PHÁP HOA ĐỀ CƯƠNG
[mucluc][loigioithieu][loinguoidich][phamle][loidantua]
[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28]
|
BẠT DẪN ĐỀ MỤC ĐẦU KINH PHỤ TỤNG TÔNG CHỈ CÁC CHỮ BẠT DẪN ĐỀ MỤC ĐẦU KINH Năm chữ Diệu Pháp Liên Hoa kinh rất là sâu xa kín đáo. Văn khí mạnh mẽ của toàn bộ đều gồm chứa trong đó. Áo chỉ của một kinh, cũng gói trọn trong đó. Cho đến nguồn chân biển nghĩa của các kinh, cũng đều chung về nơi đây và đạo lớn thiên tánh của các sách, cả thảy hội qui trong đấy. Nêu đề mà lư đă khắp, mở mục mà tâm rạng ngời. Lớn thay, kinh Diệu Pháp Liên Hoa ! Chẳng thể suy nghĩ, luận bàn mà được. Nay tôi tự gạn lọc tâm tư giải trắng ra, để làm pháp thí. Nguyện đem lợi ích cho đời sau, đồng vào tri kiến Nhất thừa vậy. Diệu tức chỉ cho tâm trong sạch xưa nay. Tâm này từ vô thủy đến giờ tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên. Ở thánh chẳng thêm, nơi phàm chẳng bớt. Nhiễm mà chẳng nhơ, rửa mà chẳng sạch. Lặng lẽ tṛn đầy pháp giới, ngất ngất khắp giáp hư không. Tâm là bản nguyên của chư Phật, tâm là Phật tánh của chúng sanh. Nguyên chẳng phải tướng mà tướng từ đó hiện. Vốn là chân không mà không từ đó sanh. Như hạt châu ma-ni trong sạch, không có các sắc mà theo đó thành các sắc. Lại như biển giác lặng lẽ tṛn đầy, chiếu nơi sáu trần mà chẳng nhận một trần. Là họa sư của thập ban pháp giới, là trí mẫu của tất cả Như Lai. Thế nên kinh Hoa Nghiêm nói: Nếu người muốn biết rơ, Ba đời tất cả Phật, Nên quán tánh pháp giới, Tất cả do tâm tạo. Chỗ rốt ráo của tu hành, cũng chỉ xét tột tâm này mà thôi. Hỏi: Linh diệu của tâm này như thế, phải từ chỗ nào mà thấy được ? Đáp: Phàm có nói năng, biểu thị, đều chẳng thể được. Kinh nói: Thôi thôi chẳng cần nói, Pháp ta diệu khó nghĩ, Những người tăng thượng mạn, Nghe hẳn chẳng kính tin. Nói thôi thôi tức là bản thể bất động của tâm, chẳng cần nói, tức là rơ chẳng phải nói năng, chỗ có thể biểu thị đến. Ta tức chỉ bản tâm của tự ḿnh. Pháp tức chỉ ứng dụng của tri kiến. Diệu tức là linh diệu của tâm này sanh ra các pháp, mà t́m tướng nó chẳng thể được. Khó nghĩ tức suy nghĩ cũng chẳng đến nơi. Tổ sư bảo: “Cử tâm tức lầm, động niệm liền trái”. Nên nói: “Chẳng thể nghĩ, chẳng thể nghị, chẳng thể xứng, chẳng thể lường, chẳng thể nói…” cưỡng gọi là Diệu. V́ thế, mà bảo rằng Diệu khó nghĩ. Tăng thượng mạn, tức trước tướng chấp pháp, là bọn cỡi trâu t́m trâu, đem đèn t́m lửa, trên tuyết thêm sương, nên gọi là tăng thượng mạn. Tức là tự khi ḿnh, bảo rằng linh diệu của tâm kia là của Phật Tổ, chẳng phải ta có, nên hướng bên ngoài chạy t́m, gọi là tăng thượng mạn. Nghe hẳn chẳng kính tin, là do đă tự khi ḿnh, chẳng phải vật của ta, nên chẳng cần yêu giữ. Như chàng cùng tử kia, đó là chẳng kính tin. Nếu hay tự nhận ra trân báu trong nhà ḿnh, th́ không c̣n tự khi, cũng chẳng nghèo đói măi. Mỗi niệm mỗi niệm xoay trông lại Diệu Quang, chẳng dùng Cầu Danh đuổi theo vọng thức, gọi là kính tin. Kính tin lại thêm kính tin, một vật Diệu của báu trong nhà ta, nếu có th́ cùng lúc. Thôi thôi chẳng cần nói ! Tụng Diệu Diệu rằng: Khôn h́nh khôn trạng cũng khôn danh, Diệu tại trong đây một điểm linh, Lặng lẽ thường soi suốt pháp giới, Xưa nay trong sạch, rạng chân tinh, Do đấy sanh ra các đức Phật, Cũng lại, h́nh thành cả chúng sanh, Ôi thế ! Chúng sanh quên cha giác, Cam làm cùng tử chạy linh đinh. Nan h́nh, nan trạng, diệc nan danh, Diệu tại kỳ trung nhất điểm linh, Thường tịch viên thông minh pháp giới, Bản lai thanh tịnh oánh chân tinh, Do tư năng xuất sanh chư Phật, Diệc thị thành vi hữu chúng sanh, Thán nhĩ ! Chúng sanh mê giác phụ, Cam vi cùng tử tẩu linh b́nh. Pháp, tức tất cả pháp. Tất cả pháp là ứng dụng của một diệu tâm. Một diệu tâm là linh nguyên của tất cả pháp. Nói pháp tức là tâm, bảo tâm chính là pháp. Pháp là cái tùy duyên của Diệu hữu, chẳng nhiễm gọi là Diệu pháp. Tâm là cái ứng vật của chân không, ly trần chính nó là chân tâm. Luận về chân tâm th́ đâu nhờ thi vi. Nói Diệu pháp th́ chẳng ngại tu chứng, nhưng pháp môn tu chứng có đến vô lượng, nên chọn môn nào gần gũi thích hợp mà vào. Vả lại, pháp dù có vô lượng, chẳng qua đều gồm vào ba pháp là: Căn pháp, Trần pháp và Thức pháp. Song ba pháp này, đều là cái bày hiện của Diệu tâm. Nên nói: “Pháp từ tâm mà khởi, tâm là nguồn các pháp”. Một niệm tối sơ bộc phát, tự là vạn ban biến hóa. Triển chuyển lưu lăng, sanh diệt luân hồi. Đến nay vẫn c̣n theo vọng quên chân, khác nào chàng Diễn Nhă [Diễn Nhă Đạt Đa, người ở thành Thất La Phiệt (Sravacti-Xá Vệ). Một sớm anh soi gương thấy đầu của ḿnh hiện bóng trong gương, mắt mũi xinh đẹp khả ái. Khi úp gương anh lại tự hỏi sao không thấy đầu… Từ đó, anh phát cuồng, ngỡ rằng ḿnh không có đầu và rồi hốt hoảng chạy khắp thành phố. Nhân đấy, trong hội Lăng Nghiêm đức Phật đem việc này ví cho những người chưa nhận ra chân tâm của ḿnh. Mảng chạy theo thức t́nh vọng tưởng lăng xăng bên ngoài. Một lúc nào đó, thức t́nh vọng tưởng kia tự lặng, họ cảm thấy mất ḿnh, và lại chạy rong kiếm t́m không thôi. Đâu biết rằng, vọng vốn không nhân, đều từ chân tâm diệu minh của ḿnh dấy khởi. Một khi chiếu biết chính nó liền không, c̣n đâu chạy cuồng như chàng Diễn Nhă Đạt Đa kia ư ?] quên đầu nhận bóng. Nay, muốn mở bày để chóng ngộ nguồn tâm, trước phải rơ thức pháp là huyễn ảnh, trần pháp là hư hoa, đều chẳng có thể dùng làm chỗ tu nhân. Hăy trực tiếp lấy căn pháp làm nhân gần cho tu chứng. Bởi trần không có tự thể, nhân căn mà hiện. Như mắt bệnh thấy hoa đốm giữa hư không. Nên nói: “Trần là hư hoa, vốn không tự thể”. Thức không tự có, nhân trần mà sanh, như vật hiện bóng trong gương. Nên nói: “Thức là huyễn ảnh, nguyên không tự có”. Thế th́, thức có sanh diệt, trần có đến đi, cái sanh diệt đến đi ấy, tức là pháp vô thường. Chỉ có căn tánh là thường tự tại, nên đức Phật chỉ căn tánh này là diệu căn, căn pháp là diệu pháp. Bởi căn pháp dù cũng do tâm hiện ra, vẫn như ấn mắt hiện ra mặt trăng thứ hai, song mặt trăng thứ hai cùng mặt trăng thứ nhất không khác. Chỉ lúc ấn th́ có, lúc biết th́ không, hoàn toàn đồng với mặt trăng thứ nhất, chẳng phải có khác như bóng cùng ánh sáng. Nếu lúc đới vọng, th́ căn tánh là cái thứ hai của tâm. Vô tướng linh tri là cái thứ nhất của tâm. Nhưng căn tánh cùng với linh tri nguyên chẳng khác thể, chỉ lúc mê th́ có, khi ngộ liền không, hoàn toàn đồng với tâm trong sạch xưa nay. Vô tướng linh tri thể chân thật, chẳng phải hư huyễn như trần thức vô thường thay đổi kia. Thế nên đức Phật chỉ thẳng căn tánh là nhân gần nhất của tu chứng, khiến các chúng sanh từ căn mà vào. Vào ḍng, trở lại đầu nguồn tự thấy tâm thể xưa nay của ḿnh vậy. Hỏi: Tại sao chẳng chỉ thẳng cái thứ nhất là tâm diệu xưa nay, mà lại chỉ cái thứ hai là căn tánh làm nhân tu ? Đáp: Tâm vốn không h́nh, cố nhiên là không thể chỉ. Trước đă chẳng nói rồi ư ? Phàm có nói năng biểu thị đều chẳng thể được. Nhưng tâm tuy không h́nh mà tùy chỗ ứng dụng của căn có dấu vết. Có dấu vết, th́ có thể chỉ ra, khiến từ dấu vết của ứng dụng, nhân ánh sáng mà tự thấy đầu nguồn tâm. Hỏi: Dấu vết hiện giờ ở đâu ? Đáp: Tại trên sáu trần cảnh, hiện dấu vết kia. Bởi nhân sắc mà hiện thấy, nhân tiếng mà bày tỏ nghe, th́ sáu trần là dấu vết ứng dụng của sáu căn. Nay muốn được dấu vết của căn, chỉ ngay trên cảnh sắc thinh ấy thấy nghe là phải. Nên biết rằng, dụng của căn tức dụng của tâm, biết của căn tức biết của tâm. Nơi căn có sáu dụng, mà tâm thể vốn một linh minh. Phật Phật chỉ truyền pháp căn này, thầy thầy đồng trao tâm tông ấy. Chỗ đầu cơ khai thị của các kinh, từ đấy mà được trí căn bản. Truyền tŕ pháp ấn trải qua các đời, cũng lấy đây để phát giác tâm ban đầu. Chỉ theo chỗ cạn sâu, mà có chứng mau chậm đó thôi. Lại cần biết, pháp này theo chỗ đặt tên, có vô lượng sự sai khác, đều là pháp ấy mà tên không đồng. Lại danh hiệu của chư Phật và đề mục của các kinh, cũng đều là tên khác của tâm pháp này thôi. Hỏi: Tâm này truyền thọ thế nào ? Đáp: Đức Thế Tôn đưa cành hoa, ngài Ca Diếp mỉm cười. Về sau, các Tổ truyền tŕ, cơ đầu chẳng phải một. Người ngộ tự biết vậy. Hỏi: Làm sao tu tŕ ? Đáp: Dừng ! Dừng ! Lại Thiền sư Đạo Xuyên bảo: Tri âm tự có gió, tùng ḥa; Gió mát, trăng trong, khoảng bao la. Lại bảo: Ở tâm đắc, ở tay ứng, Tuyết gió trăng hoa, Trời cao, đất dày, Sáng sáng gà hướng canh năm gáy, Xuân lại nơi nơi hoa núi xinh. Hỏi: Rốt ráo là ǵ ? Đáp: Ḥa thượng Phổ Hóa nói: “T́m chỗ đi chẳng thể được”. Lại nguyện kệ trong kinh Hoa Nghiêm nói: Lạy đấng Hoa Nghiêm biển chân tánh, Các thứ ánh sáng chiếu cùng khắp, Muôn hạnh Phổ Hiền tùy trang nghiêm, Tất cả chân như pháp giới tạng. Trân trọng ! Trân trọng ! Tụng Pháp Pháp rằng: Số lượng trần sa pháp có đây, Chẳng qua căn trần thức dựng xây, Hư ảnh, huyễn duyên, luống khởi diệt, Chân tri, chánh kiến lặng tṛn đầy, Trong đây phát giác t́m thầy dẫn [Tức chỉ cho vị đại đạo sư hay chân thiện tri thức. Người sáng suốt rành rơ đường đi có thể hướng dẫn mọi người từ ngả chông gai nguy hiểm đến chỗ giải thoát yên vui. Trong các kinh điển Đại thừa của Phật giáo, thường ví cho đức Phật và các vị đại Bồ-tát mới làm nổi việc này.] Trên lộ quay về, hội Phật ngay, Ví muốn chóng lên chân bảo sở, Đường đi trước mắt, chớ dông dài. Trần sa số lượng pháp tuy đa, Bất quá căn, trần, thức dă ma, Hư ảnh, huyễn duyên đồ khởi diệt, Chân tri chánh kiến trạm viên đà, Cá trung phát giác tầm sư đạo, Đạo thượng toàn nguyên nhập Phật gia, Nhược dục tốc đăng chân bảo sở, Mục tiền tiến lộ mạc tha đà. Liên, lấy đây để tỷ dụ cho hai chữ Diệu pháp nói trên. Bởi v́ hoa sen sanh trong bùn, mà chẳng nhiễm mùi bùn, nổi trên nước, mà chẳng thấm chút nước, tánh thuần dương vậy. Hoa trái cùng lúc, không có trước sau. Dụ cho tâm ở trong trần lao mà chẳng dơ bẩn, tại phiền năo mà chẳng bối rối. Xưa nay trong sạch, chẳng phải cái sạch sẽ của rửa hết nhơ. Xưa nay thường lặng, chẳng phải cái lặng lẽ của loạn được định. Xưa nay toàn sáng, chẳng phải cái sáng suốt của mặt trời, mặt trăng cùng ánh đèn. Là riêng sáng thuần khắp, là diệu tánh tịch chiếu thường quang vậy. Tâm cảnh hỗ dụng, có không phân biệt. Tụng Liên Liên rằng: Sen xanh, ngó trắng, cọng vươn ra, Chẳng nhiễm bùn nhơ, vượt thủy ba, Lá lá nở tṛn, màu xanh biếc, Cành cành đứng thẳng, khắp sum la, Tuy ở cảnh âm, thuần dương tánh, Dù trong bùn đọng, chẳng ướt mà, Thí dụ, đạo tâm trong thế đấy, Tâm này làm Phật, chính là ta. Thanh liên bạch ngẫu dũng hành đa, Bất nhiễm ô nê xuất thủy ba, Chúng diệp viên khai đồng bích lục, Quần căn trực thụ biến sum la, Tuy cư âm cảnh thuần dương tánh, Cố tại nê trung bất thấp da, Thí dụ đạo tâm thanh nhược thị, Thử tâm tác Phật, bản phi tha. Hoa là nở ra tỏ rơ, người người cùng thấy, mỗi mỗi cùng biết. Thấy biết tṛn sáng, là nghĩa hoa nở. Nên biết, hoa tức sen, mà sen tức hoa. Lại phải rơ, thấy biết tức là tâm, mà tâm tức là thấy biết. Nhưng tâm lúc chẳng động, thấy biết chẳng sanh, há không thấy biết. Dụ cho sen lúc chưa hóa, hoa sen chưa có đâu chẳng sanh hoa. Thế là sen gồm chứa hoa, như tâm gồm chứa thấy biết. Hỏi: Thấy biết vốn đồng, thế nào gọi là thấy biết của chúng sanh ? Sao gọi là thấy biết của Phật? Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói: Thấy biết chấp thấy biết, Chính là gốc vô minh, Thấy biết không thấy biết, Đây tức là Niết-bàn. Hỏi: Làm thế nào khai Phật tri kiến, khiến được trong sạch ? Đáp: Kinh Lăng Nghiêm nói: Cuồng tâm tự hết, Hết tức Bồ-đề, Chỉ sạch phàm t́nh, Không riêng thánh giải. Tụng Hoa Hoa rằng: Giữa bùn vọt hiện rất nhiều hoa, Hoa ấy là sen chẳng khác mà, Cội gốc chẳng nhơ, như bùn nước, Tùy cành mà hiện, bạch hồng hoa, Lúc nở thơm xa, người hay biết, Trong búp nhân tṛn tự lớn ra, Thật dụng cứu sanh, trừ các bệnh, Hoa sen dụ thể diệu căn ta. Nê trung dũng hiện chúng đa hoa, Hoa năi liên sanh phỉ thị tha, Như bản bất ô nê thủy loại, Tùy căn nhi hiện bạch hồng hà, Khai thời hương viễn nhân tri kiến, Uẩn xứ nhân viên tự trường da, Thật dụng cứu sanh trừ chúng bệnh, Liên hoa dụ nhược diệu căn gia. Kinh là lối tắt, là đường tắt vào đạo. Lại kinh là thường pháp, muôn đời chẳng đổi, cũng chính là văn tự Bát-nhă. Văn tự là ghi khắc những ngôn ngữ, ngôn ngữ là sự máy động của lưỡi, lưỡi là mầm mống của tâm, tâm là cái linh ứng của diệu. Một chữ diệu này, tôi thật không thể giải bày, chỉ biết văn tự trong kinh, là diệu dụng của tâm thôi. Nên kinh nói: “Từ tơ, tức là sợi chỉ, hay xỏ thành một xâu làm nghĩa”. Nếu tâm là thể của văn tự, th́ văn tự là dụng của tâm. Nhưng tâm thể tuy một, mà dụng của tâm khi biến thành tướng của văn tự th́ vô lượng, là nhất ấn mà ấn thành vô lượng. Nay muốn đem vô lượng làm một, tức phải lấy một sợi chỉ mà xỏ suốt cả lại, hợp thành một xâu. Nói xâu, nghĩa là suốt khắp không ǵ chẳng khắp, không ǵ chướng ngại. Lại xâu đó, tuy bảo rằng văn tự Bát-nhă, mà xâu suốt cả quán chiếu Bát-nhă ,[Bát-nhă chính là đại giác viên thường có ba đức:1 - Thật tướng Bát-nhă. Đấy là lư thể của Bát-nhă. Lư thể này, từ xưa tới giờ mọi người đều sẵn đủ, nhưng phải xa ĺa tất cả những tướng hư vọng bên ngoài kia, mới vào được thật tánh của nó và hiển lộ được lư thể Bát-nhă này. 2 - Quán chiếu Bát-nhă. Tức là dùng thật trí quán chiếu lại thật tướng. 3 - Phương tiện Bát-nhă. Cũng chính là văn tự Bát-nhă, là dùng quyền trí để phân biệt các pháp. Nói rơ hơn, Bát-nhă là thứ trí tuệ vượt ngoài tham sân si, dứt hết các nghi lầm và tự ḿnh thông đạt một cách minh liễu. Gồm có ba thứ: a - Thật tướng Bát-nhă: Trí tuệ cao tột, là cái linh tri tự nhiên mỗi người có sẵn, c̣n măi. b - Quán chiếu Bát-nhă: Trí tuệ siêu xuất hay quán sát chiếu liễu và phân biệt các pháp. Trí tuệ này nhờ thiền định mà mở thông. c - Văn tự Bát-nhă: Tức là những sự lư sáng suốt cao diệu chứa sẵn trong các kinh điển Phật nói.] lư diệu không hai. Thế nên, kinh Kim Cương nói: “Nếu chỗ nào có kinh điển này, tức chỗ đó hiện có Phật”. Nhưng kinh là do kim khẩu đức Thích Tôn nói ra. Dù có thánh nhân ba thừa, hàng thiên long quỷ thần nói ra mà Phật thừa nhận hứa khả, mới được gọi là kinh. Ngoài ra th́ chẳng được. Cẩn thận chớ nói ngang nói dọc, phỏng đoán mê hoặc người, mà chuốc tội vô gián. Tụng Kinh Kinh, văn tự Bát-nhă rằng: Toàn nhờ giấy mực chứa chân châu, Châu số rất nhiều Đại tạng lưu, Lưu chép văn chương thật diệu pháp, Pháp c̣n tông chỉ nguồn đạo lưu, Lưu thông sự lư trong khuôn nhiếp, Nhiếp lấy ngôn thuyên, trọn gồm bao, Bao quát Thánh, phàm rành thể dụng, Dụng th́ kinh mục thấy tâm đầu. Toàn bằng chỉ mặc uẩn chân châu, Châu số đa đa đại tạng lưu, Lưu kư văn chương chân diệu pháp, Pháp tồn tông chỉ đạo nguyên lưu, Lưu thông sự lư qui trung nhiếp, Nhiếp thủ ngôn thuyên nhất nội bao, Bao quát thánh phàm minh thể dụng, Dụng thời kinh mục kiến tâm đầu. Lại tụng kinh quán chiếu Bát-nhă rằng: Đưa lên sợi chỉ xỏ minh châu, Hợp nhiều về một chứa bền lâu, Xuyên thẳng trung tâm rồi thoát khỏi, Suốt thông trong ấy khắp châu lưu, Một sợi đầu đuôi, đều tùy tiếp, Trước sau đầu mối, thảy gồm thâu, Uyển chuyển liên hoàn, thường chiếu dụng, Xưa nay chẳng đổi, cái tâm đầu. Đề tương tuyến lộ quán minh châu, Hiệp chúng đa qui nhất nội lưu, Trực đạt không trung toàn thoát xuất, Xuyên thông giá lư phổ châu lưu, Nhất điều thủ vỹ giai tùy tiếp, Thuần tự sơ chung đại tổng bao, Uyển chuyển liên hoàn thường chiếu dụng, Cổ kim bất dịch cá tâm đầu. ] |
[mucluc][loigioithieu][loinguoidich][phamle][loidantua]
[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28]