[Trang chu] [Kinh sach]

THIỀN SƯ VIỆT NAM

[mục lục][lời nói đầu][lời tựa]

[phần 1][phần 2][phần 3][phần 4][phần 5][phần 6][phần 7][phần 8]

[phần 9][phần 10][phần 11][phần 12][phần 13][phần 14][phần 15][phần 16][phần 17]

[phần phụ những ḍng kệ các phái][sách tham khảo]


Thiền Sư  NHẤT ĐỊNH

(1784 - 1847)

Thiền sư Nhất Định pháp danh là Tánh Thiên, người Quảng Trị, sinh năm 1784. Thiền Sư xuất gia hồi c̣n nhỏ, lớn lên được Thiền sư Phổ Tịnh chùa Thiên Thọ làm lễ thế độ cho làm Sa-di. Sau Sư thọ giới cụ túc với Thiền sư Mật Hoằng ở chùa Quốc Ân. Vâng mệnh vua Gia Long Sư giữ chức vụ Trụ tŕ chùa Thiên Thọ.

Năm 1833, vua Minh Mạng thỉnh Sư Trụ tŕ chùa Linh Hựu. Năm 1839 vua lại thỉnh Sư làm Tăng cang chùa Giác Hoàng. Tính Sư ưa vân du nên không thích quản đốc các chùa quốc tự. Năm 1843, Sư xin từ chức Tăng cang chùa Giác Hoàng, được vua Thiệu Trị chấp nhận. Sư rất hài ḷng, nói:

          Già rồi, may được vua thương,

          Một thân, một bát, rộng đường vân du.

          (Hạnh phùng tấu đắc nhưng hồi lăo,

          Nhất bát cô thân vạn lư du.)

Mấy năm sau đó, Sư lên núi Dương Xuân Thượng quận Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, dựng một thảo am để ở, gọi là An Dưỡng Am. Cảnh trí ở đây u nhàn đẹp đẽ. Sư tu ở đây cho đến năm 1874  th́ tịch, thọ đúng 64 tuổi. Ba người đệ tử xuất sắc nhất của Sư là Lương Duyên, Cương Kỷ và Linh Cơ.

Thái giám viện nương vào đức độ của Sư, dựng chùa lớn tại địa điểm An Dưỡng Am, đặt tên là chùa Từ Hiếu, kiến trúc tương tợ kiến trúc lăng vua Tự Đức. Tên chùa là Từ Hiếu v́ các đệ tử Sư vẫn nhớ lúc sinh tiền Sư rất có hiếu với cha mẹ, dù đă đi xuất gia.

]

Tăng Cang  TIÊN GIÁC HẢI TỊNH

(1788 - 1875)-(Đời  pháp thứ 37, tông Lâm Tế)

Tăng cang Tiên Giác Hải Tịnh tên tục là Nguyễn Tâm Đoan, sanh ngày 30 tháng 5 năm Mậu Thân (1788), con của ông Nguyễn Hầu Cẩm, quê ở Gia Định.

Năm Nhâm Tuất (1802), ông Nguyễn Hầu Cẩm dẫn con trai là Nguyễn Tâm Đoan (15 tuổi), vào chùa Từ Ân ở Gia Định (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay), làm lễ xin Ḥa thượng Phật Ư Linh Nhạc cho Tâm Đoan xuất gia tu hành.

Ḥa thượng Linh Nhạc giao Tâm Đoan cho Thiền sư Tổ Tông Viên Quang, Trụ tŕ chùa Giác Lâm dạy dỗ. Thiền sư Viên Quang đặt pháp danh cho Tâm Đoan là Tiên Giác, hiệu là Hải Tịnh. Như vậy, Sa-di Hải Tịnh được theo học với hai vị Thiền sư tài đức và nổi danh thời đó ở Gia Định (Nam Bộ ngày nay) là Tổ Phật Ư Linh Nhạc và Ḥa thượng Tổ Tông Viên Quang.

Sa-di Tiên Giác Hải Tịnh chí tâm tu học ở chùa Giác Lâm và chùa Từ Ân, chăm lo nghiên cứu, tham học kinh điển và hành tŕ thiền định miên mật; nên sau một thời gian tu học, Thiền sư Tiên Giác Hải Tịnh sớm trở thành một danh tăng uyên bác.

Năm Tân Tỵ (1821), Tổ Phật Ư Linh Nhạc viên tịch ở chùa Từ Ân, có lẽ Ḥa thượng Viên Quang cử Thiền sư Hải Tịnh ra trông coi chùa Từ Ân, trong khi Ḥa thượng Liên Hoa (tức Thiền sư Thiệt Thành Liễu Đạt) đang bận hoằng hóa ở kinh đô Huế.

Tháng 3 năm Ất Dậu (1825), vua Minh Mạng cho vời Thiền sư Hải Tịnh ra Trụ tŕ chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế. Sách Đại Nam Thực Lục chánh biên, đệ nhị kỷ ghi: “Năm Ất Dậu, Minh Mạng thứ sáu, tháng 3... cho vời Sư chùa Từ Ân ở Phiên An là Nguyễn Tâm Đoan, khiến sung làm Trụ tŕ chùa Thiên Mụ.”

Thiền sư Tiên Giác Hải Tịnh giữ chức Tăng cang chùa Thiên Mụ ở kinh đô Huế một thời gian, chưa rơ bao lâu; Tăng cang Hải Tịnh bị tội, chưa biết rơ tội ǵ, nên bị cách chức Tăng cang, bị đày làm việc nặng ở chùa này, chưa rơ bị bắt làm việc nặng trong thời gian bao lâu, măi đến khi vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841), Thiền sư Hải Tịnh mới được vua tha tội và cho phục hồi chức Tăng cang, tuy nhiên lúc đó ở chùa Thiên Mụ đă có Tăng cang Nguyễn Văn Thường (Tế Bổn Viên Thường?), nên Tăng cang Hải Tịnh vẫn phải ở chùa Thiên Mụ, chờ khi nào có chùa quan (chùa do vua lập) nào thiếu Tăng cang th́ sẽ cử thay thế.

Trong tờ dụ ngày 16 tháng 3 năm Thiệu Trị nguyên niên (1841) viết như sau: “Nguyên Trụ tŕ chùa Thiên Mụ là Nguyễn Tâm Đoan, trước nhân can án phạm lỗi bị cách chức bỏ Tăng cang, nhưng chuẩn cho ở chùa ấy làm công việc nặng nhọc để chuộc tội, gần đây đă biết xấu hổ ăn năn lỗi trước, truyền gia ân khoan miễn cho Nguyễn Tâm Đoan. Bộ Lễ hăy cấp hoàn một văn bằng Tăng cang và vẫn chuẩn cho ở tại chùa này làm việc, chờ khi có chùa quan nào khuyết Trụ tŕ sẽ bổ sung. Khâm thử.”

Việc Tăng cang Hải Tịnh bị kết tội và bị cách chức Tăng cang chùa Thiên Mụ có thể xảy ra vào khoảng năm 1833-1835, v́ sau khi Tổng trấn thành Gia Định là Tả quân Lê Văn Duyệt chết, vua Minh Mạng v́ tư thù, cho điều tra để kết tội Lê Văn Duyệt, v́ vậy năm 1833, con nuôi của Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi nổi loạn, chiếm thành Phiên An (Sài G̣n) và chống lại quân triều đ́nh Huế, măi đến năm 1835, quân của triều đ́nh mới chiếm lại được thành Phiên An và dẹp tan cuộc nổi loạn này.

Tăng cang Hải Tịnh là người Gia Định, hoằng hóa ở Gia Định, có lẽ là có liên hệ với Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt và có thể Tổng trấn Lê Văn Duyệt đề nghị với vua Minh Mạng cho Thiền sư Hải Tịnh được làm Tăng cang chùa Thiên Mụ. V́ vậy, khi Lê Văn Khôi nổi loạn, vua Minh Mạng kết tội Tăng cang Hải Tịnh, cách chức Tăng cang và bắt làm việc nặng ở chùa Thiên Mụ. Đến khi vua Minh Mạng chết, vua Thiệu Trị lên ngôi (năm 1841) mới xét lại vụ án Lê Văn Khôi, Tăng cang Hải Tịnh mới được ân xá và cho phục chức Tăng cang. Như vậy thời gian Tăng cang Hải Tịnh bị kết tội “oan” là từ năm 1833 đến năm 1841.

Sau đó, Tăng cang Tiên Giác Hải Tịnh được bổ Trụ tŕ chùa Long Quang (1841-1842).

Ngày 16 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ hai (1842), Tăng cang Hải Tịnh được triều đ́nh cử đến Trụ tŕ chùa Giác Hoàng ở trong kinh thành Huế, thay thế cho Tăng cang Nguyễn Nhất Định (tức Thiền sư Tánh Thiên Nhất Định). Bộ Lễ đă đề nghị lên vua theo phiếu tấu như sau:

“Bọn thần bộ Lễ kính cẩn tâu về việc làm phiếu tấu. Nhân hôm qua có sớ của Thị vệ nói Trụ tŕ chùa Giác Hoàng là Nguyễn Nhất Định bị bệnh, không kham nổi việc chùa, xin cho về sơn dă. Phụng chỉ ban rằng: “Căn cứ lời tâu Nguyễn Nhất Định đă  già bịnh, đă sát nghiệm đúng như vậy. Nay chuẩn cho thảy về sơn dă. C̣n Trụ tŕ chùa này (Giác Hoàng) truyền Nguyễn Văn Thường (Tăng cang Viên Thường Tế Bổn - Trụ tŕ  chùa Thiên Mụ) và Nguyễn Tâm Đoan (Tăng cang Hải Tịnh Tiên Giác - Trụ tŕ chùa Long Quang) lập tức tuyển trong số tăng sĩ các chùa ở kinh đô (Huế), người nào kiên tŕ giới luật, khá thuộc kinh giáo, chọn lấy một tên, rồi do Bộ (Lễ) sát hạch, chiếu cấp văn bằng Tăng cang bổ vào làm Trụ tŕ chùa này để lo việc chùa. Khâm thử.”

Bộ đă ra lịnh cho bọn Nguyễn Văn Thường. Nay theo khai bẩm của Nguyễn Văn Thường th́ bọn y đă họp Hội đồng chư sơn các chùa, tuyển chọn hai ba lần, nhưng chỉ có Nguyễn Tâm Đoan, hiện sung chức Tăng cang chùa Long Quang là người am tường kinh giáo, giới luật tinh tŕ, quả là người mẫn cán trong thiền gia, có thể chọn sung làm Tăng cang chùa Giác Hoàng và bọn y đă cùng nhau làm tờ Tuyển cử và tŕnh bày các lư lẽ.

Bộ cung kính suy nghĩ kỹ lời Chỉ ban rằng: khuyết Tăng cang chùa Giác Hoàng th́ do Nguyễn Văn Thường và Nguyễn Tâm Đoan lựa cử. Nay Nguyễn Văn Thường cùng chư tăng các chùa lại thấy Nguyễn Tâm Đoan sung tuyển, như thế cũng khá ngại, nên đă ra lệnh cho Nguyễn Văn Thường cử lại.

Cứ theo Nguyễn Văn Thường nói th́ chùa Giác Hoàng là nơi quan trọng, không như các chùa khác, tăng sĩ tuy nhiều nhưng khó chọn được, chỉ có Nguyễn Tâm Đoan là người giỏi thiền giáo, có thể quản suất tăng chúng được v.v...

Bọn thần thiết tưởng, các chùa đă họp nhau làm tờ Bảo cử, như vậy cũng có ư kiến thận trọng đối với chùa quan. Vậy cũng nên lấy Nguyễn Tâm Đoan điền bổ làm Tăng cang chùa Giác Hoàng. Như được chuẩn cho, Bộ sẽ chiếu lệ, cải cấp văn bằng để thừa hành công việc. C̣n khuyết Trụ tŕ chùa Long Quang th́ sẽ do Bộ sắc bảo Nguyễn Văn Thường tuyển cử người khác điền vào.

          Vậy kính dâng phiếu tấu đầy đủ, chờ Thánh chỉ. Kính tâu.

          Ngày 16 tháng 9 năm Thiệu Trị thứ hai.

          Thần Lê Văn Đức kư, thần Lư Văn Phức kư.

          Thần Nguyễn Văn Thi kư

*

*  *

Đầu tháng 5 năm Thiệu Trị thứ sáu (1846), vua cho lập trai đàn Tứ tuần Thánh thọ ở chùa Diệu Đế một thất bảy ngày. Tiếp đó, các Hoàng nam, Hoàng nữ xin mở tiếp trai đàn tụng kinh chúc thọ một thất.

Ngày 22 tháng đó, các Tăng cang chùa Thiên Mụ (Tế Bổn Viên Thường), Tăng cang chùa Giác Hoàng và Tăng cang chùa Diệu Đế (Thiền sư Nguyễn Văn Chân) xin tiếp tục tụng kinh chúc thọ cho vua ở chùa Diệu Đế một thất nữa (từ 23 đến 29 tháng 5).

Năm 1847, vua Thiệu Trị băng, vua Tự Đức lên kế vị, có lẽ lúc đó, Thiền sư Tiên Giác Hải Tịnh xin từ chức Tăng cang ở chùa Giác Hoàng để về Gia Định Trụ tŕ chùa Giác Lâm như xưa.

Năm Kỷ Dậu (1849), Thiền sư Hải Tịnh thiết lập “Giới Đàn” (đàn truyền giới) cho tăng sĩ và cư sĩ. Chư tăng nhân giới  đàn đó, cùng suy tôn Thiền sư Hải Tịnh làm Ḥa thượng đường đầu truyền giới, lúc đó Ḥa thượng Hải Tịnh được 62 tuổi.

*

*  *

Vào giữa thế kỷ 19, ở Nam Kỳ, vấn đề nghi lễ trong Phật giáo xuất hiện phong trào “Ứng Phú”.

Ứng Phú là dùng âm nhạc cổ truyền của đạo Phật và dân tộc vào các buổi lễ tại chùa hay các lễ cầu an, tang lễ, cầu siêu... ở nhà các tín đồ.

Nguyên nghĩa của Ứng Phú: Ứng là lời mời, Phú là đi đến. Ứng Phú có nghĩa là lời mời chư tăng đến nhà để làm lễ về Phật giáo; danh từ b́nh dân gọi là “đi đám”.

Qua kinh nghiệm trong thời gian hoằng dương đạo pháp từ Gia Định ra đến kinh đô Huế; qua kinh nghiệm trong việc hành lễ về tôn giáo từ nơi thôn quê, đến thành thị và ngay tại nơi chốn triều đ́nh, Hoàng cung; qua kinh nghiệm giảng dạy chư tăng ở các chùa và các thời thuyết pháp, Ḥa thượng Hải Tịnh nhận thấy rằng: chư tăng ni và tín đồ thời đó ưa “Ứng Phú” hơn là đến pháp hội nghe thuyết giảng kinh pháp.

Trong khoa Ứng Phú, khi hành lễ, chư tăng tụng kinh, tán xướng...theo giọng trầm bổng của tiếng nhạc, của dàn nhạc cổ truyền (gồm kèn, trống, đẩu, chuông...) làm cho âm điệu du dương truyền cảm dễ thâm nhập vào tâm hồn người nghe; lời tụng kinh thường âm thanh khô khan, đều đều, làm cho người nghe mau chán và ít thâm nhập vào tâm hồn người nghe kinh.

Ngoài những cái lợi đó, khoa Ứng Phú c̣n có thể giúp cho Phật giáo được truyền bá rộng răi khắp nơi, nhờ chư tăng đến tận nhà của tín đồ làm lễ, tạo nhân duyên cho những người ở địa phương có dịp nghe được kinh điển, biết thêm lễ nghi Phật giáo, giúp cho bá tánh phát tâm theo đạo Phật.

Tuy nhiên, bên cạnh những cái lợi đó, khoa Ứng Phú c̣n có những bất lợi và nguy hại khác:

Chư tăng đến nhà Phật tử nhiều quá, giao thiệp với nhiều thành phần trong xă hội, dễ bị tiêm nhiễm phàm tục; nếu không giữ giới luật nghiêm minh, chư tăng có thể bị tài, sắc, danh, lợi quyến rũ sa ngă, có thể làm mất phẩm cách, đạo hạnh của bậïc tu hành cầu giải thoát.

Trước những điều lợi và hại đó của khoa Ứng Phú, Ḥa thượng Hải Tịnh phân vân, chưa biết có nên phổ biến hay hạn chế khoa Ứng Phú.

Trong thời gian đó, khoa Ứng Phú đă phát triển mạnh ở Lục tỉnh Nam Kỳ và các tỉnh miền Trung. Ḥa thượng Hải Tịnh nhận thấy rằng: khoa Ứng Phú đang lan tràn khắp nơi, từ thành thị đến thôn quê...không thể ngăn chặn được, v́ vậy, phương cách tốt hơn hết là tham gia vào phong trào Ứng Phú đó để t́m cách hướng dẫn phong trào Ứng Phú đi theo đúng hướng trong giới luật đạo Phật, tránh bớt những hành động của chư tăng bị phàm tục lôi cuốn, làm mất phẩm cách, giới hạnh của tăng sĩ, ảnh hưởng không tốt cho tiền đồ Phật giáo.

V́ vậy, vào khoảng năm 1850, Ḥa thượng Hải Tịnh triệu tập một cuộc đại hội của chư tăng và các thầy theo khoa Ứng Phú tại chùa Giác Lâm để phổ biến chủ trương “bảo vệ và phát huy tinh hoa của khoa Ứng Phú theo đúng với đạo Phật cổ truyền”, đồng thời Ḥa thượng Hải Tịnh cũng đề nghị thành lập cơ sở học tập cho khoa Ứng Phú để thực hiện chủ trương đó. Chư tăng và các thầy theo khoa Ứng Phú tham dự cuộc hội đều tán đồng ư kiến đó của Ḥa thượng Hải Tịnh.

Ngay trong năm đó (1850), Ḥa thượng Hải Tịnh cho trùng tu viện Quan Âm thành chùa Giác Viên để dùng chùa này làm cơ sở học tập cho khoa Ứng Phú.

Trong khi đó Ḥa thượng Hải Tịnh vẫn phát triển việc giảng dạy cho chư tăng ở chùa Giác Lâm như Tổ Viên Quang đă thực hiện từ trước.

Chùa Giác Viên lúc đó trở thành trung tâm của khoa Ứng Phú ở Lục tỉnh Nam Kỳ, dần dần ảnh hưởng lan rộng khắp nơi. Tín đồ Phật giáo và dân chúng khắp Nam Kỳ đều nghe danh của chư tăng Ứng Phú ở chùa Giác Viên. Mỗi khi trong gia đ́nh có tổ chức cầu an, cầu siêu, trai tăng, bố thí...bổn đạo thường đến chùa Giác Viên làm lễ “Đại Nạp” để cầu tăng sĩ Ứng Phú đến nhà làm lễ.

Năm 1852, ông Hương đăng (chưa rơ pháp danh) sáng lập và trông coi chùa Giác Viên viên tịch, Ḥa thượng Hải Tịnh cử đệ tử là Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh Trụ tŕ chùa Giác Viên.

Nhờ khoa Ứng Phú, chùa Giác Viên hưng thịnh, bổn đạo đến chùa ngày càng đông, nhiều người đến xin qui y thọ giới, nhiều người đến chùa cúng dường làm công quả..., kinh tế của chùa sung túc. Trong khi đó, chùa Giác Lâm ít có người lui tới, lại phải đài thọ cho việc ăn học của tăng sinh nên kinh tế gặp khó khăn. Ḥa thượng Hải Tịnh phải dung ḥa tài chánh ở hai chùa Giác Lâm và Giác Viên, thực hành thuyết lục ḥa ở hai chùa Giác Lâm và Giác Viên lấy tiền của dư thừa ở chùa Giác Viên bổ khuyết cho chùa Giác Lâm.

Năm Mậu Ngọ (1858) quân Pháp đánh chiếm Đà Nẵng. Năm Kỷ Mùi (1859), niên hiệu Tự Đức thứ 12, quân Pháp đem quân vào đánh chiếm thành Gia Định, san bằng dinh lũy của Nam Triều. Chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường nằm trong ṿng lửa đạn của chiến tranh. Trụ tŕ chùa Từ Ân lúc đó là Thiền sư Tiên Tín Chánh Trực (huynh đệ của Ḥa thượng Hải Tịnh) phải bỏ chùa chạy giặc, trong khi vội vàng, chỉ đem  giấu được một vài kỷ vật nhỏ của chùa. Sau này, khi xây dựng lại chùa Từ Ân ở Chợ Gạo (Phú Lâm), chùa c̣n giữ được vài kỷ vật.

Chùa Giác Lâm và Giác Viên ở xa chiến trận nên không bị nguy hại ǵ. Năm sau (1860), vua Tự Đức cử Nguyễn Tri Phương làm Thống đốc quân vụ, Phạm Thế Hiển làm Tham tá quân vụ vào Gia Định hợp cùng Tôn Thất Hiệp lo chống lại quân Pháp. Quân Pháp tấn công vào đồn Kỳ Ḥa, sau khi đồn này thất thủ, chiến tranh Việt Pháp lan rộng dần khắp Gia Định và các tỉnh Biên Ḥa, Định Tường. Dân chúng ở Sài G̣n chạy tản cư, chư tăng ở chùa Giác Lâm và Giác Viên cũng bỏ chạy, chỉ c̣n Ḥa thượng Hải Tịnh (73 tuổi) và vài vị sư già ở lại chùa.

Năm 1862, triều đ́nh Huế phải kư hiệp ước nhượng cho Pháp ba tỉnh miền đông Nam Kỳ. Năm 1867, quân Pháp đánh chiếm hết cả sáu tỉnh Nam Kỳ, Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp.

Năm Kỷ Tỵ (1869) Ḥa thượng Hải Tịnh đă 82 tuổi, biết rằng ḿnh không c̣n trụ thế bao lâu nữa nên sắp đặt việc thừa kế ở hai chùa Giác Lâm và Giác Viên như sau:

- Đệ tử lớn là Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh Trụ tŕ chùa Giác Lâm, Thiền sư Minh Lư Quảng An làm tri khách và phụ giúp cho Sư huynh Mật Hạnh.

- Đệ tử nhỏ hơn là Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân Trụ tŕ chùa Giác Viên.

Năm Tân Mùi (1871), Ḥa thượng Tiên Giác Hải Tịnh hợp cùng chư Ḥa thượng ở các tỉnh Nam Kỳ tổ chức Đại giới đàn tại chùa Tây An, ở núi Sam, Châu Đốc (An Giang).

Năm Ất Hợi (1875), Ḥa thượng Hải Tịnh lại tổ chức Giới đàn (đàn truyền giới) ở chùa Thiên Ân (Gia Định), đệ tử của Ḥa thượng Hải Tịnh là Minh Khiêm Hoằng Ân được phong làm giáo thọ.

Ngày mùng 8 tháng 11 năm Ất Hợi, năm Tự Đức thứ 29 (1875), Ḥa thượng Tiên Giác Hải Tịnh cho gọi các đệ tử về chùa Giác Lâm để phó chúc. Ḥa thượng dạy các đệ tử phải chăm lo tham học nghiên cứu kinh điển, trau dồi đạo đức phẩm hạnh, không nên ham thích theo khoa Ứng Phú dễ bị sa ngă, mà cần phải tu tập thiền định để giải thoát cảnh luân hồi sanh tử. Đúng giờ Ngọ ngày hôm đó, Ḥa thượng Tiên Giác Hải Tịnh an nhiên viên tịch, thọ 88 tuổi.

Đồ chúng lập tháp thờ Ḥa thượng Hải Tịnh ở khuôn viên chùa Giác Lâm.

Một tăng sĩ (chưa rơ pháp danh) ca ngợi công đức của Ḥa thượng Hải Tịnh trong việc khai mở các trường Hương ở Nam Kỳ qua bài thơ sau:

          “Cấm túc an cư  theo giới thiền,

          Trường Hương ba tháng mở đầu tiên.

          Dắt d́u tăng chúng phăng nguồn đạo,

          Gội đức từ  bi HẢI TỊNH truyền.”

]

Thiền Sư  MINH VI MẬT HẠNH

(1828-1898)-Đời  pháp thứ 38, tông Lâm Tế)

Thiền sư Mật Hạnh, húy Minh Vi, thọ giới qui y với Ḥa thượng Tiên Giác Hải Tịnh tại chùa Giác Lâm.

Năm Canh Tuất (1850), Ḥa thượng Hải Tịnh cho đổi viện Quan Âm thành chùa Giác Viên. Năm Nhâm Tư (1852) ông Hương đăng Trụ tŕ chùa Giác Viên (chưa rơ pháp danh) qui tịch, Ḥa thượng Hải Tịnh cử Thiền sư Mật Hạnh thay thế Trụ tŕ chùa Giác Viên.

Theo sự tổ chức phân công của Ḥa thượng Hải Tịnh: chùa Giác Lâm chuyên lo phần giáo pháp, dạy kinh điển Phật pháp cho tăng chúng và thuyết pháp cho Phật tử; chùa Giác Viên chuyên lo phần Ứng Phú, chư tăng ở chùa này lo việc tụng kinh, tế lễ ở nhà tín đồ (cầu an, cầu siêu, trai tăng...) Với nhiệm vụ Ứng Phú này, chùa Giác Viên tiếp xúc nhiều với Phật tử, nên tín đồ đến viếng lễ, cúng dường và xin qui y thọ giới ở chùa Giác Viên rất đông đảo, bổn đạo của chùa này ngày càng đông, sinh hoạt chùa phát triển mạnh; trong khi đó, Phật tử đến chùa Giác Lâm ít hơn, chỉ có những tín đồ thâm hiểu Phật pháp và chí tâm tham học kinh điển mới đến viếng lễ cúng dường và qui y thọ giới ở chùa Giác Lâm, do đó, kinh tế chùa Giác Lâm kém sút, không đủ đài thọ cho chư tăng tu học ở đây. Chùa Giác Viên phải trợ duyên.

Năm Kỷ Tỵ (1869), Ḥa thượng Hải Tịnh đă quá lớn tuổi (82 tuổi), nên cử đệ tử kế thế Trụ tŕ:

- Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh Trụ tŕ chùa Giác Lâm, phụ giúp có Tri khách Minh Lư Quảng An.

- Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân Trụ tŕ chùa Giác Viên.

Năm Ất Hợi (1875), Ḥa thượng Tiên Giác Hải Tịnh viên tịch tại chùa Giác Lâm, thọ 88 tuổi, Thiền sư Mật Hạnh mới thật sự chánh thức Trụ tŕ chùa Giác Lâm. Thiền sư Mật Hạnh rất quan tâm đến việc tu học của tăng chúng, thấy Sư đệ là Thiền sư Hoằng Ân Trụ tŕ chùa Giác Viên có đủ tài đức giáo hóa chư tăng nên sư Mật Hạnh cho tăng chúng ở chùa Giác Lâm xuống tham học giáo lư với Thiền sư Hoằng Ân.

Năm Quí Tỵ (1893), Thiền sư Mật Hạnh thấy sức khỏe ḿnh quá yếu kém, không thể kham nổi việc chùa, nên trao quyền Trụ tŕ chùa Giác Lâm cho Sư đệ Hoằng Ân, và Thiền sư Mật Hạnh nguyện nhập thất tu thiền cho đến ngày qui tịch.

Lúc đó, Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân về Trụ tŕ chùa Giác Lâm, giao cho đệ tử Trụ tŕ chùa Giác Viên: Thiền sư Như Nhu Chân Không làm chánh và Thiền sư Như Pḥng Hoằng Nghĩa làm phó.

Giờ Th́n ngày 14 tháng 11 năm Mậu Tuất (1898), Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh qui tịch tại chùa Giác Lâm, thọ 71 tuổi.

]

Thiền Sư  MINH KHIÊM HOẰNG ÂN

hiệu DIỆU NGHĨA

(1850 - 1914)-(Đời thứ 38, tông Lâm Tế)

Thiền sư Hoằng Ân húy là Minh Khiêm, hiệu Diệu Nghĩa, sanh ngày 15 tháng 7 năm Canh Tuất (1850).

Thiền sư Hoằng Ân qui y thọ giới với Ḥa thượng Tiên Giác Hải Tịnh từ nhỏ, tu học ở chùa Giác Lâm, tinh tấn tham học kinh sách, học rộng hiểu nhiều.

Năm Kỷ Tỵ (1869), Ḥa thượng Hải Tịnh đă 82 tuổi, thấy ḿnh tuổi già, sức yếu, nên cử trưởng tử là Minh Vi Mật Hạnh trụ tŕ chùa Giác Lâm và đệ tử c̣n trẻ (20 tuổi) nhưng có tài là Minh Khiêm Hoằng Ân trụ tŕ chùa Giác Viên.

Năm Tân Mùi (1871), Ḥa thượng Hải Tịnh hợp cùng chư Ḥa thượng ở Nam Kỳ tổ chức Đại giới đàn tại chùa Tây An ở núi Sam, Châu Đốc (tỉnh An Giang); Thiền sư Hoằng Ân mới 22 tuổi mà được cử làm Dẫn Thỉnh Sư trong giới đàn này.

Năm Ất Hợi (1875), Ḥa thượng Hải Tịnh mở giới đàn tại chùa Từ Ân (Gia Định), Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân được cử làm Giáo thọ, lúc mới 26 tuổi.

Qua các giới đàn này, Thiền sư Hoằng Ân đă được giữ vai tṛ quan trọng trong lúc tuổi c̣n quá trẻ, chứng tỏ Thiền sư Hoằng Ân là một vị sư có tài đức, được chư sơn tôn trọng.

Tháng 11 năm Ất Hợi (1875), Ḥa thượng Tiên Giác Hải Tịnh viên tịch, trưởng tử là Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh (40 tuổi) Trụ tŕ chùa Giác Lâm, nhưng về Phật học Thiền sư Mật Hạnh kém hơn Sư đệ là Minh Khiêm Hoằng Ân, v́ vậy, Thiền sư Mật Hạnh cho Tăng chúng ở chùa Giác Lâm qua chùa Giác Viên học kinh tạng với Giáo thọ Hoằng Ân. 

Năm Canh Th́n (1880), Thiền sư Hoằng Ân (hiệu Diệu Nghĩa) đứng ra khắc in lại tập truyện thơ “Hứa Sử Truyện Văn” do Thiền sư Toàn Nhật Quang Đài san định lại, bản gỗ khắc in tập truyện này c̣n lưu giữ tại chùa  Giác Viên.

Năm Đinh Hợi (1887) bà Trần Thị Liễu ở làng Tân Ḥa Đông có cất một ngôi chùa mới xin Thiền sư Hoằng Ân cho đệ tử đến trông nom việc hoằng pháp. Thiền sư đặt tên chùa là Giác Hải, và cử đệ tử là Như Nhăn Từ Phong đến trụ tŕ chùa này.

Năm Quí Tỵ (1893), Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh trụ tŕ chùa Giác Lâm đă 65 tuổi, thấy sức khỏe yếu kém nên Sư nhập thất cho đến ngày viên tịch, trao chức Trụ tŕ chùa Giác Lâm cho Sư đệ Hoằng Ân. Lúc đó, Ḥa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân trụ tŕ cả hai chùa Giác Lâm và Giác Viên, nhưng chùa Giác Lâm là Tổ đ́nh của môn phái nên Sư về trụ ở chùa này, giao chức Trụ tŕ chùa Giác Viên cho đệ tử là Thiền sư Như Nhu Chân Không với sự phụ giúp của Thiền sư Như Pḥng Hoằng Nghĩa.

Thiền sư Minh Khiêm Hoằng Ân (Diệu Nghĩa) thấy bộ luật “Tỳ-ni” viết bằng chữ Hán khó hiểu nên Sư ra sức tóm tắt luật “Tỳ-ni” lại cho gọn và chú giải bộ luật “Thiền Môn Trường Hàng Luật: Tỳ-ni Sa-di Oai Nghi Cảnh Sách” hay “Tỳ-ni Nhật Dụng Yếu Lược” bằng chữ nôm (lúc đó chữ nôm c̣n được coi là chữ quốc ngữ của Việt Nam, c̣n chữ quốc ngữ viết theo mẫu tự La Tinh hiện tại chưa được thông dụng).

Sau mấy năm công phu  chú giải, hiệu đính và khắc in, bộ sách “Tỳ-ni Nhật Dụng Yếu Lược” được in phổ biến vào năm Giáp Ngọ (1894).

Trong công tŕnh in bộ sách này, Thiền sư Hoằng Ân nhờ Thiền sư Đạt Lư Huệ Lưu Trụ tŕ chùa Huê Nghiêm (Thủ Đức) phụ giúp phần sao chép để khắc vào bản gỗ. Việc khắc bản gỗ và in bộ sách này được thực hiện ngay tại chùa Giác Viên, thợ khắc và thợ in được nuôi ăn ở tại chùa này [Sau khi hoàn thành việc in bộ luật này, có hai cư sĩ là đệ tử của Ḥa thượng Hoằng Ân cúng dường tiền công và chi phí ăn uống của thợ khắc bản và thợ in.]

Sau khi bộ luật Trường Hàng “Tỳ-ni Nhật Dụng Yếu Lược” được in phổ biến, chư tăng ở khắp nơi gởi thơ về chùa Giác Viên ca tụng, Thiền sư Hoằng Ân mời chư tăng về họp ở chùa Giác Viên để thảo luận về bộ sách luật này. Chư tăng trong cuộc họp này đề nghị dùng bộ sách đó làm sách giáo khoa sơ cấp trong giáo tŕnh dạy đạo ở các chùa thuộc các tỉnh Nam Kỳ. Chư tăng trong cuộc họp cũng đồng ư: các chú Đạo, chú Tiểu mới tu học ở chùa phải học thuộc ḷng bộ sách này. Đồng thời, trong các “Đàn truyền giới” (trường Hương, trường Kỳ), dùng bộ luật này làm đề tài khảo thí.

Năm Mậu Tuất (1898), Thiền sư Minh Vi Mật Hạnh thị tịch tại chùa Giác Lâm, thọ 71 tuổi, Thiền sư Hoằng Ân cho lập tháp thờ tại khuôn viên chùa Giác Viên và lập long vị thờ ở hai chùa Giác Lâm và Giác Viên.

Năm Kỷ Hợi (1899), Thiền sư Hoằng Ân lo trùng tu chùa Giác Viên, giao cho đệ tử là Như Lợi đứng ra cùng tăng chúng hai chùa Giác Lâm và Giác Viên tu sửa. Lần trùng tu này, Thiền sư Hoằng Ân cho sửa đổi hẳn cách kiến trúc và làm rộng lớn hơn.

Công việc trùng tu chùa Giác Viên được thực hiện hơn ba năm mới xong, lễ lạc thành vào năm Nhâm Dần (1902).

Năm Quư Măo (1903), Thiền sư Như Nhu Chân Không tịch, Ḥa thượng Hoằng Ân cử Thiền sư Như Pḥng Hoằng Nghĩa thay thế trụ tŕ chùa Giác Viên và Thủ tọa Như Lợi trụ tŕ chùa Giác Lâm, Ḥa thượng Hoằng Ân lập một cái am riêng ở hai chùa (vị trí là đồn Nguyễn Văn Cự sau này), gọi là am Giác Đế.

Năm Ất Tỵ (1905), Ḥa thượng Hoằng Ân nhận thấy hai đệ tử của ḿnh là Như Pḥng và Như Lợi có đủ khả năng hành đạo và tổ chức cùng gánh vác việc trụ tŕ hai chùa Giác Lâm và Giác Viên nên Ḥa thượng quyết định vân du hoằng hóa trong vài năm. Ḥa thượng cho hai đệ tử biết là Ḥa thượng sẽ đi vân du các tỉnh để t́m thêm thiện tri thức, t́m hiểu về căn cơ hành đạo của Phật tử bốn phương, thỉnh thoảng Ḥa thượng sẽ về thăm chùa.

Ḥa thượng Hoằng Ân một ḿnh, một y một bát vân du về miền tây Nam Kỳ. Đi đến đâu, Ḥa thượng tạm ngụ ở các chùa. Sư trụ tŕ nào biết Ḥa thượng th́ vui mừng tiếp đón và giữ Ḥa thượng ở lại, cho triệu tập bổn đạo đến viếng và thỉnh Ḥa thượng thuyết pháp. Có chùa, Sư trụ tŕ không biết Ḥa thượng th́ tiếp đăi lơ là, bỏ Ngài ở chùa, họ lo “đi đám” (ứng phú). Khi nào biết đi đám (cầu siêu, cầu an, trai tăng...), Ḥa thượng Hoằng Ân cũng xin đi theo phụ tụng kinh, không nhận tiền công đức.

Đầu tiên, Ḥa thượng Hoằng Ân xuống Mỹ Tho, ở đó suốt mấy tháng. Ḥa thượng có thái độ giao tiếp b́nh đẳng, khoan ḥa, làm cho hầu hết mọi người đều coi Ngài như một vị sư tầm thường như các sư khác, đến chừng biết được tài đức của Ngài, họ càng kính trọng.

Có một lần, Ḥa thượng đến tạm ngụ tại một chùa nhỏ ở Mỹ Tho, vị Trụ tŕ này không biết; vị sư này đi đám tang của một Phật tử là vợ của ông Hương chủ trong làng. Đám ma nhà giàu, kéo dài trong bốn, năm ngày mới chôn. Khi ăn cơm vị sư ứng phú đó ăn mặn, Ḥa thượng Hoằng Ân ăn chay, người nhà dọn một bàn ăn hai mâm cơm, một chay, một mặn; mâm đồ chay quá sơ sài, Ḥa thượng ăn không đủ, chủ nhà rầy mấy người làm bếp: chỉ có một người ăn mà nấu không đủ. Người làm bếp quưnh lên. Ngài nghe xầm x́ như thế nên nói: Bao nhiêu cũng đủ, bao nhiêu cũng thiếu. Xong Ngài cười và uống nước.

Trong số người dự bữa đó có bà Hội đồng, bà về nhà kể chuyện vị sư ăn chay cho chồng nghe. Ông Hội đồng nghe lạ, bảo người vợ tả lại h́nh dáng vị sư. Sau khi nghe xong, ông Hội đồng nghi là Ḥa thượng Hoằng Ân, nên nói: Chắc ông sư đó là Bổn sư của tôi, mấy năm nay mải lo làm ăn không có dịp lên thăm Thầy, bữa nay Thầy đi đâu mà lại đến đám ma ăn cơm. Ông Hội đồng vội vàng đến đám xem có phải Ḥa thượng Bổn sư của ḿnh không, để thỉnh về nhà ḿnh nghỉ ngơi cho đủ tiện nghi.

Ông Hương chủ thấy ông Hội đồng đến, lật đật ra sân đón rước, ông Hội đồng nói: Tôi muốn gặp ông thầy ăn chay. Vừa thấy Ḥa thượng Hoằng Ân, ông Hội đồng bảo vợ làm lễ ra mắt Ngài và thỉnh Ḥa thượng về nhà nghỉ. Mọi người khi biết “vị sư ăn chay” là Ḥa thượng đường đầu của hai chùa Giác Lâm và Giác Viên, hầu hết đều ra làm lễ Ḥa thượng. Em chủ đám là ông Cai tổng, tuy chưa phải là tín đồ đạo Phật, nhưng khi thấy được đức độ và trí tuệ của Ḥa thượng cũng quấn quít bên cạnh để nghe Ḥa thượng thuyết giảng giáo lư cho bổn đạo. Đêm đến, ông Cai tổng thỉnh Ḥa thượng ngồi ghế giữa nhà, kính dâng lễ vật xin qui y thọ ngũ giới với Ḥa thượng. Sau khi làm lễ xong, Ḥa thượng trao phần lễ vật cho Sư ứng phú và nói: “Phần này tôi tặng cho ông, nhờ ông mà thầy tṛ tôi gặp gỡ nơi đây”. Ḥa thượng nói chưa hết lời, có một đoàn Tăng Ni và Phật tử của chùa bổn sư của bà chủ đến hộ niệm. Khi ông đại diện đoàn Phật tử gặp Ḥa thượng, bèn vân tập cả đoàn làm lễ Ḥa thượng trước rồi mới khai kinh cầu siêu. Ông Sư ứng phú thấy sự việc bất ngờ dồn dập nên quưnh lên, khi nhận mâm lễ vật mà vẫn qú trước Ḥa thượng. Sau khi đoàn hộ niệm làm lễ xong, ông Sư ứng phú đến dâng mâm lễ vật trước Ḥa thượng rồi cúi lạy và nói: Con xin trọn đời hầu hạ Tổ.

Sau đó, Ḥa thượng Hoằng Ân đến châu thành Mỹ Tho, tạm ngụ tại chùa Bửu Lâm, người mộ đạo đến qui y thọ giới với Ḥa thượng rất nhiều. Phật tử đến viếng Ḥa thượng quá đông, sợ làm phiền chùa nên Ḥa thượng xin sư Trụ tŕ chùa cho cất một cái am bên cạnh chùa để tạm ngụ, đặt tên là am Viên Giác.

Hoằng hóa tại Mỹ Tho mấy năm, Ḥa thượng Hoằng Ân đi dần xuống các tỉnh Vĩnh Long, Sa Đéc, Long Xuyên, và sau cùng Ḥa thượng đến hoằng hóa ở chùa Tây An, tại chân núi Sam (Châu Đốc). Chùa Tây An là nơi Phật Thầy Tây An hoằng pháp trong thời gian 1847-1856, Phật Thầy Tây An là vị khai sáng ra phái “Bửu Sơn Kỳ Hương”, có sinh hoạt khác với Phật giáo thuần túy: Các tu sĩ của “Bửu Sơn Kỳ Hương” được gọi là ông Đạo (như Đạo Xuyến, Đạo Lập...), các ông Đạo không cạo đầu mà để tóc dài, mặc quần áo màu đen (áo dài, áo bà ba); các ông Đạo ở chùa hằng ngày vẫn làm ruộng rẫy để sống, đêm đến các ông Đạo mới lễ sám và giảng đạo, thỉnh thoảng các ông Đạo cũng thọ lănh tiền của bá tánh cúng dường. Các ông Đạo c̣n thỉnh thoảng trị bệnh cho bá tánh bằng nước lạnh hoặc phù chú.

Ḥa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân ngụ tại chùa Tây An một thời gian, đạo hạnh và trí tuệ thông đạt Phật pháp của Ḥa thượng cảm hóa được các ông Đạo ở chùa, họ giao cho Ḥa thượng chuyên lo phần tụng kinh, giảng đạo, các ông Đạo chỉ chuyên lo trị bệnh cứu dân độ thế. Các ông Đạo cũng giao việc thu xuất tiền của, lễ vật của bá tánh cúng dường và quản lư việc chùa. Sau một thời gian, Ḥa thượng Hoằng Ân đề nghị với các ông Đạo nên dùng tiền của chùa để thay chùa tranh bằng chùa cây, lợp ngói cho chùa được trang nghiêm tráng lệ và vững chắc.

Ḥa thượng Hoằng Ân hoằng hóa ở núi Sam một thời gian lâu nên về sau, trong giới Phật giáo ở miền Nam gọi Ḥa thượng là “Tổ Núi Sam”.

Trong thời gian vân du hoằng hóa, Ḥa thượng Hoằng Ân sống với tư tưởng siêu thoát của đạo Phật, đúng với câu thơ:

          Túy thưởng yên hà thân ngoại cảnh,

          Lộng thành sanh diệt vọng trung chân.

          (Bạn với khói mây, thân ngoài cảnh,

          Đùa cùng sanh diệt, vọng trong chân.)

Hoằng hóa ở chùa với “tâm đạo”, không c̣n nghĩ đến không gian, thời gian, đúng với câu đối ở chùa:

          Tự cổ thanh nhàn, thường dẫn yên hà vi bạn lữ,

          Sơn thâm thế cách, chỉ bằng thảo mộc kư xuân thu.

          (Chùa cổ sư nhàn, thường tiếp khói mây làm bạn thiết,

          Núi cao khách vắng, chỉ nương cây cỏ biết xuân thu.)

Vào khoảng năm Canh Tuất (1910), Ḥa thượng Hoằng Ân trở về thăm chùa Giác Lâm và Giác Viên (xem như là lần cuối cùng trước khi viên tịch). Thiền sư Như Lợi xin Ḥa thượng cho từ chức Trụ tŕ chùa Giác Lâm v́ tự cảm thấy không đủ sức đảm trách nhiệm vụ này. Sau một tháng theo dơi điều tra và xem xét, Ḥa thượng chấp thuận lời xin đó và cử ông thủ khố chùa Giác Viên, là một đệ tử của Thiền sư Như Pḥng, pháp danh Hồng Hưng Thạnh Đạo lên thay thế trụ tŕ chùa Giác Lâm. Lúc đó Thiền sư Thạnh Đạo mới 24 tuổi.

Sau một thời gian tạm nghỉ ở am Giác Đế và hai chùa Giác Lâm và Giác Viên, Ḥa thượng Hoằng Ân nhận thấy Pháp tôn Hồng Hưng Thạnh Đạo tuy c̣n nhỏ tuổi (tuổi đời) và ít tuổi hạ (tuổi đạo) nhưng có tài đức có khả năng đảm trách được việc trụ tŕ ở ngôi chùa lớn và xưa là chùa Giác Lâm, Ḥa thượng mới yên tâm, tiếp tục cất bước vân du hoằng dương Phật pháp ở các tỉnh miền tây Nam Kỳ (một số đông tăng sĩ ở các chùa miền Tây là đệ tử và pháp tôn của Ḥa thượng).

Ḥa thượng nghĩ rằng :

          “Kiếp người thành trụ hoại rồi không,

          Đeo đẳng sao cho vượt khỏi ṿng,

          Chay lạt tịnh thiền vui giải thoát,

          Ấp yêu xúc cảm, rối ḅng bong.

          Vô duyên sẩy bước triền miên kiếp,

          Hữu hạnh bền công dứt tuyệt ṿng.

          Thừa kế đạo từ ngàn vạn cách,

          Phân thân biến thế để ḥa đồng.” [Thiền sư Huệ Chí viết trong “Lịch Sử Tổ Đ́nh Giác Lâm”.]

Sau đó Ḥa thượng Hoằng Ân cho triệu tập tăng chúng ở hai chùa Giác Lâm và Giác Viên tại am Giác Đế để dặn ḍ: “Tôi vân du lần này không định lúc nào mới về, thầy Như Pḥng nên chín chắn lựa người lập làm trưởng tử để truyền thừa Phật pháp, nhất là phải giữ mối liên lạc chặt chẽ về đạo pháp, cũng như về đời sống kinh tế ở hai chùa. C̣n thầy Hồng Hưng, tôi thấy đủ khả năng đảm đương chùa Giác Lâm, nhưng tuổi trẻ, tánh trung thực thẳng thắn, cần lắng bớt tánh khí khái... Về am Giác Đế, hai ông Trụ tŕ nên hội nhau, xét thấy vị sư nào nghèo túng quá mà chưa có chùa ở th́ cho am đó để ở, để họ không dám quên Phật pháp.”

Sau khi dặn ḍ việc hậu sự  ở hai chùa xong, vài ngày sau, Ḥa thượng từ giă đồ chúng, rồi tái bước vân du.

Ḥa thượng tạm dừng chân ở Mỹ Tho, ngụ tại am Viên Giác mấy tháng, sau đó Ḥa thượng đến Châu Đốc, dừng chân ở chùa Tây An hoằng dương Phật pháp thêm một năm nữa. Đến đây tuổi đă lớn, sức khỏe đă yếu, Ḥa thượng cảm thấy cần phải an trụ tịnh thiền để chuẩn bị cho ngày “trở về quê”.

Năm Quí Sửu (1913), Ḥa thượng Hoằng Ân từ Châu Đốc trở về Mỹ Tho thăm chùa Bửu Lâm, rồi trụ tại am Viên Giác sắp xếp nhập thất tu thiền lâu dài trước khi viên tịch.

Sau một thời gian an trụ tại am Viên Giác, sức khỏe Ḥa thượng đă yếu nhiều, đệ tử ở các nơi hay tin đều về am Viên Giác để thăm viếng Ḥa thượng. Riêng đồ chúng ở hai chùa Giác Lâm và Giác Viên tập trung rầm rộ xuống Mỹ Tho thăm sức khỏe Ḥa thượng. Đồ chúng hai chùa Giác Lâm và Giác Viên muốn thỉnh Ḥa thượng về chùa Giác Lâm để chăm lo sức khỏe, nhưng tăng sĩ và tín đồ ở Mỹ Tho cũng muốn giữ Ḥa thượng ở lại tại am Viên Giác, nên lư luận: “Ḥa thượng ở am Viên Giác (Mỹ Tho) là công bằng nhất, v́ ở Mỹ Tho là ở ngay giữa, đệ tử Sài G̣n-Chợ Lớn và đệ tử ở Long Xuyên, Châu Đốc đến thăm viếng Ḥa thượng th́ đường đi gần bằng nhau, tiện chung cho tất cả đệ tử của Ḥa thượng”. Thấy lư luận này đúng, nên đồ chúng ở chùa Giác Lâm và Giác Viên phải chấp thuận ư kiến đó, đồng thời hai chùa này phái người thay phiên thường trực hầu hạ Ḥa thượng tại am Viên Giác.

Giờ Th́n ngày 29 tháng giêng năm Giáp Dần (1914), Ḥa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân cho gọi các đệ tử theo hầu hạ đến đủ mặt, Ḥa thượng chầm chậm đọc hai câu:

          “Phật pháp miên trường,

          Chúng sanh dị độ.”

Rồi từ từ nhắm mắt an nhiên viên tịch, thọ 65 tuổi.

Thiền sư Như Pḥng Hoằng Nghĩa cùng đệ tử là Thiền sư Hồng Hưng Thạnh Đạo tập họp đồ chúng ở hai chùa Giác Viên và Giác Lâm, cùng chư tăng và tín đồ ở vùng Sài G̣n-Chợ Lớn để xuống Mỹ Tho rước linh cữu Ḥa thượng Hoằng Ân về chùa Giác Lâm làm lễ nhập tháp v́ chùa Giác Lâm là Tổ đ́nh của phái Lâm Tế, có truyền thừa theo ḍng kệ “Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên, Minh Như Hồng Nhựt Lệ Trung Thiên...” của Ḥa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân.

Linh cữu của Ḥa thượng Hoằng Ân được quàn tại chùa Giác Lâm hai ngày, Thiền sư Như Pḥng Hoằng Nghĩa là trưởng tử, đứng hàng đầu trong mỗi thời tế lễ.

Tháp của Ḥa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân được xây cạnh tháp của chư Tổ: Phật Ư Linh Nhạc, Tổ Tông Viên Quang và Tiên Giác Hải Tịnh ở chùa Giác Lâm.

Bia tháp có ghi:

“Từ Lâm Tế chánh tông, tam thập bát thế, thượng Hoằng hạ Ân, húy Minh Khiêm, Ḥa thượng Tôn sư chi bửu tháp”.

Trên tháp có bài kệ:

          “Bổn trọng năng phủ chưởng,

          Thạch nữ giải hanh trà,

          Thiện Tài tham biến xứ,

          Hắc đậu vị sanh nha,

          Vân tan thiên biên nguyệt,

          Xuân lai thọ thương hoa.”

          (Gốc nặng tay thường vỗ,

          Gái đá biết nấu trà,

          Thiện Tài tham khắp xứ,

          Đậu đen mầm chưa ra,

          Mây tan trăng vằng vặc,

          Xuân đến cây nở hoa.)

Ḥa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân có rất nhiều đệ tử nổi danh:

- Thiền sư Như Pḥng Hoằng Nghĩa Trụ tŕ chùa Giác Lâm.

- Thiền sư Như Lợi Trụ tŕ chùa Giác Lâm.

- Thiền sư Như Nhu Chân Không Trụ tŕ chùa Giác Viên.

- Thiền sư Như Nhăn Từ Phong khai sơn chùa Giác Hải (Phú Lâm, Gia Định) và chùa Thiền Lâm (G̣ Kén, Tây Ninh).

- Thiền sư Như Hóa Hoằng Đạo Trụ tŕ chùa Đại Giác (Biên Ḥa).

- Thiền sư Như Hiển Chí Thiền Trụ tŕ chùa Phi Lai (gần núi Cấm, Châu Đốc).

]


[mục lục][lời nói đầu][lời tựa]

[phần 1][phần 2][phần 3][phần 4][phần 5][phần 6][phần 7][phần 8]

[phần 9][phần 10][phần 11][phần 12][phần 13][phần 14][phần 15][phần 16][phần 17]

[phần phụ những ḍng kệ các phái][sách tham khảo]

[Trang chu] [Kinh sach]