[Trang chu] [Kinh sach]

THIỀN SƯ VIỆT NAM

[mục lục][lời nói đầu][lời tựa]

[phần 1][phần 2][phần 3][phần 4][phần 5][phần 6][phần 7][phần 8]

[phần 9][phần 10][phần 11][phần 12][phần 13][phần 14][phần 15][phần 16][phần 17]

[phần phụ những ḍng kệ các phái][sách tham khảo]


TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ TRẦN TUNG

(1230 - 1291)

Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương Trần Liễu, là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất, Hoàng đế Trần Thái Tôn cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.

Lúc nhỏ, Thượng Sĩ đă tỏ ra bẩm chất cao sáng, thuần hậu có tiếng. Được cử  trấn giữ quân dân đất Hồng Lộ, Ngài đă hai lần ngăn giặc Bắc xâm lăng, có công với nước, lần hồi được thăng chuyển giữ chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái B́nh.

Về con người, Thượng Sĩ vốn khí lượng thâm trầm, phong thần nhàn nhă. Lúc c̣n để chỏm, Ngài đă chuộng cửa không. Đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở tinh xá Phước Đường, Ngài lănh hội được yếu chỉ, bèn dốc ḷng thờ làm thầy, lấy thiền duyệt làm cái vui hằøng ngày, không lấy công danh làm chỗ sở thích, Ngài lui về ấp Tịnh Bang do vua phong cấp cho, đổi tên lại là làng Vạn Niên.

Trộn lẫn thế tục, ḥa cùng ánh sáng, trong việc đối xử Ngài chưa hề phụ ḷng ai, nhân đó tiếp mạnh hạt giống pháp, d́u dắt được người sơ cơ. Người nào đến hỏi han cũng được Ngài chỉ cho chỗ cương yếu khiến tâm tánh họ ứng dụng được nhẹ nhàng, khi hành cũng như lúc tàng, không ǵ nhất định cả.

Từ lâu, nhà vua nghe đồn đăi về Ngài bèn cho sứ thỉnh vào cửa khuyết. Ngài hầu chuyện lời lời đều tỏ ra siêu tục, nhân đó vua tôn Ngài là Sư huynh, tặng cho hiệu Thượng Sĩ.

*

*   *

Một hôm, có vị tăng đến hỏi:

- Bạch Thượng Sĩ, tôi v́ sanh tử là việc lớn, vô thường nhanh chóng, song chưa biết thân này từ đâu sanh ra ? Chết sẽ đi về đâu ?

Ngài đáp:

          -Giữa trời dù có đôi vành chuyển,

           Biển cả ngại ǵ ḥn bọt sanh.

          (Trường không túng sử song phi cốc,

          Cự hải hà pḥng nhất điểm âu.)

Lại hỏi:- Thế nào là đạo ?

Ngài đáp:

          - Đạo không có trong câu hỏi

          Câu hỏi không có trong đạo.

- Cổ nhân nói: “Không tâm tức là đạo.” Đúng chăng ?

          - Không tâm chẳng phải đạo,

            Không đạo cũng không tâm.

Nếu họ nói “Không tâm là đạo” th́ tất cả cây cỏ đều là đạo cả sao ? Bằng ngược lại nói “Không tâm chẳng phải đạo” th́ cần ǵ nói có không? Lắng nghe ta nói kệ đây:

          Vốn không tâm không đạo,

          Có đạo chẳng không tâm.

          Tâm đạo vốn rỗng lặng,

          Chỗ nào đâu đuổi tầm ?

          (Bản vô tâm vô đạo

          Hữu đạo bất vô tâm

          Tâm đạo nguyên hư tịch

          Hà xứ cánh truy tầm ?)

Vị Tăng chợt nhận ra ư chỉ, xá lạy lui ra.

*

*   *

Có vị tăng hỏi:- Bạch Thượng Sĩ, thế nào là đại ư Phật pháp ?

Ngài đáp:- Đầu trạnh vỗ sóng mắt sâu bọ

            Cánh bằng nhốt gió ruột kiến trùng.

          (Ngao đầu đả lăng tiêu minh nhăn

           Bằng dực đoàn phong lũ nghị trường.)

Lại hỏi:- Như vậy, người học nhân đâu vào được chỗ đầu ?

Ngài đáp:

          - Găi ngứa phải đâu người khác ngứa

            Đói ăn chính thật nhà ngươi ăn.

- Thế nào là Thanh tịnh pháp thân ?

          - Ra vào trong vũng nước trâu

            Nghiền ngẫm trong đống cứt ngựa.

- Thế ấy th́ không thể chứng nhập ?

- Không có niệm nhơ bợn tức Pháp thân thanh tịnh.

Hăy nghe ta kệ đây:

          Xưa nay không dơ sạch

          Dơ sạch toàn tên suông

          Pháp thân chẳng ngăn ngại

          Ǵ đục lại ǵ trong?

          (Bản lai vô cấu tịnh                              

          Cấu tịnh tổng hư danh                 

          Pháp thân vô quái ngại                

          Hà trược phục hà thanh ?)

*

*    *

Lại hỏi:

- Tổ Qui Sơn nói: “Trăm năm sau, lăo tăng sẽ xuống núi làm con trâu nước”, ư muốn nói ǵ ?

          - Lúa nếp đỏ kêu thừa anh vơ hột

          Cây ngô biếc đậu phượng hoàng cành.

          (Hồng đạo vịnh tàn anh vơ lạp

                Bích ngô thê lăo phụng hoàng chi) (Hai câu thơ trong khúc Thu hứng của thi hào Đỗ Phủ, dùng theo phép đảo ngữ.)

- Xưa Thái tử Tất-đạt-đa vào miếu thần, tượng thần sụp xuống lạy dưới chân, việc ấy thế nào?

          - Nắm x̣e vẫn một bàn tay

           Ấn mắt hóa ngàn sai khác.

- Ngài Nam Tuyền bán ḿnh (Nam Tuyền ngày kia bảo tăng chúng: “Vương lăo sư bán ḿnh, có ai mua chăng?” Một vị tăng đáp: “Con mua.” Sư nói: “Giá bán ông ta không quí cũng không mạt, Thầy làm sao mua được?” Vị tăng không đáp được.) ư  ấy là sao ?

- C̣n lúc Ngài chưa bán mạng th́ ư ấy là sao ?

Vị tăng không  đáp được.

Sư hét, đuổi ra.

*

*  *

Một vị tăng hỏi:

- Ḥa thượng Thủy Lạo lần đầu tiên đến tham bái Mă Tổ hỏi về ư nghĩa việc Tổ sư Đạt-ma từ Ấn  sang, Mă Tổ đạp cho một đạp té nhào. Thủy Lạo lồm cồm ngồi dậy, chợt tỏ ngộ ngay, vỗ tay cười hả hả. Ấy là nghĩa ǵ ?

Ngài đáp:- Cái đạp của rồng voi chẳng phải sức lừa chịu nổi.

Lại hỏi:

- Sau đó Thủy Lạo c̣n nói với học tṛ rằng từ lúc ăn cái đạp của Mă Tổ đến nay, ông ta cười măi không thôi. Thế lại là nghĩa ǵ ?

Ngài đáp:

          - Thực là tiếng gầm hống của loài sư tử

            Phải đâu giọng kêu the thé của chó rừng.

- Tôi không hiểu.

Ngài bèn đọc bài kệ chỉ cho:

          - Một đạp ngă nhào,

          Ai hay t́m xét.

          Đứng dậy cười to,

          Lại sanh buồn thảm.

          Cần hiểu Tây sang,

          Ngựa tơ ăn cỏ.

          (Nhất đạp đạp đáo

          Thùy giải tầm thảo

          Đại tiếu khởi lai

          Tăng sanh áo năo

          Yếu thức Tây lai

          Mă câu khế thảo.)

Vị tăng xá lui ra.

*

*   *

Vị tăng khác hỏi:

- Bạch Thượng Sĩ, lời xưa nói: “Xanh xanh trúc biếc thảy là pháp thân”, có đúng chăng ?

Ngài đáp:- Sa-di ăn măng rừng bữa trước

            Đâu phải như pháp thân ngươi hôm nay.

Lại hỏi:- C̣n câu nói “Rậm rậm hoa vàng đều là Bát-nhă” là ư nói ǵ ?

          - Hoa đào đâu phải cây bồ-đề

            Sao lại Linh Vân nhập được đạo. [Thiền sư Linh Vân ở chỗ Tổ Qui Sơn lâu năm không ngộ, một hôm nhơn nh́n xem hoa đào nở chợt ngộ làm bài kệ:

Tam thập niên lai tầm kiếm khách

Kỉ hồi lạc diệp hựu sưu chi

Tự ṭng nhất kiến đào hoa hậu

Trực chí như kim cánh bất nghi.]

*

*   *

Lại hỏi:- Có ba vị tăng đi hành khước giữa đường gặp cọp, người nào cũng né qua một bên mà đi. Bấy giờ như thế nào ?

Ngài đáp:- Gió thổi ngại ǵ đám hoa rậm

          Trăng tà đâu quản đáy khe sâu.

          (Phong xuy bất ngại hoa gian mật

          Nguyệt lạc vô pḥng giản để thâm.)

Lại hỏi:

- Lúc ấy Qui Tông nói “Giống tợï con mèo”. Đó là  ư ǵ ?

- Miệng nói không phải tự ḿnh gặp.

- C̣n ngài Trí Kiên nói “Giống tợ con chó”. Đó là ư ǵ ?

- Lăo ấy nắm được thời cơ gom quét sạch hết, nhưng có điều đáng tiếc.

- C̣n Ngài ư thế nào ?

- Con chó.

- Đến Sư Nam Tuyền nói “đó là một con cọp”. Ư chỉ thế nào ?

- Gót chân chẳng chấm đất.

*

*   *

Tăng hỏi:- Thế nào là Pháp thân ?

Ngài đáp:- Bên ao thấy hai cái,

            Dưới trăng vui ba người.

- Pháp thân với Sắc thân giống nhau ? Khác nhau ?

          - Gươm mang hiệu long tuyền

            Ngọc xưng tên  hổ phách.

*

*  *

Tăng hỏi:

- Phật Thế Tôn nói: “Suốt bốn mươi chín năm, ta chưa từng nói một chữ.” Vậy mười hai phần giáo từ đâu mà được ?

Ngài đáp:- Hơi xông khỏi hộp mong khôi phục,

            Thuốc thánh mở b́nh muốn bệnh tiêu.

- Thế nào là Phật của chính ḿnh ?

          - Chẳng đến rượu bồ đào,

           Khó gặp người đập hũ.

- Phải hiểu thế nào ?

          - Nhà lớn một đêm ngủ,

            Sông dài chung đ̣ qua.

- Thế nào là tâm của cổ Phật ?

          - Trọn nói khắp thành không quốc sắc,

            Đâu hay cửa tía có thuyền quyên.

- Cổ nhân nói “Tức tâm tức Phật”, mà sao không hiện trước mắt ?

          - Phanh trai t́m ngọc dù khó gặp,

          Mổ cá cầu châu uổng công thôi.

*
*   *

Dám hỏi:- Thế nào là gia phong của Thượng Sĩ ?

Ngài đáp:- Rảnh, ném trái rừng kêu vượn tiếp,

            Lười, câu cá suối khiến hạc tranh.

          (Nhàn phao nham quả hô viên tiếp,

           Lăn điếu khê ngư dẫn hạc tranh.)

Lại hỏi:- Tổ ư và giáo ư là đồng hay khác ?

Ngài đáp:- Sóng, nước tên tuy khác,

          Búp, nở một đóa hoa.

- Bồ-đề với phiền năo, khác nhau, giống nhau thế nào ?

          - Trong nước có vị muối,

            Giữa sắc có màu keo.

- Thế nào là nghiệp sanh tử ?

          - Sương thu lác đác bờ lau

          Trời đêm tuyết xuống nhuộm màu trăng thanh.

          (Sương thu trích trích lô hoa ngạn

           Dạ tuyết phân phân nguyệt sắc thiên.)

Lại hỏi:- Ngài Dật-đa (Di-lặc) không tu định tuệ th́ làm sao thành Phật được ?

Ngài đáp:- Đào đỏ trên cây thời tiết đúng

          Cúc vàng bên giậu chắc ǵ xuân.

          (Hồng đào thọ thượng chân thời tiết

           Hoàng cúc li biên bất thị xuân.)

- Khi ngồi thiền tập định th́ thế nào ?

- Vua chúa xuống xe chọi ếch nhái.

- Khi không ngồi thiền tập định th́ thế nào ?

- Thuyền Phạm Lăi sông hồ vui thú.

*

*  *

Có vị tăng hỏi:

- Kinh nói: “Muốn đạt đến con đường vô sanh, cần biết rơ cội nguồn.” Thế nào là cội nguồn ?

Ngài đáp:

          - T́m nguồn chẳng có cội,

            Nắm cội cũng không nguồn.

Lại hỏi:

- Trong kinh nói: “Không tức là sắc, sắc tức là không”, ư ấy thế nào ?

Ngài im lặng giây lâu, rồi hỏi lại:

- Ông hiểu chưa?

- Chưa hiểu.

- Ông có sắc thân chứ ?

- Có.

- Sao nói sắc tức là không ? Ông thấy “cái không” có tướng mạo ǵ không ?

- Không.

- Sao nói không tức là sắc ?

- Rốt cuộc là thế nào ?

- Sắc vốn không không, không vốn không sắc.

Vị tăng lễ tạ.

Ngài nói:- Nghe kệ ta đây:

          Sắc tức không không tức sắc,

          Ba đời Như Lai phương tiện đặt.

          Không vốn không sắc, sắc không không,

          Thể tánh sáng ngời không được mất.

          (Sắc tức thị không không thị sắc,

          Tam thế Như Lai phương tiện lực.

          Không bổn vô sắc sắc vô không,

          Thể tánh minh minh phi thất đắc.)

*
*   *

Ngày kia, Thái Hậu mở tiệc thịnh soạn. Ngài dự tiệc gặp cá thịt cứ ăn. Thái Hậu thấy lạ hỏi:

- Anh tu thiền mà ăn cá thịt th́ thành Phật sao được?

 Thượng Sĩ cười đáp:

- Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật, Phật chả cần làm anh. Thái Hậu chẳng nghe cổ đức nói: “Văn-thù là Văn-thù, Giải Thoát là Giải Thoát” đó sao ?

Khi Thái Hậu qua đời, nhà vua cúng chay ở cung cấm. Nhân lễ khai đường, vua thỉnh các vị tôn túc bốn phương mỗi vị làm một bài kệ ngắn tŕnh bày chỗ kiến giải của ḿnh. Kết quả bài nào cũng quến śnh ủng nước, chưa tỏ ngộ.

Nhà vua bèn trao giấy mực cho Thượng Sĩ. Thượng Sĩ viết một hơi bài tụng tự thuật:

          Kiến giải tŕnh kiến giải,

          Tợ dụi mắt thấy quái.

          Dụi mắt thấy quái rồi,

          Rỡ ràng luôn tự tại.

          (Kiến giải tŕnh kiến giải,

          Tợ niết mục tác quái.

          Niết mục tác quái liễu,

          Minh minh thường tự tại.)

Nhà vua vừa đọc xong bèn phê tiếp theo sau:

          Rơ ràng thường tự tại,

          Cũng ấn mắt làm quái.

          Thấy quái chẳng thấy quái,

          Quái ấy ắt tự hoại.

          (Minh minh thường tự tại,

          Diệc niết mục sanh quái.

          Kiến quái bất kiến quái,

          Kỳ quái tất tự hoại.)

          Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.

*
*   *

Sau vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh t́nh. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ như sau:

          Hừng hực hơi nóng mồ hôi toát,

          Chưa hề thấm ướt khố mẹ sanh. (bản lai diện mục.)

          (Viêm viêm thử khí hăn thông thân

          Vị tằng uyển ngă nương sanh khố.)

Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi nhà vua nhuốm bệnh nặng. Thượng Sĩ khấp khểnh về kinh trước để chịu tang, nhưng vua đă qui tiên mất rồi.

*

*   *

Thượng Sĩ với tư cách một cư sĩ thọ Bồ-tát giới, sống đúng theo tinh thần Thiền nên tâm tư rất phiêu dật phóng khoáng. Những điều luận bàn huyền diệu của Ngài, cũng như câu chuyện gió mát trăng thanh, hàng thạc đức đương thời đều kính trọng.

Sau, bệnh sơ sài, Ngài không nằm ở pḥng riêng, mà nằm ở Dưỡng Chân Trang. Tại đây, giữa nhà trống, Ngài kê một giường gỗ, nằm theo phép kiết tường, mắt nhắm xuôi. Các người hầu hạ và thê thiếp khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng, đoạn quở nhẹ rằng:

- Sống chết là lẽ thường, sao buồn thảm luyến tiếc chi mà làm năo chân tánh ta.

Dứt lời, Ngài êm thấm mà tịch. Bấy giờ nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ bảy (1291), đời Trần Nhân Tông, năm Tân Măo, ngày mùng một tháng tư, Ngài thọ 62 tuổi.

Vua Nhân Tông nhớ ơn Ngài dạy dỗ, sai thợ vẽ chân dung để thờ và lấy đạo của Ngài truyền cho mà tuyên dương, lập nên phái Trúc Lâm.

*

*  *

Những tác phẩm của Ngài c̣n lưu lại khá nhiều, ở đây lược chép một ít tác phẩm quan trọng.

Âm: (TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ)

1. PHẬT TÂM CA

          Phật ! Phật ! Phật ! bất khả kiến !

          Tâm ! Tâm ! Tâm ! bất khả thuyết !

          Nhược tâm sanh thời thị Phật sanh

          Nhược Phật diệt thời thị tâm diệt.

          Diệt tâm tồn Phật thị xứ vô

          Diệt Phật tồn tâm hà thời yết

          Dục tri Phật tâm sanh diệt tâm

          Trực đăi đương lai Di-lặc quyết.

          Tích vô tâm, kim vô Phật

          Phàm thánh nhân thiên như điện phất

          Tâm thể vô thị diệc vô phi

          Phật tánh phi hư hựu phi thực.

          Hốt thời khởi, hốt thời chỉ

          Văng cổ lai kim đồ nghĩ nghị

          Khởi duy mai một tổ tông thừa

          Cánh khởi yêu ma tự gia túy.

          Dục cầu tâm, hưu ngoại mích

          Bản thể như nhiên tự không tịch

          Niết-bàn sanh tử mạn la lung

          Phiền năo bồ-đề nhàn đối địch.

          Tâm tức Phật, Phật tức tâm

          Diệu chỉ linh minh đạt cổ câm

          Xuân lai tự thị xuân hoa tiếu

          Thu đáo vô phi thu thủy thâm.

          Xả vọng tâm, thủ chân tánh

          Tợ nhân tầm ảnh nhi vong kính

          Khởi tri ảnh hiện kính trung lai

          Bất giác vọng tùng chân lư bính

          Vọng lai phi thực diệc phi hư

          Kính thọ vô tà diệc vô chính.

          Dă vô tội, dă vô phúc

          Thác tỷ ma-ni kiêm bạch ngọc

          Ngọc hữu hà hề châu hữu lỗi

          Tánh để vô hồng diệc vô lục.

          Diệc vô đắc, diệc vô thất

          Tứ thập cửu lai thị thất thất

          Lục độ vạn hạnh hải thượng ba

          Tam độc cửu t́nh không lư nhật.

          Mặc ! mặc ! mặc ! Trầm ! trầm ! trầm !

          Vạn pháp chi tâm tức Phật tâm

          Phật tâm khước dữ ngă tâm hiệp

          Pháp nhĩ như nhiên cắng cổ câm.

          Hành diệc thiền, tọa diệc thiền

          Nhất đóa hồng lô hỏa lư liên

          Một ư khí thời thiêm ư khí

          Đắc an tiện xứ thả an tiện.

          Di ! di ! di ! Đốt ! đốt ! đốt !

          Đại hải trung âu nhàn xuất một

          Chư hạnh vô thường nhất thiết không

          Hà xứ tiên sư mịch linh cốt.

          Tỉnh tỉnh trước! Trước tỉnh tỉnh  !

          Tứ lăng đạp địa vật khi khuynh

          A thùy ư thử tín đắc cập

          Cao bộ Tỳ-lô đỉnh thượng hành.

          Hát !

Dịch: KHÚC CA PHẬT TÂM

          Phật ! Phật !Phật ! không thể thấy !

          Tâm ! Tâm ! Tâm ! không thể nói !

          Khi tâm sanh tức là Phật sanh

          Bằng Phật diệt là lúc tâm diệt.

          Diệt tâm c̣n Phật chuyện không đâu

          Diệt Phật c̣n tâm bao giờ hết.

          Muốn biết tâm Phật, tâm sanh diệt

          Hăy chờ Di-lặc sau sẽ quyết.

          Xưa không tâm, nay không Phật,

          Phàm Thánh trời người như điện phất.

          Tâm thể không thị cũng không phi,

          Phật tánh chẳng hư cũng chẳng thực.

          Bỗng dưng khởi, bỗng dưng dừng,

          Xưa nay qua lại luống lẩn quẩn.

          Há chỉ chôn vùi nếp tổ tông,

          Lại khiến yêu ma vào nhà lộng.

          Muốn cầu tâm, chớ t́m ngoài,

          Bản thể như nhiên vốn không tịch.

          Niết-bàn sanh tử buộc ràng suông,

          Phiền năo bồ-đề hư giả nghịch.

          Tâm tức Phật, Phật tức tâm,

          Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông.

          Xuân đến, tự hoa xuân mỉm miệng,

          Thu về, đâu chẳng nước thu trong.

          Bỏ vọng tâm, giữ chân tánh,

          Khác nào t́m ảnh mà quên kính.

          Nào hay ảnh vốn tự gương ra,

          Chẳng biết vọng do từ chân hiện.

          Vọng lên chẳng thực cũng chẳng hư,

          Gương nhận không tà cũng không chính.

          Vẫn không tội, vẫn không phúc,

          Lầm sánh ma-ni cùng bạch ngọc.

          Ngọc có vết chừ châu có tỳ,

          Tánh vốn không hồng cũng không lục.

          Cũng không được, cũng không mất,

          Bốn mươi chín ấy là thất thất.

          Sáu độ muôn hạnh: biển sóng trào,

          Ba độc chín t́nh: giữa không nhật.

          Lặng ! lặng ! lặng ! Ch́m ! ch́m ! ch́m !

          Tâm của muôn loài tức Phật tâm.

          Phật tâm bèn với tâm ta hiệp,

          Pháp vốn như nhiên suốt cổ kim.

          Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền,

          Giữa ḷ lửa rực một cành sen.

          Ư khí mất đi thêm ư khí,

          Được an tiện đấy cứ an tiện.

          Chao ! chao ! chao ! Ối ! ối ! ối !

          Bọt trong biển cả uổng ch́m nổi.

          Các hạnh vô thường thảy thảy không,

          Linh cốt tiên sư tầm đâu tá!

          Thức thức tỉnh ! Tỉnh tỉnh thức !

          Dẫm đất bốn bề chớ lệch nghiêng.

          Ai có như lời tin được vậy,

          Đạp đảnh Tỳ-lô bước bước lên.

          Hát !

2. PHÓNG CUỒNG NGÂM

          Thiên địa thiếu vọng hề hà mang mang

          Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương

          Hoặc cao cao hề vân chi sơn

          Hoặc thâm thâm hề thủy chi dương.

          Cơ tắc xan hề ḥa la phạn

          Khốn tắc miên hề hà hữu hương

          Hứng thời xuy hề vô khổng địch

          Tịnh xứ phần hề giải thoát hương.

          Quyện tiểu khế hề hoan hỉ địa

          Khát bảo xuyết hề tiêu dao thang

          Qui Sơn tác lân hề mục thủy cổ

          Tạ Tam đồng chu hề ca thương lang.

          Phỏng Tào Khê hề ấp Lư Thị

          Yết Thạch Đầu hề sài lăo Bàng

          Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc

          Cuồng ngô cuồng hề Phổ Hóa cuồng.

          Đốt đốt phù vân hề phú quí

          Hu hu quá khích hề niên quang

          Hồ vi hề quan đồ hiểm trở

          Phả nại hề thế thái viêm lương.

          Thâm tắc lệ hề thiển tắc yết

          Dụng tắc hành hề xả tắc tàng

          Phóng tứ đại hề mạc bả tróc

          Liễu nhất sanh hề hưu bôn mang

          Thích ngă nguyện hề đắc ngă sở

          Sanh tử tương bức hề ư ngă hà phương.

Dịch:  KHÚC HÁT ĐIÊN QUÀNG

          Trời đất liếc trông chừ sao thênh thang

          Chống gậy chơi rong chừ phương ngoài phương

          Hoặc cao cao chừ mây đảnh núi

          Hoặc sâu sâu chừ nước trùng dương.

          Đói th́ ăn chừ cơm mười phương góp

          Mệt th́ ngủ chừ nơi chẳng quê hương

          Hứng lên chừ thổi sáo không lỗ

          Lặng xuống chừ đốt giải thoát hương.

          Mỏi nghỉ chút chừ đất hoan hỉ

          Khát uống no chừ tiêu dao thang

          Qui Sơn láng giềng chừ chăn con trâu nước

          Tạ Tam đồng thuyền chừ thổi khúc thương lang.

          Thăm Tào Khê chừ ra mắt Lư Thị

          Viếng Thạch Đầu chừ sánh lăo Bàng

          Vui ta vui chừ Bố Đại vui sướng

          Điên ta điên chừ Phổ Hóa điên gàn.

          Chà chà, bóng ngày chừ qua khe cửa

          Ối ối, mây nổi chừ mộng giàu sang

          Chịu sao chừ thói đời ấm lạnh

          Đi chi chừ gai góc đường quan.

          Sâu xoắn áo chừ cạn nhón gót

          Dùng phô ra chừ bỏ ẩn tàng.

          Buông bốn đại chừ đừng nắm bắt

          Tỉnh một đời chừ thôi chạy quàng.

          Thỏa nguyện ta chừ được ngă sở

          Sống chết bức nhau chừ ta vẫn như thường.

3. SANH TỬ NHÀN NHI DĨ

          Tâm chi sanh hề sanh tử sanh

          Tâm chi diệt hề sanh tử diệt

          Sanh tử nguyên lai tự tánh không

          Thử huyễn hóa thân diệc đương diệt.

          Phiền năo bồ-đề ám tiêu ma

          Địa ngục thiên đường tự khô kiệt

          Hoạch thang lô thán đốn thanh lương

          Kiếm thọ đao sơn lập tồi chiết.

          Thanh văn tọa thiền ngă vô tọa

          Bồ-tát thuyết pháp ngă thực thuyết.

          Sanh tự vọng sanh, tử vọng tử

          Tứ đại bổn không tùng hà khởi.

          Mạc vi khát lộc sấn dương diệm

          Đông tẩu tây tŕ vô tạm dĩ

          Pháp thân vô khứ diệc vô lai

          Chân tánh vô phi diệc vô thị.

          Đáo gia tu tri băi vấn tŕnh

          Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ

          Ngu nhân điên đảo bố sanh tử

          Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ.

Dịch : SỐNG CHẾT NHÀN MÀ THÔI

          Tâm mà sanh chừ sanh tử sanh

          Tâm mà diệt chừ sanh tử diệt

          Sanh tử xưa nay vốn tánh không

          Thân huyễn hóa này rồi cũng diệt.

          Phiền năo bồ-đề bỗng mất tiêu

          Địa ngục thiên đường tự khô kiệt

          Chảo dầu ḷ lửa chợt mát liền

          Núi kiếm rừng đao chốc găy hết.

          Thanh văn ngồi thiền ta không ngồi

          Bồ-tát nói pháp ta nói thiệt

          Sanh dối sanh chết dối chết

          Bốn đại vốn không nương đâu dấy.

          Chớ như hươu khát đuổi bóng nắng

          Nắm đông bắt tây không ngớt chạy

          Pháp thân không lại cũng không qua

          Chân tánh chẳng phải cũng chẳng quấy.

          Đến nhà thôi chớ hỏi đường chi

          Thấy nguyệt t́m ǵ ngón tay ấy

          Kẻ ngu sống chết măi lo âu

          Người trí rơ không nhàn thôi vậy.

4. PHÀM THÁNH BẤT DỊ

          Thân tùng vô tướng bản lai không

          Huyễn hóa phân sai thành nhị kiến

          Ngă nhân tợ lộ diệc tợ sương

          Phàm thánh như lôi diệc như điện.

          Công danh phú quí đẳng phù vân

          Thân thế quang âm nhược phi tiễn

          Miết khởi tinh nhi tắng ái t́nh

          Tợ mịch man đầu nhi khí miến

          Mi mao tiêm hoành tỷ khổng thùy

          Phật dữ chúng sanh đô nhất diện

          Thục thị phàm hề thục thị thánh

          Quảng kiếp sưu tầm một căn tánh.

          Phi tâm vô thị diệc vô phi

          Vô kiến phi tà diệc phi chánh

          Quảng Ngạch đồ nhi quả nguyện vương

          Khánh Hỷ tỳ-kheo công đức thánh.

          Giác tha giác tự bạt mê đồ

          Biến giới thanh lương tô nhiệt bệnh.

          Quân bất kiến

          Tiền thất giả thị a thùy ?

          Hậu đắc giả hựu thị thùy ?

          Lưỡng giá ban tâm nhất ban mạng

          Đáo đầu bát vạn tứ thiên đà-la-ni chi pháp môn

          Đồng nhiếp nhập Như Lai quảng đại viên trí chi kính.

          Đốt !.

Dịch: PHÀM THÁNH CHẲNG HAI

          Thân từ vô tướng xưa nay không

          Giả dối nên chia thành “nhị kiến”

          Ta người như móc cũng như sương

          Phàm thánh như sấm cũng như điện.

          Giàu sang sự nghiệp đám mây trôi

          Ngày tháng tên bay thân thế huyễn

          Chút t́nh thương ghét thoáng xẹt qua

          Khác nào bỏ bột đi t́m bánh.

          Mày ngang mũi dọc cũng như nhau

          Phật với chúng sanh đồng sắc mặt

          Ai là phàm chừ ai là thánh

          Muôn kiếp kiếm t́m mất căn tánh.

          Không tâm th́ không phải cùng không quấy

          Chẳng kiến th́ không tà cũng không chánh

          Đồ tể Quảng Ngạch: tṛn nguyện vương [Đồ tể Quảng Ngạch là anh chàng làm hàng thịt, khi nghe Phật nói kinh Đại Bát Niết-bàn liền ngộ đạo thành chánh quả. Trong kinh Đại Niết-bàn nói rơ.]

          Tỳ-kheo Khánh Hỷ: công đức thánh [Khánh Hỷ là ngài A-nan đệ tử đa văn bậc nhất của Phật.]

          Giác ta giác người khỏi đường mê

          Mát rượi mười phương dứt tật bệnh.

          Anh thấy chăng

          Người mất trước đó là ai ?

          Người được sau đó là ai ?

          Hai tâm sai khác chung ḍng mạng

          Rốt cùng tám vạn bốn ngàn pháp môn đà-la-ni

          Cùng nhiếp vào gương tṛn đầy rộng lớn trí Như Lai.

          Đốt !

5. THƯỢNG PHƯỚC ĐƯỜNG TIÊU DAO THIỀN SƯ

          Cửu vi phong thể

          Kiều kư hoang thôn

          Thân tuy thiên ngoại chi sâm thương

          Ư hữu kính trung chi loan phượng.

          Nhàn xướng vô sanh chi khúc

          Dụng thù pháp nhũ chi ân

          Lạm trát già đà

          Thượng tŕnh tọa hạ.

          Thân tuy ph́ độn ngụ hương quan

          Tứ trọng ân thâm vị cảm hàn

          Ư chuyết thiểu phùng thiêm ư khí

          Tâm khôi cô thủ thốn tâm đan.

          Xuân hồi hư đối khai đào nhụy

          Phong khởi không văn kích trúc can

          Đương nhựt đáo gia tham vấn băi

          Một huyền cầm tử thỉnh kim đàn.

          Tạm lai tỉnh vấn cổ chùy thiền

          Tướng mạo kỳ di tráng thả kiên

          Huệ Khả thân tàm b́ tủy kư

          Triệu Châu thiên dữ hạc qui niên.

          Tu tri thế hữu nhân trung Phật

          Hưu quái lô khai hỏa lư liên

          Trân trọng già-đà tùy hứng lễ

          Kỷ đa mạn khước tử nhung thiền.

Dịch: LỄ THIỀN SƯ TIÊU DAO Ở TINH XÁ PHƯỚC ĐƯỜNG

          Hèn lâu xa ánh sáng

          Ở gởi chốn hoang thôn

          Thân tuy ngoài cơi sâm thương

          Ư vẫn trong gương loan và phượng.

          Nhàn nhă ngâm khúc vô sanh

          Hầu đáp ân Thầy mớm sữa

          Trộm có lời thơ tụng

          Cúi dâng lên pháp ṭa.

          Thân tuy cục mịch ngụ quê này

          Bốn trọng ân nào dám lăng khuây

          Ư vụng sớm nhờ thêm ư khí

          Ḷng tàn riêng giữ chút ḷng ngay.

          Xuân về ngắm lững hoa đào nở

          Gió động nghe hờ khóm trúc lay

          Ngày trước đến nhà thăm hỏi hết

          Nay đàn chủ thỉnh khúc không dây.

Thoắt qua thăm hỏi cổ chùy thiền (Cổ chùy: Cái dùi xưa, tượng trưng hàng cổ lăo đạo cao đức trọng.)

          Tướng mạo mười mươi được khỏe bền

Tùng Thẩm tuổi theo rùa hạc thọ (Thiền sư Tùng Thẩm sống đến 120 tuổi.)

Thần Quang đạo rút tủy da truyền. (Tổ Đạt-ma muốn biết chỗ thâm ngộ của đệ tử, nên bảo mỗi người tŕnh chỗ sở ngộ. Qua sự tŕnh bày của mọi người, Tổ phê b́nh: Đạo Phó được phần da của ta, Ni Tổng Tŕ được phần thịt, Đạo Dục được phần xương, Huệ Khả được phần tủy.)

          Vẫn hay Phật sẵn trong đời có

          Đừng lạ sen bừng giữa lửa lên

          Trân trọng dâng theo lời tụng hiến

C̣n ǵ lễ mọn chút quà riêng. (Phần lớn những bài dịch về Tuệ Trung Thượng Sĩ đều nương theo bản của Trúc Thiên  trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục.)

 6. THỊ CHÚNG

          Hưu tầm Thiếu Thất dữ Tào Khê,

          Thể tính minh minh vị hữu mê.

          Cổ nguyệt chiếu phi quan viễn cận,

          Thiên phong xuy bất giản cao đê.

          Thu quang hắc bạch tùy duyên sắc,

          Liên nhụy hồng hương bất trước nê.

          Diệu khúc bản lai tu cử xướng,

          Mạc tầm nam bắc dữ đông tê (tây).

Dịch: BẢO CHÚNG

          Thôi t́m Thiếu Thất với Tào Khê,

          Thể tính sáng tṛn chẳng từng mê.

          Nào ngại xa gần trăng vẫn chiếu,

          Thấp cao gió thổi chẳng ưa chê.

          Ánh thu đen trắng tùy duyên hiện,

          Sen nở hương nồng chẳng dính nhơ.

          Khúc nhạc xưa nay nên gẩy hát,

          Chớ t́m nam bắc với đông tây.

7. KHUYẾN THẾ TIẾN ĐẠO

          Tứ tự tuần hoàn xuân phục thu,

          Xâm xâm dĩ lăo thiếu niên đầu.

          Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng,

          Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu.

          Khổ thú luân hồi như chuyển cốc,

          Ái hà xuất một đẳng phù âu.

          Phùng trường diệc bất mô lai tỹ,

          Vô hạn lương duyên chỉ ma hưu.

Dịch:  KHUYÊN NGƯỜI ĐỜI TIẾN TU

          Ngày tháng xoay vần xuân lại thu,

          Xăm xăm tóc bạc đáp lên đầu.

          Giàu sang, nh́n lại một trường mộng,

          Năm tháng mang theo vạn hộc sầu.

          Nẻo khổ luân hồi như chuyển bánh,

          Sông yêu, ch́m nổi tợ phù âu.

          Gặp trường chẳng chịu sờ lên mũi,

          Vô hạn duyên lành chỉ thế thôi.

]


[mục lục][lời nói đầu][lời tựa]

[phần 1][phần 2][phần 3][phần 4][phần 5][phần 6][phần 7][phần 8]

[phần 9][phần 10][phần 11][phần 12][phần 13][phần 14][phần 15][phần 16][phần 17]

[phần phụ những ḍng kệ các phái][sách tham khảo]

[Trang chu] [Kinh sach]