[Trang chu] [Kinh sach]

THIỀN SƯ VIỆT NAM

[mục lục][lời nói đầu][lời tựa]

[phần 1][phần 2][phần 3][phần 4][phần 5][phần 6][phần 7][phần 8]

[phần 9][phần 10][phần 11][phần 12][phần 13][phần 14][phần 15][phần 16][phần 17]

[phần phụ những ḍng kệ các phái][sách tham khảo]


KHƯƠNG TĂNG HỘI (K’ANG-SEN-HOUCI)

Ngài Khương Tăng Hội (K’ang-Sen-Houci) người nước Khương Cư (Sogdiane), cha mẹ sang Giao Châu buôn bán. Ngài mồ côi cha mẹ từ lúc mười tuổi. Sau thời kỳ cư tang, Ngài xuất gia, chăm học kinh điển, trở thành một tăng sĩ nổi danh thời ấy. Ngài tánh t́nh chân thật ḥa nhă rất thông minh. Ngài thông hiểu tam tạng, lục kinh c̣n nghiên cứu toán số, thiên văn, văn chương và chính trị. Ngài sang Đông Ngô tuyên dương Phật pháp trong thời Ngô Tôn Quyền (229-252).

Ngài đến thành Kiến Nghiệp (Nam Kinh) nhằm năm thứ mười niên hiệu Xích Ô nhà Ngô (247) cất một túp lều ở đó tu tŕ và mở trường giảng dạy. Ngô Tôn Quyền thấy Ngài thi thố nhiều phép lạ lấy làm tín phục, xây dựng ngôi chùa Kiến Sơ thỉnh Ngài ở. Từ đây Phật giáo thạnh hành miền Giang Tả.

Ngài phiên dịch nhiều kinh chữ Phạn ra chữ Hán và viết tựa trong kinh An Ban Thủ Ư, biên tập chú sớ các kinh khác, Ngài tịch khoảng niên hiệu Thiên Kỷ thứ tư nhà Ngô (280).

]

THÍCH ĐẠO THIỀN

Thích Đạo Thiền (Theo Cao Tăng Truyện viết) người Giao Chỉ, sớm xuất gia lập hạnh tinh nghiêm, giới luật trong sạch, chẳng kém các bậc cao đức. Dân chúng tăng tục đều kính quí đức khắc kỷ và sự dốc chí tu hành của Sư. Chùa núi Tiên Châu xưa bị nhiều cọp quấy nhiễu, Sư đến ở đó nạn ấy liền hết. Nghe Cánh Lăng Vương nhà Tề rộng mở Thiền luật, lập nhiều chỗ giảng dạy, người xa gần dong ruổi kéo đến Kim Lăng. Họ là những người tài đức bốn phương trong đạo. Sư giảng dạy kinh điển rất thông, ban đêm ít ngủ tham khảo kinh sách cố t́m chân lư. Đến năm Vĩnh Minh thứ nhất (483), Sư dạo đến kinh đô ở chùa Vân Cư Hạ tại Chung Sơn. Sư vâng lệnh vua điều khiển tăng chúng, nổi tiếng v́ rộng dùng luật Thập Tụng...

Sư thích diệt giác và quán, luôn ẩn núi xa, nếu cảnh ồn náo liền t́m  cách lui bước. Sư thích ăn những thức ăn hoang dă, mặc đồ rách rưới, miệng không bao giờ nói chuyện phù phiếm; nếu có ai cho thức ngon đồ đẹp đều đem cấp phát cho người nghèo ốm. Sư sống một đời thiểu dục tri túc, ít ai sánh kịp. Về già, Sư đến ở nhà của chùa, chôn dấu ḿnh ở núi rừng không giao thiệp với kẻ cao sang, sống trong cảnh khổ hạnh. Người ta cho thế là buồn, song Sư vẫn thấy là an vui của ḿnh. Niên hiệu Đại Thông thứ nhất  (527) Sư mất ở chùa núi, thọ 70 tuổi.  

]

THÍCH HUỆ THẮNG

Thích Huệ Thắng (Theo Cao Tăng Truyện viết) là người Giao Chỉ, ở chùa núi Tiên Châu, lánh ngụ rừng đầm, thong dong ngoại vật, tụng kinh Pháp Hoa, ngày đến một biến, mỗi năm càng sâu. Sư ăn mặc đơn sơ, tùy thân vui dùng, theo Thiền sư nước ngoài là Đạt-ma-đề-bà (Dharmadeva) học pháp quán hạnh. Mỗi lần Sư nhập định đến ngày mai mới xuất định.

Lưu Tích ở Bành Thành khi làm Thái thú ở Nam Hải, nghe đạo phong của Sư, lúc về nước thỉnh Sư cùng đi. Khi về tới Bành Thành, Sư cư trú tại chùa U Thê. Sư giữ kín chỗ kỳ đặc, thường tỏ ra ngu ngốc. Nhưng người ở lâu với Sư rất kính trọng, những học giả về Thiền rất khâm phục. Ở chùa U Thê, Sư không đ̣i phần ăn, chỉ sống bằng khất thực, hoàn toàn tuân theo sự thanh liêm.

Năm Vĩnh Minh thứ năm (487), Sư dời về Tịnh xá Diên Hiền tại núi Khế Chung. Từ trẻ đến già, Sư giữ ǵn một tâm trinh chánh.

Sư mất khoảng niên hiệu Thiên Giám (502-519), tuổi vừa 70.

]

PHÁI THIỀN TỲ-NI-ĐA-LƯU-CHI

Đời thứ:        I.Thiền sư Pháp Hiền (626)

                    II. 

                    III. Thiền sư Huệ Nghiêm

                    IV. Thiền sư Thanh Biện (686)

                    V.

                    VI.

                    VII.

                    VIII. Thiền sư Định Không (808)

                    IX. Thiền sư Thông Thiện

                     X. Trưởng lăo La Quí (936)

                    -Thiền sư Pháp Thuận (990)

                    -Thiền sư Ma-ha

                    XI. Thiền Ông Đạo Giả (979)

                    -Thiền sư Sùng Phạm (1087)

                     XII. Thiền sư Vạn Hạnh (1018)

                    -Thiền sư Định Huệ

                    -Thiền sư Từ Đạo Hạnh (1115)

                    -Thiền sư Minh Không (1141)

                    -Thiền sư Tŕ Bát (1117)

                    -Thiền sư Thuần Chân (1101)

                    XIII. Thiền sư Huệ Sinh (1063)

                    -Thiền sư Thiền Nham (1163)

                    -Thiền sư Bổn Tịch (1140)

                    XIV. Thiền sư Khánh Hỷ (1142)

                    XV. Thiền sư Giới Không

                    -Thiền sư Pháp Dung (1174)

                    XVI. Thiền sư Chân Không (1100)

                    -Thiền sư Trí

                    -Thiền sư Đạo Lâm (1203)

                    XVII. Ni sư Diệu Nhân (1113)

                    -Thiền sư Viên Học (1116)

                    -Thiền sư Tịnh Thiền (1193)

                    XVIII. Quốc sư Viên Thông (1151)

                    XIX. Thiền sư Y Sơn (1213)

]

PHÁI THIỀN VÔ NGÔN THÔNG

Đời thứ:        I. Thiền sư  Cảm Thành (860)

                    II. Thiền sư  Thiện Hội (900)

                    III. Thiền sư  Vân Phong (956)

                    IV. Đại sư  Khuông Việt (1011)

                    V. Thiền sư  Đa Bảo

                    VI. Trưởng lăo Định Hương (1051)

                    -Thiền Lăo Thiền Sư

                    VII. Thiền sư  Viên Chiếu (1090)

                    -Thiền sư  Cứu Chỉ

                    -Thiền sư  Minh Tâm (1034)

                    -Thiền sư  Bảo Tính (1034)

                    -Thiền sư  Quảng Trí

                    VIII. Thiền sư  Ngộ Ấn (1088)

                    -Thiền sư  Măn Giác (1096)

                    -Quốc Sư  Thông Biện (1134)

                    IX. Thiền sư  Bảo Giám (1173)

                    -Thiền sư  Đạo Huệ (1172)

                    -Thiền sư  Không Lộ (1119)

                    -Thiền sư  Bổn Tịnh (1176)

                    X. Thiền sư  Giác Hải (thế kỷ 11-12)

                    -Thiền sư  Tịnh Không (1170)

                    -Thiền sư  Đại Xả (1180)

                    -Thiền sư  Tín Học (1190)

                    -Thiền sư  Trường Nguyên (1165)

                    -Thiền sư  Tịnh Lực (1175)

                    -Thiền sư  Trí Bảo (1190)

                    -Thiền sư  Minh Trí (1196)

                    -Thiền sư  Tịnh Giới (1207)

                    -Thiền sư  Nguyện Học (1174)

                    XI. Thiền sư  Quảng Nghiêm (1190)

                    XII. Thiền sư  Thường Chiếu (1203)

                    XIII. Thiền sư  Thần Nghi (1216)

                   - Đại sĩ  Thông Thiền (1228)

                    XIV. Thiền sư  Tức Lự

                    -Thiền sư  Hiện Quang (1220)

                    -Cư sĩ  Ứng Thuận Vương

]

PHÁI THIỀN THẢO ĐƯỜNG

(1055 - 1205)

          I.        1. Lư Thánh Tông

                    2. Bát-nhă

                    3. Ngộ Xá

           II.      1. Ngô Ích

                    2. Thiệu Minh

                    3.- ?

                    4. Định Giác

          III.      1. Đỗâ Vũ

                    2. Phạm Âm

                    3. Lư Anh Tông

                    4. Đỗ Đô

          IV.      1. Trương Tam Tạng

                    2. Chân Huyền

                    3. Đỗ Thường

                    4.- ?

          V.       1. Hải Tịnh

                    2. Lư Cao Tông

                    3. Nguyễn Thức

                    4. Phạm Phụng Ngự

]

Thiền sư  TỲ-NI-ĐA-LƯU-CHI

(VINITARUCI) (? - 594)

(Tổ khai sáng ḍng Thiền Tỳ-ni-đa-lưu-chi ở Việt Nam)

Sư là người Nam Thiên Trúc (Nam Ấn Độ) ḍng Bà-la-môn tên Vinitaruci. Thuở nhỏ đă có chí khác thường, đi khắp miền Tây Trúc (Tây Ấn Độ) để tham khảo Thiền Tông. Nhưng v́ cơ duyên chưa gặp, Sư lại sang Đông Nam.

Sư sang Trung Quốc nhằm đời Trần Tuyên Đế niên hiệu Thái Kiến năm thứ sáu (574) vào đến Trường An. Gặp thời Chu Vũ Đế phá diệt Phật pháp, Sư lại phải sang qua đất Nghiệp (Hồ Nam). Lúc ấy, Tổ Tăng Xán đang mang y bát ở ẩn trong núi Tư Không, bỗng nhiên Sư t́m gặp được Tổ. Thấy cử chỉ phi phàm của Tổ, Sư phát tâm kính mộ, đến trước ṿng tay ba lần, Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng suy nghĩ giây lát bỗng nhiên tâm có sở đắc. Sư liền sụp xuống lạy ba lạy, Tổ cũng chỉ gật đầu ba cái. Sư lùi lại ba bước thưa:

- Đệ tử lâu nay không được an, Ḥa thượng v́ ḷng đại từ bi, xin cho con theo hầu hạ Ngài.

Tổ bảo:

- Ngươi nên mau qua phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu.

Sau khi được tâm ấn nơi Tổ, Sư từ biệt sang Quảng Châu trụ tŕ tại chùa Chế Chỉ. Thời gian sáu năm ở đây, Sư dịch xong bộ kinh “Tượng Đầu Tinh Xá” chữ Phạn ra chữ Hán.(Phật thuyết Tượng Đầu Tinh Xá Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng số 466)

Đến niên hiệu Đại Tường năm thứ hai nhà Chu (580), Sư sang Việt Nam trụ tŕ tại chùa Pháp Vân. (Chùa Pháp Vân cũng gọi là chùa Dâu tên chữ là chùa Diên Ứng ở xă Thanh Khương, huyện Thuận Thành, tỉnh Hà Bắc, hiện nay cách Hà Nội khoảng 25km về hướng Đông. Chùa này thời Lư gọi là chùa Cổ Châu (làng Cổ Châu, huyện Siêu Loại); đời Trần gọi là chùa Thiền Định hay chùa Siêu Loại; đời Hậu Lê gọi là chùa Diên Ứng.) Nơi đây, Sư dịch xong bộ kinh Đại Thừa Phương Quảng Tổng Tŕ. (Phật thuyết Đại Thừa Phương Quảng Tổng Tŕ Kinh, Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng số 275.)

Một hôm, Sư gọi đệ tử nhập thất là Pháp Hiền bảo:

- Tâm ấn của chư Phật, không có lừa dối, tṛn đồng thái hư, không thiếu không dư, không đi không lại, không được không mất, chẳng một chẳng khác, chẳng thường chẳng đoạn; vốn không có chỗ sanh, cũng không có chỗ diệt, cũng chẳng xa ĺa, mà chẳng phải chẳng xa ĺa. V́ đối với vọng duyên mà giả lập tên ấy thôi. Bởi thế, chư Phật trong ba đời cũng như thế, nhiều đời Tổ sư cũng do như thế mà được, ta cũng do như thế được, ngươi cũng do như thế được, cho đến hữu t́nh vô t́nh cũng do như thế được. Tổ Tăng Xán khi ấn chứng tâm này cho ta, bảo ta mau về phương Nam giáo hóa, không nên ở đây lâu. Đă trải qua nhiều nơi, nay đến đây gặp được ngươi quả là phù hợp với lời huyền kư. Vậy ngươi khéo giữ ǵn, giờ đi của ta đă đến.

Nói xong, Sư chấp tay thị tịch. Pháp Hiền làm lễ hỏa táng, lượm xá-lợi năm sắc, xây tháp cúng dường. Năm ấy nhằm niên hiệu Khai Hoàng thứ mười bốn nhà Tùy (594).

Về sau, vua Lư Thái Tông (1028-1054) có làm bài kệ truy tán phong tặng Sư:

          Mở lối nước Nam đến

          Nghe Ngài giỏi tập thiền.

          Hiện bày các Phật tánh

          Xa hiệp một nguồn tâm.

          Trăng Lăng-già sáng rỡ

          Hoa Bát-nhă ngạt ngào.

          Bao giờ được gặp mặt

          Cùng nhau bàn đạo huyền.

           Sáng tự Nam lai quốc      

          Văn quân cửu tập thiền     

          Ứng khai chư Phật tính      

          Viễn hợp nhất tâm nguyên 

          Hạo hạo Lăng-già nguyệt   

          Phân phân Bát-nhă liên.     

          Hà thời hạnh tương kiến    

          Tương dữ thoại trùng huyền.

]

Thiền Sư  PHÁP HIỀN

(? - 626)-(Đời thứ I, Ḍng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

Sư họ Đỗ quê ở Chu Diên (Sơn Tây), thân h́nh to lớn cao đến bảy thước ba tấc (2m30). Khi mới xuất gia, Sư  theo Đại sư Quán Duyên ở chùa Pháp Vân thọ giới. Đến lúc Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi sang Việt Nam vào chùa Pháp Vân gặp Sư. Tổ nh́n kỹ vào mặt hỏi:

- Ngươi họ ǵ?

Sư đáp:

- Ḥa thượng họ ǵ?

- Ngươi không có họ sao?

- Họ th́ chẳng không, Ḥa thượng làm sao biết được?

- Biết để làm ǵ?

Sư bỗng nhiên tự tỉnh, liền sụp xuống lạy. Tổ Tỳ-ni-đa-lưu-chi ấn chứng, từ đây về sau Sư luôn luôn theo hầu Tổ.

Sau khi Tổ tịch, Sư vào núi Từ Sơn tu thiền định, thân như cây gỗ, vật ngă đều quên. Các loài cầm thú thường quấn quít chung quanh Sư. Người đời thấy thế càng thêm kính mộ, đệ tử t́m đến học đạo càng ngày càng đông. Nhân đó, Sư mới lập chùa nhận đồ đệ ở tu, số học chúng hằng ngày trên ba trăm vị. Thiền Tông phương Nam từ đây được thạnh hành.

Thích sử Lưu Phương nghe danh của Sư, bèn dâng sớ về Trung Quốc tâu lên vua nhà Tùy:

“...Cơi này người khâm sùng Phật giáo, lại có những vị cao đức danh tăng...”

Vua Tùy sai sứ mang năm ḥm xá-lợi Phật và tờ điệp, bảo Sư xây tháp cúng dường. Sư bèn xây tháp ở chùa Pháp Vân và các chùa danh tiếng ở các châu Phong, Hoan, Trường, Ái... cũng đều dựng tháp cúng dường.

Về sau, Sư trụ tŕ tại chùa Chúng Thiện, núi Thiên Phước huyện Tiên Du.

Niên hiệu Vơ Đức năm thứ chín đời Đường (626), Sư an tường thị tịch. Thiền sư Thanh Biện là người kế thừa ḍng thiền của Sư.

]

Thiền Sư  THANH BIỆN

(? - 686)-(Đời thứ 4, Ḍng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

Sư họ Đỗ quê ở Cổ Giao, năm 12 tuổi theo ngài Pháp Đăng ở chùa Phổ Quang tu học. Khi ngài Pháp Đăng sắp thị tịch, Sư hỏi:

- Sau khi Ḥa thượng đi, con nương tựa vào đâu?

Pháp Đăng bảo:

- Con chỉ Sùng Nghiệp mà thôi.

Sư mờ mịt không hiểu.

Pháp Đăng tịch rồi, Sư chuyên tŕ kinh Kim Cang lấy đó làm sự nghiệp.

Một hôm có thiền khách đến viếng, thấy Sư tŕ kinh, bèn hỏi:

- Kinh này là mẹ chư Phật trong ba đời, thế nào là ư nghĩa mẹ Phật?

Sư thưa:

- Từ trước đến nay tŕ kinh mà chưa hiểu ư kinh.

Thiền khách hỏi:

- Ông tŕ kinh đến giờ đă được bao lâu?

- Đă tám năm.

- Tŕ kinh đă tám năm mà một ư kinh cũng không hiểu, dù tŕ măi đến trăm năm nào cóù công dụng ǵ?

Sư liền đảnh lễ, thưa hỏi chỗ thâm sâu ấy. Thiền khách bảo đến Thiền sư Huệ Nghiêm ở chùa Sùng Nghiệp giải quyết cho. Sư chợt tỉnh, nói:

- Nay tôi mới biết lời của Ḥa thượng Pháp Đăng, quả phù hợp như vậy.

Sư bèn khăn gói hỏi thiền khách đường đến chùa Sùng Nghiệp. Đến nơi, Sư làm lễ ra mắt.

Thiền sư Huệ Nghiêm thấy liền hỏi:

- Ngươi v́ việc ǵ đến?

Sư thưa:

- Con trong tâm có chỗ chưa ổn.

Huệ Nghiêm hỏi:

- Ngươi chưa ổn cái ǵ?

Sư liền đem việc trước thuật lại đầy đủ.

Huệ Nghiêm than rằng:

- Ngươi tự quên mất rồi, sao không nhớ trong kinh nói “Chư Phật trong ba đời và pháp A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, đều từ kinh này ra”, đâu không phải là nghĩa mẹ chư Phật ư?

Sư thưa:

- Phải. Thế là con tự quên.

Huệ Nghiêm hỏi:

- Kinh này là người nào nói?

- Đâu không phải Như Lai nói sao?

- Trong kinh nói “Nếu nói Như Lai có nói pháp tức là chê bai Phật, người ấy không thể hiểu nghĩa ta nói”, ngươi khéo suy nghĩ đó. Nếu nói kinh này không phải Phật nói là chê bai kinh, nếu nói là Phật nói tức chê bai Phật. Ngươi phải làm sao? Nói mau! Nói mau!

Sư toan mở miệng, Huệ Nghiêm cầm phất tử đánh ngay miệng. Sư bỗng nhiên tỉnh ngộ. Liền sụp xuống lạy tạ. Sư ở lại đây một thời gian.

Sau, Sư đến trụ tŕ chùa Kiến Dương ở làng Hoa Lâm phủ Thiên Đức.

Hóa duyên đă măn, Sư thị tịch năm Bính Tuất nhằm niên hiệu Thùy Cung thứ hai đời Đường (686).

]

Thiền Sư  ĐỊNH KHÔNG

(730 - 808)-(Đời thứ 8, ḍng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

   Sư họ Nguyễn quê ở làng Cổ Pháp, con nhà danh giá, lại thâm hiểu về thế số. Những hành động của Sư đều hợp pháp tắc, người trong làng quí kính gọi là Trưởng Lăo.

Lúc tuổi đă lớn, Sư đến pháp hội Long Tuyền Nam Dương nghe pháp, liền lănh hội ư chỉ. Nhân đây Sư phát tâm xuất gia theo Phật.

Đời Đường khoảng niên hiệu Trinh Nguyên (785-804), Sư lập ngôi chùa Quỳnh Lâm tại quê nhà. Khi đào đất đắp nền chùa gặp được một quả hương đề và mười cái khánh. Sư sai đem xuống nước rửa, một cái khánh lăn đến tận đáy ao mới dừng. Sư giải rằng:

- Chữ thập??, chữ khẩu, ??hợp thành chữ cổ. Chữ thủy?, chữ khứ hợp thành chữ pháp. Thổ ?? là chính chỗ chúng ta ở, tức chỉ đất này.

Nhân đây, Sư đổi tên làng là Cổ Pháp (trước tên Diên Uẩn), lại làm bài tụng:

          Đất dâng pháp khí

          Một món thuần đồng.

          Ấy điềm Phật pháp hưng long.

          Đặt tên làng là Cổ Pháp.

          Địa tŕnh pháp khí?

          Nhất phẩm tinh đồng.?

          Trị Phật pháp chi hưng long

          Lập hương danh chi Cổ Pháp.)?

Sư lại nói:

          Pháp khí hiện ra mười cái chung đồng

          Họ Lư làm vua ba phẩm thành công.

          Pháp khí xuất hiện thập khẩu đồng chung

          Lư hưng vương tam phẩm thành công.)

Lại nói:

          Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ

          Danh hiệu làng Cổ Pháp

          Gà ở sau loan nguyệt

          Chính là Tam bảo thạnh.

          (Thập, khẩu, thủy, thổ, khứ

          Cổ Pháp danh hương hiệu. 

          Kê cư loan nguyệt hậu      

          Chánh thị hưng Tam bảo.)

Sau, Sư trụ tŕ tại chùa Thiền Chúng ở làng Dịch Bảng, phủ Thiên Đức (nay là làng Đ́nh Bảng, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh).

Sắp tịch, Sư gọi đệ tử Thông Thiện đến bảo:

- Ta muốn mở rộng làng xă, nhưng giữa chừng e gặp họa nạn, ắt có người khác đến phá hoại đất đai của chúng ta (quả nhiên, sau có Cao Biền đời Đường đến trấn ở đây). Sau khi ta tịch, ngươi khéo ǵn giữ pháp của ta. Khi nào gặp người họ Đinh sẽ truyền th́ nguyện của ta được măn vậy.

Nói xong,  Sư cáo biệt mà tịch, thọ 79 tuổi, nhằm đời Đường niên hiệu Nguyên Ḥa thứ ba (808) năm Bính Tư.

Thông Thiện xây tháp thờ Sư ở phía tây chùa Lục Tổ và ghi lời phó chúc rành rơ.

]

Thiền Sư VÔ NGÔN THÔNG

(? - 826)

(Tổ khai sáng ḍng Thiền Vô Ngôn Thông ở Việt Nam)

Sư họ Trịnh quê ở Quảng Châu, xuất gia tại chùa Song Lâm xứ Vũ Châu. Tánh Sư điềm đạm ít nói mà thông minh, nên thời nhân gọi là Vô Ngôn Thông.

Sư lễ Phật, có một thiền khách đến hỏi:

- Tọa chủ lễ đó là cái ǵ?

Sư đáp:- Là Phật.

Thiền khách bèn chỉ tượng Phật hỏi:- Cái này là Phật ǵ?

Sư không đáp được.

Đến tối, Sư y phục chỉnh tề đến lễ thiền khách, thưa:

- Hôm nay Thầy hỏi, tôi chưa biết ư chỉ thế nào?

Thiền khách hỏi:- Tọa chủ được mấy hạ?

Sư thưa:- Mười hạ.

Thiền khách bảo:- Đă từng xuất gia chưa?

Sư càng thêm mờ mịt.

Thiền khách khuyên Sư đồng đến tham vấn với Mă Tổ. Đi đến Giang Tây nghe tin Mă Tổ đă tịch, bèn đến yết kiến Bá Trượng Hoài Hải.

*
*  *

Một hôm trong giờ tham vấn, có vị tăng hỏi Bá Trượng:

- Thế nào là pháp môn đốn ngộ của Đại thừa?

Bá Trượng đáp:- Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự chiếu.

Nghe câu này, Sư hoát nhiên đại ngộ.

*
*  *

Sau, Sư về Quảng Châu trụ tŕ tại chùa Ḥa An. Có người hỏi:

- Thầy phải Thiền sư chăng?

Sư đáp:- Bần đạo chẳng từng học thiền.

Sư lặng thinh giây lâu, gọi người kia.

Người kia đáp: - Dạ!

Sư chỉ cây ṭng lư (cây móc).

*
*  *

Một hôm, Sư bảo Huệ Tịch đem giường lại. Huệ Tịch đem đến.

Sư bảo:- Đem lại chỗ cũ.

Huệ Tịch vâng theo.

Sư hỏi:- Cái giường ở bên này là vật ǵ?- Không vật.

Sư gọi: - Huệ Tịch!

Huệ Tịch đáp: - Dạ!

Sư bảo: - Đi!

*
*  *

Năm Canh Tư niên hiệu Nguyên Ḥa thứ mười lăm đời Đường (820), Sư sang An Nam ở chùa Kiến Sơ làng Phù Đổng, huyện Tiên Du Bắc Ninh. Ở đây trọn ngày, Sư ngồi xây mặt vào vách, suốt mấy năm mà không ai biết, chỉ Thiền sư Cảm Thành (Trụ tŕ chùa này) biết Sư là vị cao tăng đắc đạo trong nhà thiền. Cảm Thành hết ḷng kính trọng tôn thờ Sư làm thầy.

Một hôm, Sư gọi Cảm Thành đến bảo:

- Ngày xưa Tổ sư là Nam Nhạc Hoài Nhượng khi sắp tịch có dặn mấy lời:

          Tất cả các pháp đều từ tâm sanh

          Tâm không chỗ sanh, pháp không chỗ trụ.

          Nếu đạt tâm địa chỗ trụ không ngại

          Chẳng gặp thượng căn dè dặt chớ dạy.

          (Nhất thiết chư Pháp giai tùng tâm sanh

          Tâm vô sở sanh pháp vô sở trụ.

          Nhược đạt tâm địa sở trụ vô ngại

          Phi ngộ thượng căn thận vật khinh hứa.)

Nói xong, Sư chấp tay thị tịch, nhằm năm Bảo Lịch thứ hai đời Đường (826). Cảm Thành rước Sư lên hỏa đàn, thu hài cốt xây tháp thờ ở núi Tiên Du.

]

Thiền Sư CẢM THÀNH

(? - 860)-(Đời thứ I, ḍng Vô Ngôn Thông)

Sư quê ở Tiên Du, không rơ họ ǵ, chỉ biết mới xuất gia đạo hiệu là Lập Đức, ở tại quận nhà chuyên lấy việc tŕ tụng làm sự nghiệp. Có Hương hào họ Nguyễn ở làng Phù Đổng mến đức hạnh cao cả của Sư, t́nh nguyện đem gia trạch cúng cho Sư làm ngôi chùa. Sư một mực từ chối. Ban đêm Sư mộng thấy thần nhân mách:“Nếu theo ư họ  Nguyễn, thời gian chẳng lâu sẽ được điều lành lớn.” Nhân đó, Sư mới nhận lời, nay chính là ngôi chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng ấy vậy.

Quả như lời thần nhân mách, Sư về trụ tŕ chưa bao lâu, Thiền sư Vô Ngôn Thông đến. Biết Thiền sư chẳng phải là hạng thường, Sư hôm sớm hết ḷng thờ kính, không hề biếng trễ. V́ thế Thiền sư Vô Ngôn Thông đổi hiệu Sư là Cảm Thành.

Một hôm, Thiền sư Vô Ngôn Thông gọi Sư vào dạy:

- Xưa đức Thế Tôn v́ một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, hóa duyên viên măn Ngài vào Niết-bàn. Diệu tâm này tên Chánh pháp Nhăn tạng, thật tướng không tướng, pháp môn chánh định, chính Ngài trao cho đệ tử là Tôn giả Ma-ha Ca-diếp làm Sơ tổ. Đời đời truyền nhau đến Tổ Đạt-ma, từ Ấn Độ sang Trung Hoa trải bao nguy hiểm, v́ truyền pháp này. Cứ thế đến Lục tổ Tào Khê được nơi Ngũ tổ, vẫn ḍng phái Đạt-ma. Tổ Đạt-ma lúc mới đến, v́ người chưa tin hiểu nên lấy việc truyền y bát để rơ chỗ đắc pháp. Nay niềm tin đă thuần thục, th́ y là đầu mối của sự tranh giành. Thế nên, Ngũ tổ dặn: “Phải dừng ngay nơi ông, không nên truyền nữa.” Do đó, đến nay chỉ dùng tâm truyền tâm mà chẳng trao y bát.

Khi ấy, Tổ sư Nam Nhạc Hoài Nhượng nhận được chân truyền này, bèn trao cho Mă Tổ Đạo Nhất, Mă Tổ trao cho Bá Trượng Hoài Hải. Ta ở chỗ Tiên sư Bá Trượng nhận được tâm pháp ấy đă lâu, nghe ở phương này (Việt Nam) có nhiều người hâm mộ Đại thừa, v́ thế mà đến phương Nam để t́m thiện tri thức. Nay ta gặp ngươi đây, ấy bởi túc duyên đă sẵn. Nghe ta nói kệ:

          Các nơi đồn đại

          Dối tự huyên truyền

          Rằng Thủy Tổ ta

          Gốc từ Tây Thiên.

          Truyền pháp Nhăn tạng

          Gọi đó là Thiền

          Một hoa năm cánh

          Hạt giống liên miên.

          Thầm hợp lời mật

          Muôn ngàn có duyên

          Đều gọi tâm tông

          Thanh tịnh bản nhiên.

          Tây Thiên cơi này

          Cơi này Tây Thiên

          Xưa nay nhật nguyệt

          Xưa nay sơn xuyên.

          Chạm đến thành trệ

          Phật tổ thành oan

          Sai đó hào ly

          Mất đó trăm ngàn.

          Ngươi khéo quán sát

          Chớ lừa cháu con

          Ngay như hỏi ta

          Ta vốn không lời.

          Chư phương hạo hạo         

          Vọng tự huyên truyền        

          Vị ngô thủy tổ        

          Thân tự Tây thiên.  

          Truyền pháp nhăn tạng      

          Mục vị chi thiền     

          Nhất hoa ngũ diệp  

          Chủng tử miên miên.         

          Tiềm phù mật ngữ  

          Thiên vạn hữu duyên        

          Hàm vị tâm tông     

          Thanh tịnh bản nhiên.        

          Tây Thiên thử độ    

          Thử độ Tây Thiên  

          Cổ kim nhật nguyệt 

          Cổ kim sơn xuyên. 

          Xúc đồ thành trệ     

          Phật tổ thành oan    

          Sai chi hào ly         

          Thất chi bách thiên.

          Nhữ thiện quán sát  

          Mạc trám nhi tôn    

          Trực nhiêu vấn ngă 

          Ngă bổn vô ngôn.)  

Nghe xong bài kệ, Sư liền lănh ngộ.

*
*  *

Có vị tăng đến hỏi:  - Thế nào là Phật?

Sư đáp:- Khắp tất cả chỗ.

          - Thế nào là Phật tâm?

          - Chẳng từng che dấu.

          - Học nhân chẳng hội?

          - Đă lầm qua rồi.

*
*  *

Về sau, Sư không bệnh mà tịch vào năm Canh Th́n, nhằm năm đầu niên hiệu Hàm Thông (860) nhà Đường.

]

Thiền Sư THIỆN HỘI

(? - 900)-(Đời thứ 2, ḍng Vô Ngôn Thông)

Sư quê ở Điển Lănh, thuở nhỏ theo thầy Tiệm Nguyên ở chùa Đông Lâm bổn hương xuất gia, hiệu là Tổ Phong. Lớn lên, Sư vân du khắp nơi để t́m thầy tham học. Khi đến chùa Kiến Sơ gặp Thiền sư Cảm Thành bèn xin ở lại đây. Phục vụ Thiền sư Cảm Thành hơn mười năm, mà Sư không biết mỏi mệt.

Một hôm, Sư vào thất hỏi:

- Trong kinh có nói: “Đức Thích-ca Như Lai đă từng tu hành trải vô số kiếp mới được thành Phật.” Nay Thầy dạy rằng: “Tâm tức là Phật”, con chưa hiểu lẽ đó, cúi xin Thầy một phen khai ngộ cho.

Thiền sư Cảm Thành bảo:

- Trong kinh là người nào nói?

Sư thưa:

- Đâu không phải là Phật nói ư?

- Nếu là Phật nói, tại sao trong kinh Văn Thù lại nói: “Ta trụ ở đời 49 năm, chưa từng nói một chữ dạy người.” Cổ đức nói: “Người t́m nơi văn, chấp nơi chứng càng thêm trệ; khổ hạnh cầu Phật là mê, ĺa tâm cầu Phật là ngoại đạo; chấp tâm cầu Phật là ma.”

- Như thế, tâm ấy cái ǵ chẳng phải Phật, cái ǵ là Phật?

- Xưa có người đến hỏi Mă Tổ: “Tâm tức là Phật, tâm nào là Phật?” Mă Tổ bảo: “Ông nghi cái nào chẳng phải Phật chỉ ra xem?” Người kia không đáp được. Tổ dạy: “Đạt th́ khắp tất cả cảnh, chẳng ngộ hằng trái xa.” Chỉ câu nói này, ngươi lại  hội chăng?

Liền đó, Sư thưa:

- Nay con hội rồi.

- Ngươi hội thế nào?

- Khắp tất cả chỗ không đâu chẳng phải tâm Phật .

Nói xong Sư sụp xuống lạy.

Thiền sư Cảm Thành bảo:

- Thế là ngươi hiểu đúng rồi.

Nhân đó, Thiền sư Cảm Thành cho Sư hiệu là  Thiện Hội.

*
*  *

Sau, Sư trụ tŕ ở chùa Định Thiền làng Siêu Loại để truyền bá tâm tông. Năm thứ ba niên hiệu Quang Hóa đời Đường (900), Sư tịch tại bổn tự.

]

Trưởng Lăo LA QUÍ

(852 - 936)-(Đời thứ 10, ḍng Tỳ-ni-đa-lưu-chi)

Sư họ Đinh người An Chân, đi du phương từ thuở nhỏ, tham yết khắp các bậc thầy nổi danh trong nhà Thiền. Trải nhiều năm như thế, mà pháp duyên chưa hợp, Sư sắp thối chí. Sau gặp Thiền sư Thông Thiện ở chùa Thiền Chúng nói một câu, tâm Sư liền khai ngộ. Từ đây, Sư ở lại hầu hạ thầy.

Thiền sư Thông Thiện sắp tịch gọi Sư đến bảo:

- Xưa thầy ta là Định Không từng dặn ḍ rằng: “Con khéo giữ ǵn pháp của ta, gặp người họ Đinh sẽ truyền.” Ngươi gắng đảm đang lấy. Nay ta đi vậy.

Sư đă được pháp tùy phương diễn hóa, chọn đất cất chùa. Mỗi khi nói ra lời nào đều phù hợp sấm ngữ. Sư tổ chức đúc tượng Lục Tổ bằng vàng tại chùa Lục Tổ. Sau v́ sợ trộm cướp nên đem chôn trước cửa chùa. Sư di chúc rằng:    

          Gặp vua sáng th́ hiện

          Thấy chúa tối nên ẩn.

          Trị minh vương tắc xuất

          Ngộ ám chúa tắc tàng.) 

Sư trụ tŕ chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ  Thiên Đức.

Sắp tịch, Sư bảo đệ tử là Thiền Ông rằng:

- Thuở trước Cao Biền xây thành bên sông Tô Lịch, v́ biết vùng đất làng Cổ Pháp có khí tượng đế vương, nên cho đào đứt con sông Điềm và những hồ ao liên hệ v.v... đến mười chín chỗ để mà ếm đó. Nay ta đă sai Khúc Lăm lấp lại như xưa. Lại ta có trồng một cây Miên ở chùa Minh Châu để trấn chỗ bị đứt. Biết sau này ắt có vua hiền ra đời, để vun bồi chánh pháp của ta. Sau khi ta tịch, ngươi nên đắp lên một nền đất, xây lên ngọn tháp, lấy pháp để kín trong ấy, chớ cho người thấy.

Nói xong, Sư thị tịch, thọ 85 tuổi, nhằm niên hiệu Thanh Thái thứ ba nhà Hậu Đường (936).

Lúc trồng cây Miên, Sư có làm bài kệ:

          Đại sơn đầu rồng dấy

          Đuôi to ẩn Châu Minh

          Thập bát tử định thành

          Cây gạo hiện h́nh rồng

          Thỏ gà trong tháng chuột

          Quyết thấy mặt trời lên

          (Đại sơn long đầu khởi     

          Cầu vỹ ẩn Chu Minh         

          Thập bát tử định thành      

          Miên thọ hiện long h́nh     

          Thố kê thử ngoạt nội         

          Định kiến nhật xuất thanh.)

]


[mục lục][lời nói đầu][lời tựa]

[phần 1][phần 2][phần 3][phần 4][phần 5][phần 6][phần 7][phần 8]

[phần 9][phần 10][phần 11][phần 12][phần 13][phần 14][phần 15][phần 16][phần 17]

[phần phụ những ḍng kệ các phái][sách tham khảo]

[Trang chu] [Kinh sach]