[Trang chu] [Kinh sach]

PHÁP HOA ĐỀ CƯƠNG

[mucluc][loigioithieu][loinguoidich][phamle][loidantua]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28]


PHẨM NHƯ LAI THẦN LỰC và PHẨM CHÚC LỤY

Phẩm Như Lai hiện thần lực. Đây là lúc đem trao Diệu pháp một đại sự nhân duyên. Bởi trong kinh, trước phóng quang để bày tỏ nhăn căn thấy tánh. Thấy tánh này, ứng dụng từ trong tâm thể xưa nay trong sạch, vô lượng nghĩa, chẳng thể nghĩ bàn. Khiến các chúng sanh trở lại cái thấy tánh đó, xoay về quán bản tâm xưa nay của ḿnh, mà ngộ nhập tri kiến Phật.

Tiếp đó dần dần khai diễn, tâm căn vốn cùng một nguồn với tri kiến, đồng một thể dụng chẳng phải hai. Cho đến cả sáu căn, cũng đồng là ứng dụng của tâm trong sạch xưa nay. Tâm này tức là nhất đại sự tri kiến Phật vậy. Đại chúng đă nhận ra nhưng nơi cửa sáu căn chưa biết nên từ căn nào mà vào, mới là Diệu pháp tối thượng. Nên Phật lại phóng quang, trưng biểu cùng việc phóng quang trước chẳng khác. Phật hiện tướng lưỡi rộng dài, tức là biểu hiện sẽ nói pháp lớn rất ít có. Cũng lại tiêu biểu cho thiệt căn hay diễn thuyết pháp âm đại thừa, khiến cho người nghe tâm họ có thể ngộ nhập. Lưỡi là mầm mống của tâm, lưỡi nói chính là tâm nói vậy.

Kế lại tằng hắng, khảy móng tay phát thành tiếng. Đây chính là phút giây đối mặt thân trao pháp lớn. Bởi chỉ cho nhân tiếng để bày ra tánh nghe của nhĩ căn. Mà nhĩ căn viên thông thường tỏ rơ, năm căn chẳng sánh kịp. Thế nên đức Phật tằng hắng, rồi khảy móng tay, mật lệnh hăy tự hiểu lấy. Thầm dạy từ nhĩ căn mà vào. Kinh Lăng Nghiêm nói:

            Chân giáo thể phương này,

            Thanh tịnh tại nghe tiếng,

            Muốn được Tam-ma-đề,

            Thật từ nghe mà vào.

Lại bảo: “Chỉ dùng căn này tu viên thông, vượt hơn các căn khác”. Nhưng đức Phật chẳng dùng tiếng pháp bày tỏ nhĩ căn là biểu hiện ĺa tướng nói năng. Dùng âm thinh tằng hắng, khảy móng tay, để nêu rơ nhĩ căn là biểu hiện ĺa tướng tâm duyên. Tỏ ư chỉ tánh nghe của nhĩ căn dẫy đầy tṛn sáng mà thôi. Chư Phật đồng phóng ánh sáng cho đến đồng tằng hắng và khảy móng tay là trưng biểu mười phương các đức Phật đồng một đạo này. Lại, trưng biểu cho tánh thấy nghe hiểu biết linh minh của đương cơ, nhất thời đồng khắp mười phương cơi nước của chư Phật, rỗng suốt không ngại không tạp.

Nên biết tiết này cùng kinh Lăng Nghiêm chỗ nêu bày số lượng công đức của sáu căn, để lựa chọn trong căn viên thông cái thông lợi bậc nhất th́ từ căn này mà vào. Đánh chuông là để hiển lộ tánh nghe chân của nhĩ căn, minh lợi viên thông thường tỏ rơ rất là thù thắng. Kinh này th́ tằng hắng, khảy móng tay, cũng cùng một ư nói trên. Kinh nói: “Tiếng tằng hắng và tiếng khảy móng tay của chư Phật nghe khắp mười phương cơi đất đều có sáu điệu vang động”.

Quan trọng ở hai chữ “nghe khắp” vậy. Lại tằng hắng tức là bảo cho biết việc đó để xoay trông lại. C̣n tiếng khảy móng tay là để chỉ cho đă quét sạch tất cả, xưa nay không pháp có thể thuyết. Chỉ thẳng cái linh minh đó nghe khắp rỗng suốt mười phương là tự tánh trong sạch xưa nay của các ông đấy. Người nghe nên như thế mà ngộ nhập.

Sau là phẩm Chúc Lụy. Bởi trước là tự lợi, đến đây bảo phải lợi tha, tuyên dương rộng răi pháp này, lưu bố khắp nơi chớ sanh keo kiệt. Như trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn ngài A-nan tự phát thệ: “Ḿnh chưa được độ, trước độ người là phát Bồ-tát tâm. Tự giác đă xong, hay giác ngộ kẻ khác là Như Lai ứng thế. Con dù chưa được độ, nhưng nguyện độ tất cả chúng sanh đời sau…”

Trong phẩm Chúc Lụy này nhằm nêu bày ư dẫn trên.

Kệ rằng:

            Như Lai thần lực rất lạ kỳ,

            Chính đă hợp căn, trao pháp th́,

            Lưỡi ấy, đành rành truyền đại giáo,

            Tiếng ho thầm bảo nhận văn tri,

Một phen cùng chứng Chân nhân địa (Chân nhân địa hay Đại Mâu-ni: Tức chỉ cho nhân địa và quả vị vô lậu, giải thoát cùng tột, pháp thân hiển lộ, bi trí viên măn, lợi ḿnh, lợi người cùng khắp. Bài kệ cuối của Tam Thập Tụng Duy Thức nói: Thử tức vô lậu giới, Bất tư ngh́, thiện, thường, An lạc giải thoát thân, Đại Mâu-ni danh pháp.)

            Tay khảy viên dung Đại Mâu-ni

            Cúi nhận Như Lai thân trao phó,

            Gió hoa tuyết nguyệt mặc thi vi.

*

Giao phó cho rồi Trí vô sư ( Trí vô sư: Trí tuệ bản hữu, không phải thứ kiến giải tập thành hằng ngày. Mọi người đều sẵn có thứ trí tuệ này, nó hiện bày một cách độc đáo và tự nhiên khi cơ duyên hội đủ.)

Liền khuyên phát khởi Đại vân từ (Đại vân từ: Từ tâm b́nh đẳng cùng khắp như đám mây lớn, nó không c̣n đối tượng năng sở và chủ thể khách thể hay bất cứ một lư do nào.)

            Đây thuyền giải thoát đưa người khổ,

            Ḱa đất yên vui sống như như,

            Như như chớ tưởng như núi đá,

            Bốn tướng oai nghi cũng như như,

            Lợi ḿnh lợi người đâu lẫn tiếc,

Khiến khắp quần sanh vào Vô dư  (Niết-bàn tối hậu không c̣n thừa sót, tức là đại Niết-bàn của Phật quả vậy. Tám câu thơ sau, bốn câu đầu là do dịch giả dựa ư bài thơ trước diễn ra để hợp vận với bốn câu kết của tác giả.)

            Như Lai thần lực diệu nan tư,

            Chánh thị đầu căn phó pháp th́,

            Thiệt tướng đắc minh truyền đại giáo,

            Khái thinh linh giác ngộ văn tri,

            Nhất thời cộng chứng chân nhân địa,

            Đàn chỉ viên dung đại Phật thừa,

            Diện phụng Như Lai thân chúc thọ,

            Phong hoa tuyết nguyệt nhất như như,

            Như như bất thị như sơn thạch,

            Tứ oai nghi nội diệc như như,

            Tự lợi lợi tha chung bất lận,

            Phổ linh quần hữu nhập vô dư.

]

 

[mucluc][loigioithieu][loinguoidich][phamle][loidantua]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28]

[Trang chu] [Kinh sach]