấy mây ? Thấy được những sự vật như thế là do chúng ta có cái  hay thấy hay biết, nhận rơ ràng không nghi. Nhưng cái hay thấy không có tướng mạo nên nói nó phi sắc, phi không, phi tất cả; phi tất cả nhưng chẳng phải không, chẳng phải không chớ không phải không ngơ. Đó là chỗ rất khó mà người học Phật phải sáng suốt mới nhận ra chỗ này. Như vậy cái thấy hiện trước mắt, mà chúng ta không biết không nhận ra. Nhưng vừa dấy niệm t́m nó ở đâu, nó liền bị che khuất, t́m măi không được, tuy nhiên nó cũng tại đó không mất. C̣n không t́m nó th́ nó hiện tiền sáng rỡ, song phải khéo nhận, nếu không khéo nhận th́ không biết ḿnh có nó. Nhớ, đừng nghe nói đối diện trước mắt rồi nghĩ cái ở bên ngoài, mà hướng ra ngoài t́m kiếm là sai lầm. Đối diện mà không phải đối diện, nó hiện tiền ở trước mắt chúng ta phải khéo nhận.

Kinh nói: Chân Phật pháp thân giống như hư không. Đây nói chân Phật pháp thân giống như hư không. Xin nói kỹ chỗ này cho quí vị hiểu kẻo lầm: như chúng ta nh́n thấy b́nh hoa, cái hay thấy b́nh hoa có giống như hư không không ? - Giống ở chỗ không tướng mạo, nhưng hư không th́ không thấy được sự vật, mà cái hay thấy th́ thấy biết được sự vật. Như vậy cái hay thấy giống hư không mà không phải là hư không. Đây thực là Pháp thân tức hư không, hư không tức Pháp thân. Như chúng ta nh́n lên trời thấy có mây, cái khoảng cách từ mây đến ḿnh xa nhau, nhưng nó có bị trở ngại ǵ không ? Mây và cái thấy khác nhau, mây có h́nh tướng, cái thấy không có tướng  mạo nên ḥa trong hư không, không có cái ǵ làm trở ngại, do không trở ngại nên cái thấy tức là hư không, nên nói Pháp thân tức hư không, hư không tức Pháp thân. Hư không cùng Pháp thân không có tướng khác, chư Phật cùng chúng sanh không có tánh khác. Hư không và Pháp thân của ḿnh không có tướng khác, nếu có tướng khác th́ không ḥa lẫn trong hư không được. hay nói khác đi cái thấy cái nghe của ḿnh không có tướng khác với hư không, cho nên tiếng động, h́nh ảnh chúng ta nghe thấy đều không ngăn ngại. Nhưng chúng ta đừng hiểu rằng Pháp thân là hư không, v́ nếu nó là hư không th́ Pháp thân không thấy, không nghe, Pháp thân có thấy có biết nên không phải hư không, nhưng hai cái Pháp thân và hư không ḥa lẫn nhau. Cũng như chúng ta thấy ánh sáng và hư không là một hay khác ? Hư không là sáng hay tối ? Tự nó không sáng tối, mà do mặt trời, mặt trời chiếu th́ hư không sáng, mặt trời khuất th́ hư không tối. Như vậy sáng tối là từ nơi hư không hay từ nơi mặt trời, mà hư không có sáng tối ? Nhưng tối sáng không khác với hư không, cho nên trong khi sáng chúng ta không thể phân biệt chỗ nào là ánh sáng, chỗ nào là hư không, v́ thể nó không hai. Pháp thân của ḿnh ḥa lẫn với hư không cũng như vậy, nó lẫn nhau mà không phải một cũng không phải khác. Đó là chỗ hết sức khó hiểu.

Chẳng ngộ tự tánh tức gọi chúng sanh, giác biết tự tánh nên gọi chư Phật. Con người có tánh giác nhưng v́ quên nên gọi là chúng sanh, nếu nhận ra và sống được với tánh giác th́ gọi là Phật. Phật th́ giải thoát sanh tử, chúng sanh th́ bị sanh tử khổ đau trói buộc. V́ chúng sanh luôn luôn chạy theo cái sanh diệt, ǵn giữ thương tiếc thân mạng, nên mất thân này t́m thân khác, tụ tán liên miên, cho nên Phật nói chúng sanh luân hồi vô số kiếp, luôn chịu đau khổ trong cái ṿng lẫn quẩn này. Bây giờ chúng ta tu chủ yếu là phải giác ngộ nhận ra pháp thân bất sanh bất diệt sẵn có nơi ḿnh, nên ở đây Ngài nói: Đó là chân Phật vốn không h́nh tướng, đầy khắp cả hư không, thế giới đâu có đến đi.

Song pháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn không một vật, chẳng rơi vào các số. Tuy vô vi, chẳng rơi vào các số, mà cũng hay ứng vật hiện h́nh, ẩn hiện cùng bày, sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lư, làm ra muôn việc. Đó chính là mọi người trong mười hai giờ đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết, nhướng mày chớp mắt, ứng cơ tiếp vật, giơ tay động chân, một thể tṛn sáng, sáu căn vận dụng, ứng với tiếng với âm, hay thấy hay nghe, biết nói biết bàn, biện rơ phải quấy.

Song Pháp thân viên dung rỗng thênh, trong lặng vô vi, trọn không một vật, chẳng rơi vào các số. Đây nói Pháp thân thênh thang rỗng lặng, không một vật và không rơi vào các số, tức là danh số của thế gian. Ngài nói trọn không một vật, Lục Tổ nói xưa nay không một vật. Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng th́ “nói in tuồng một vật tức chẳng trúng”.

Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến tham vấn Lục Tổ, Tổ hỏi:

- Ở đâu đến ?

- Ở Tung Sơn đến.

Tổ hỏi:

- Vật ǵ đến ?

Sư thưa:

- Nói in tuồng một vật tức không trúng.

Khi thấy ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng đến, Lục Tổ hỏi: Vật ǵ đến là muốn gạn xem Ngài đă nhận ra pháp thân chưa. Ngài phải ở trong chúng tám năm mới nhận ra và trả lời: Nói in tuồng một vật tức không trúng. Nếu bây giờ chúng ta bị hỏi như trên sẽ trả lời: - Dạ con đem một cái túi có đựng ba cái y... Khi bậc thầy hỏi như thế là muốn ḍ xem chúng ta đă nhận ra Pháp thân bất sanh bất  diệt chưa ? Pháp thân bất sanh bất diệt đó không có h́nh tướng, nên không phải là một vật. Nghe ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng trả lời: Nói một vật tức chẳng trúng. Lục Tổ sợ Ngài rơi vào không, nên hỏi gạn lại: “Có tu chứng không ?”. Ngài đáp “Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được”. Tu chứng tức chẳng không, tức là có tu, nhiễm ô tức chẳng được, tức là thể thanh tịnh không bị cái ǵ làm nhiễm nhơ. Nghe thế Tổ biết Ngài đă nhận ra và sống được nên ấn chứng: “Ông như thế ta cũng như thế”.

Tuy vô vi chẳng rơi vào các số mà cũng hay ứng vật hiện h́nh, ẩn hiện cùng bày, sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lư làm ra muôn việc. Pháp thân không phải h́nh thức mà ẩn trong sự vật h́nh thức để hiện ra muôn sự muôn việc. Nơi chúng ta cái hay thấy biết được người vật, và nó c̣n sáng tạo ra sự vật nữa. Ví dụ chúng ta thấy hoa hồng, nếu thấy và chỉ biết hoa hồng, ngang đó th́ hết việc không có ǵ để nói. Nhưng thấy hoa hồng chúng ta bèn phân biệt hoa hồng đẹp, rồi ghi nhớ và cầm bút vẽ được cái hoa hồng. Như vậy cái hay thấy không có h́nh tướng nhưng nó có thể biến hiện thiên h́nh vạn tướng, nên nói “Pháp thân vô vi mà hay ứng vật hiện h́nh, ẩn hiện cùng bày, sắc và không chẳng hai, đầy đủ mọi lư làm ra muôn việc”. Ngài dạy tiếp: Đó chính là mọi người trong mười hai giờ đi đứng nằm ngồi, thấy nghe hiểu biết, nhướng mày chớp mắt, ứng cơ tiếp vật, giơ tay động chân, một thể tṛn sáng, sáu căn vận dụng, ứng với tiếng với âm, hay thấy hay nghe, biết nói biết bàn, biện rơ phải quấy. Trong sắc thân bằng xương thịt của chúng ta có ẩn Pháp thân bất sanh bất diệt. Bởi có Pháp thân ẩn ở sắc thân nên khiến chúng ta biết đi đứng nằm ngồi, nhướng mày chớp mắt, thấy nghe hay biết... Như vậy sắc thân do đất nước  gió  lửa hợp thành, nếu không có Pháp thân ẩn trong đó th́ không hiện ra những hành động. Từ hành động nếu chúng ta biết phản chiếu, nhận ra Pháp thân và biết đó là dụng của Pháp thân th́ tốt. Nếu chúng ta cứ chạy theo hành động, rồi tưởng mọi hành động là thật th́ chúng ta sẽ đi sâu trong mê lầm. Chúng ta biết cái dụng của pháp thân th́ tuy hành động mà hằng sống với Pháp thân. Nhưng điều này hơi khó nếu không khéo sẽ bị lầm, v́ Pháp thân ứng hiện nó có lẫn những vọng tưởng. Ví dụ chúng ta đang ngồi chợt khởi lên ư nghĩ đi ra vườn, chúng ta liền đứng dậy đi, khi khởi niệm đi th́ có nghĩ, nhưng khi đi từng bước th́ không nghĩ. Hoặc khi chúng ta mở mắt nh́n cảnh vật thấy trời mây cây cối đủ thứ, thấy rơ ràng mà không khởi niệm th́ không có lỗi. Nếu thấy mà phân biệt trời bữa nay đẹp trong sáng, hoặc mây đen sắp mưa, nếu có xen vào những kinh nghiệm, những ư tưởng th́ đă biến cái thật thành cái giả mất rồi, từ cái bất sanh biến thành cái sanh diệt. Cho nên cũng một cái biết mà gọi là chân, cũng một cái biết mà gọi là vọng. Như chúng ta thấy một đóa hoa biết là đóa hoa th́ không có lỗi, nếu khởi niệm đóa hoa này đẹp, đóa hoa kia xấu, khởi niệm phân biệt so sánh đẹp xấu là lệch lạc rồi. Cái biết có so sánh phân biệt là biết trong mê vọng, c̣n trong sanh diệt; cái biết không so sánh phân biệt đẹp xấu là biết trong tỉnh sáng an nhiên. Thế nên chư Tổ cũng ăn cơm mặc áo, đi lại như chúng ta mà các Ngài thường tự tại. C̣n chúng ta th́ ăn cơm, mặc áo đi lại mà thường vọng tưởng điên đảo. Như vậy cũng sống cũng hoạt động như nhau mà một bên chân, một bên vọng. Tuy nhiên nếu không hiểu khi ở gần các Ngài ta sẽ xem thường, cho rằng các Ngài khờ khạo không phân biệt lanh lẹ như chúng ta, nhưng cái phân biệt nhạy bén đó sẽ đưa chúng ta đi trong đường sanh tử luân hồi. Hằng ngày các Ngài ăn cơm chỉ biết ăn cơm, mặc áo chỉ biết mặc áo, chúng ta ăn cơm th́ thấy cơm ngon cơm dở, mặc th́ khen đẹp chê xấu v.v... Bởi biết theo sanh diệt cho nên đi trong sanh diệt. Biết phân biệt nhạy bén dường như khôn, nhưng đó là cái khôn của người dại. Biết sống an nhiên với tâm bất sanh bất diệt thoạt nh́n như ngu ngốc, nhưng đó là cái dại của người khôn, người biết sống nên được an lạc thảnh thơi. Người tu phải xét kỹ chỗ này.

?


[mucluc][p1][p2-c1][p2-c2][p2-c3]

[p3-c1][p3-c2][p3-c3-a1][p3-c3-a2][p3-c3-a3][p3-c3-a4][p3-c3-a5]

[Trang chu] [Kinh sach]