[Trang chu] [Kinh sach]

BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT

[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]


MÊ TÍN CHÁNH TÍN  

I.- MỞ ĐỀ

            Đạo Phật chủ trương giác ngộ mang ánh sáng trí tuệ soi rọi cho thế gian. Mọi lẽ thật đều hiện bày dưới ánh sáng giác ngộ, nhận thấy lẽ thật rồi mới khởi ḷng tin đó là “chánh tín”. Ngược lại, bày những điều mê hoặc làm mù quáng người đời, lừa bịp thế gian, ấy là “mê tín”. Hoặc không hiểu rơ, không có lư lẽ, mà tin càn tin bướng là “mê tín”. Tin bướng là họa hại đưa con người đến đường mù tối. Thấy rơ biết đúng mới tin là sức mạnh vô biên khiến người thành công trên mọi lănh vực. Thế nên trong kinh Hoa Nghiêm có câu: “Tin là nguồn của đạo, là mẹ của mọi công đức. Tin hay nuôi lớn các gốc lành.” V́ thế người học đạo cần có ḷng tin, song ḷng tin đă qua sàng lư trí gạn lọc kỹ càng. Tuyệt đối không được tin càn, tin bướng làm băng hoại tinh thần giác ngộ của đạo Phật. Chính trong kinh Di Giáo Phật dạy: “... Xem tướng lành dữ, trông xem sao hạn, xem xét thạnh suy, coi ngày đoán số đều không được làm...”

II.- MÊ TÍN

            Mê tín là lối tin mù quáng khiến con người mất hết trí thông minh. Những kẻ chủ trương mê tín là người làm hoặc loạn thế gian, đưa dân tộc lùi lại bán khai. Một tôn giáo chân chánh, một dân tộc văn minh, không cho phép mê tín len lỏi trong tín đồ ḿnh, trong dân tộc ḿnh. Thế mà, đồng bào chúng ta, trong Phật giáo chúng ta, tệ đoan mê tín vẫn c̣n nhiều.

            a) Đồng cốt

            Đồng cốt là hiện tượng mê hoặc khủng khiếp. Những kẻ làm ông đồng, bà cốt đều là người sống trong trạng thái bất b́nh thường. Bản thân họ đă mất hết khả năng tự chủ, họ bị sai sử bởi một ma lực huyền bí nào đó. Khi ma lực ấy dựa vào họ, liền lạm dụng các danh hiệu thánh, những bậc vĩ nhân của thuở xưa dùng mạo xưng để lừa bịp người đời. Những kẻ yếu vía dễ tin nghe xưng danh hiệu Phật, Bồ-tát hay những vị tiên thánh liền khiếp đảm kính tin. Họ không dám phê phán đó là tà hay chánh. Thế rồi, họ một mực qú mọp để được phong chức, hoặc nhận phép lành. Họ bị gạt bằng những danh hăo trong cơi vô h́nh, hoặc bằng những bùa tà phép lạ, những huyền hoặc về quá khứ vị lai. Từ đây họ sống bằng ảo vọng mơ huyền, mất hết lư trí thực tại.

            Chúng ta phải khám phá dẹp tan những lối mê hoặc ấy. Riêng về nhà Phật trong kinh đă dạy rơ, khi chứng đến quả Phật, Bồ-tát, A-la-hán đều có đầy đủ lục thông, tam minh... V́ thế, Bồ-tát hay A-la-hán muốn hóa độ kẻ hữu duyên liền dùng thần thông hiện giáo hóa, như Bồ-tát Quán Thế Âm, trong phẩm Phổ Môn của kinh Pháp Hoa chẳng hạn. Không khi nào các bậc Thánh phải gá vào thân kẻ phàm tục khác làm việc giáo hóa. V́ các ngài đầy đủ thần thông biến hóa vô ngại. Như thế, những ma lực tựa vào đồng cốt đều là sức của quỉ thần. V́ sợ người đời không tin, nên chúng mạo xưng những danh hiệu cho to để gây uy tín. Biết rơ tính cách ma mị của chúng, người Phật tử phải tránh xa, tuyệt đối không được phụ họa với chúng, huống là qui kính. Có thế mới tỏ ra là người Phật tử chân chánh.

            b) Lịch số, sao hạn 

            Thời gian không thật do khái niệm con người đặt ra, huống là trên thời gian lại đặt ra ngày tốt ngày xấu, năm lành năm dữ... Thử đặt ra một thí dụ, chúng ta đốt một ngọn đèn đặt ở bên phải, lấy một cái gương tṛn nhỏ để ở bên trái, cách nhau năm tấc tây, khoảng giữa đặt một quả bóng (trái banh). Chúng ta dùng tay xoay tṛn quả bóng, phía nằm bên ngọn đèn là sáng, phía khuất ngọn đèn là tối, cứ xoay măi, quả bóng đối chiếu tối sáng liên tục. Trục quay ấy có lúc tiến đến trước ngang ngọn đèn làm khuất ánh sáng soi vào mặt gương, ánh sáng mặt gương không phản chiếu vào quả bóng, có lúc lùi lại sau, ánh sáng ngọn đèn soi vào mặt gương, ánh sáng từ mặt gương phản chiếu lại quả bóng, phía khuất ngọn đèn. Có những con kiến ở trên quả bóng, thấy quả bóng mặt sáng gọi là ngày, mặt tối gọi là đêm, những lúc mặt gương không phản chiếu ánh sáng vào quả bóng gọi là ba mươi, những lúc mặt gương phản chiếu ánh sáng vào quả bóng đầy đủ gọi là rằm... Lại đặt mặt sáng của quả bóng ṿng một là ngày tốt, ṿng hai là ngày xấu... Cảm thông được điều đó, chúng ta có tức cười cho loài kiến hay không? Quả thật, chúng bày biện một cách vô lư. Ngọn đèn, quả bóng, mặt gương đều là vô tri, động lực quay nó th́ cứ quay vậy thôi, có ǵ là linh thiêng huyền diệu, mà chúng lại đặt là ngày tốt ngày xấu.

            Cũng thế, nhật cầu, nguyệt cầu và địa cầu đều là vô tri, chúng quay gần nhau theo cái trục cố định, mặt địa cầu hướng về nhật cầu th́ sáng, mặt khuất th́ tối. Cái trục quay ấy có khi địa cầu xê tới che khuất ánh sáng nhật cầu không soi đến nguyệt cầu, có khi sụt lại, ánh sáng nhật cầu soi đầy đủ vào nguyệt cầu, ánh sáng nguyệt cầu phản chiếu lại mặt tối của địa cầu. Thế rồi, con người sống trên địa cầu trông vào sự sáng tối tùy khái niệm đặt thành ngày đêm và giờ phút, theo sự phản chiếu của nguyệt cầu đặt ra rằm, ba mươi, thành tháng, năm. Thời gian là do tưởng tượng của con người đặt ra không thật. Phương chi trên thế gian ấy lại c̣n đặt thêm lành dữ tốt xấu... Quả thật con người quá bày biện, quá rối ren. Đă bày biện ra rồi, tự cột trói ḿnh. Khi đă có ngày tốt ngày xấu, đi đâu phải chọn ngày tốt mới dám đi, làm ǵ phải đợi ngày tốt mới làm. Thậm chí cất nhà xây bếp cũng phải lựa ngày chọn tháng, định đôi gả lứa cũng phải coi tuổi hạp, không hạp. Con người bị bao phủ trong ổ tơ rối nùi ấy, rồi than khóc rồi khổ đau. Chính v́ ngày tháng tuổi tác tạo ra cho con người không biết bao nhiêu đau khổ. Chúng ta hăy nghe người nông dân miền Nam nguyền rủa họ qua bài hát:

            Cọp mà vật mấy ông thầy địa

            Yêu mà nhai mấy chú coi ngày

            Trớ trêu họ khéo đặt bày

Hai đứa ḿnh thương thiệt, ông trời rày bảo thương.

            c) Coi tay, xem tướng

            Coi tay, xem tướng cũng có khi trúng, song ông thầy ấy luôn luôn nói câu tḥng: “Tay hay tướng của ông có hiện điều xấu, có thể đến tháng đó sẽ mắc nạn, nếu ông biết làm lành làm phước có thể qua.” Thế th́ đến tháng đó, nếu người ấy mắc nạn th́ khen ông thầy xem trúng, bằng không mắc nạn th́ ông thầy đổ tại làm lành làm phước! Như thế, mặt nào ông thầy cũng hay hết. Nhưng chúng ta thử kiểm điểm xem, cả hai mặt mắc nạn và không, có lợi ǵ cho người đi coi không? Nếu coi tay tốn một số tiền, đến khi mắc nạn cũng phải tự chịu, ông thầy có cứu giúp cho ḿnh được ǵ đâu. Nếu đến tháng thọ nạn, người coi tay không thọ nạn, cho là làm lành làm phước được qua th́ ḿnh tự cứu ḿnh, ông thầy cũng không làm ǵ cho ḿnh. Như vậy đi coi chi cho uổng tiền.

            Hơn nữa ở đầu quyển sách tướng có bài kệ:

         Hán                                Dịch

Hữu tâm vô tướng           Có tâm tốt không tướng tốt

Tướng tự tâm sanh          Tướng tốt theo tâm tốt sanh     

Hữu tướng vô tâm           Có tướng tốt không tâm tốt 

Tướng tùng tâm diệt.      Tướng tốt theo tâm xấu mất.

            Thế th́, chúng ta cần phát tâm tốt làm việc tốt th́ điều tốt sẽ đến. Chúng ta chứa chấp những tâm niệm xấu xa th́ mọi điều dữ sẽ đến. Điều căn bản là chúng ta làm tốt hay làm xấu, quả tốt xấu sẽ đến với chúng ta. Không phải quan trọng ở bàn tay hay tướng mạo. Thế mà, chúng ta không ứng dụng ngay cội gốc, lại chạy theo ngọn ngành, hao phí tiền bạc một cách vô ích, đó gọi là mê tín.

            d) Xin xăm, bói quẻ:

            Xin xăm bói quẻ là một việc làm cầu may. Rủi may là điều xảy ra không có duyên cớ. Phó thác hành động của ḿnh, cho đến phó thác cả đời ḿnh vào chỗ không có duyên cớ, thật là tệ hại. Thánh, Thần có rảnh đâu mà ngồi sẵn trên bàn để ứng hiện trong xăm quẻ cho quí vị. Nếu người xin xăm bói quẻ có trúng, chẳng qua phước nghiệp, lành dữ của ḿnh mà hiện ra. Như sách nói: “Phước chí tâm linh, họa lai thần ám.” Nghĩa là người gặp lúc phước đến th́ giở quẻ ra đều tốt, khi họa lại th́ rút lá xăm nào cũng xấu. Thế là tốt xấu tại ḿnh, không phải tại xăm quẻ. Chúng ta cứ sửa ḿnh cho tốt th́ mọi việc đều tốt, đi xin xăm bói quẻ làm ǵ? Xin xăm bói quẻ chỉ khiến chúng ta lo sợ thêm. Ca dao Việt Nam có câu:

            Tay cầm tiền quư bo bo

            Đem cho thầy bói mang lo vào ḿnh.

            Làm việc không lợi ích, lại tốn hao tiền bạc, mang lo sợ vào ḷng, không phải mê tín là ǵ?

            e) Cúng sao xem hướng   

            Lệ cúng sao hạn, thật là lạc hậu lỗi thời, sao là những hành tinh cách xa chúng ta bao nhiêu ngàn cây số. Nó là cái ǵ mà chúng ta phải cúng! Tục lệ các chùa quê, vào ngày mùng chín tháng giêng là cúng sao Hội. Người Phật tử nào không gửi tên cúng sao, xem như năm ấy không được bảo đảm an ninh. Song người chủ cúng sao cho quí vị, có bảo đảm an ninh chưa? Có lẽ quí vị ấy quên ghi tên ḿnh trong bài sớ cúng sao chớ ǵ? Thật là vô lư, đạo lư nhân quả đức Phật dạy rành rành trong kinh, mà người ta bất chấp. Thân tổng báo của chúng ta có lẫn lành với dữ, khi nhân lành đến th́ hưởng quả lành, khi nhân dữ đến th́ chịu quả dữ, không thể chạy trốn được. Chỉ có tạo nhân lành nhiều, khi quả dữ đến sẽ nhẹ đi hay giảm bớt. Ví như trước kia chúng ta đă làm khổ một người, v́ lúc đó họ thiếu khả năng trả thù nên dường như thông qua. Đến lúc nào đó, họ đủ điều kiện trả thù, nếu chúng ta không được nhiều người thương che chở th́, quả đó sẽ đúng với nhân kia. Ngược lại, nếu chúng ta được quá nhiều người ủng hộ che chở, quả phải trả sẽ nhẹ hoặc giảm mất cũng có. Bởi thế nên, sợ quả khổ không ǵ hơn, chúng ta phải tạo nhân vui. Không nên cúng sao cúng hạn để cầu được an vui là điều phi lư.

            Xem hướng cất nhà, xây bếp cũng là một lối mê tín. Có lắm người trong nhà chồng vợ bất ḥa, con cái ngỗ nghịch, liền rước thầy đến xem hướng sửa cửa, đổi bếp. Nếu cửa và bếp biết nói, sẽ căi lại với bà chủ nhà rằng: “Căi lẫy nhau tại ông bà không biết nhường nhịn nhau, chúng tôi có tội lỗi ǵ mà phải dời chỗ này đổi chỗ kia?” Những việc làm này đủ nói lên người ta trốn tránh trách nhiệm, không bao giờ dám nh́n thẳng những sái quấy lỗi lầm của ḿnh, t́m cách đổ lỗi cho cái ǵ mà không thể căi lư được với họ. Như thế dù họ có sửa đổi trăm ngàn lần, lộn xộn vẫn lộn xộn, bất an vẫn bất an. V́ cái chủ động trong việc bất an ấy, có chịu sửa đổi đâu. Thế nên, người học đạo phải thấy rơ chỗ vô lư này, không nên lầm lẫn một cách tối dốt như vậy.

            g) Đốt giấy tiền vàng mă

            Tục đốt giấy tiền vàng mă lại là việc vô lư trên vô lư. Không thể người có đôi chút nhận xét, lư luận mà chấp nhận việc ấy được. Chính trên thế gian này, đồng tiền của nước này mang sang nước khác c̣n khó được chấp nhận, huống là nhân gian in, xuống âm phủ xài, có lư lẽ ǵ tin được. Những chiếc lầu bằng giấy, quần áo bằng giấy, làm xong đốt gởi xuống âm phủ cho thân nhân dùng, quả là việc làm phí của vô ích. Thử hỏi thân nhân họ là cái ǵ mà chờ đốt quần áo gởi xuống. Họ đều là đồ vô chủ cô hồn hết sao? Hay họ đă theo nghiệp lành dữ mà sanh nơi khác? Nếu là Phật tử c̣n không ai biết rơ Phật dạy: “Chúng sanh tùy nghiệp thiện ác, theo đó thác sanh nơi cơi lành cơi dữ.” Thân nhân chúng ta chết cũng theo nghiệp thọ sanh, chớ đâu ngồi chờ chúng ta gởi nhà cửa áo quần xuống xài. Như thế, việc làm ấy vừa trái đạo lư, vừa phí tổn tiền bạc vô ích. Người Phật tử không bao giờ chấp nhận việc làm mù quáng ấy.

III.- TAI HẠI MÊ TÍN

            a) Quàng xiên khờ khạo

            Người mê tín theo quỉ thần là tin một cách quàng xiên không có căn cứ, không có lư luận, tin bướng tin càn, mất hết lư trí, trở thành con người khờ khạo. Đó là h́nh ảnh những người tin vào ông đồng bà bóng, xác cô xác cậu tạo nên. Tại sao họ như thế? Bởi v́ họ gởi gấm tâm hồn vào sự huyền bí, vào thế giới vô h́nh, họ mất hết trí thông minh thực tế. Có khi họ gần như người điên nói lảm nhảm một ḿnh, hoặc nói những việc đâu đâu vô căn cứ...

            b) Bị cột trói, ích kỷ, tàn nhẫn

            Người mê tín vào lịch số, ngày giờ, là kẻ bị cột trói một cách thảm hại. Họ không bao giờ dám quyết định, một việc làm thích hợp với thời biểu hiện tại. Họ đợi giờ lịch xem giờ tốt hay xấu, ngày lành hay dữ. Thế rồi họ bị chết khô trong cái rọ ngày giờ. Bởi quen lựa ngày giờ tốt xấu, nên họ trở thành con người ích kỷ dễ sợ. Có những việc đáng làm ngay lúc đó để giúp người, họ lại sợ giờ xấu rồi không chịu làm. Cho đến việc ma chay cha mẹ, họ vẫn lựa ngày tốt, giờ tốt để lợi cho con cháu họ, không nghĩ ǵ đến người chết. Có khi c̣n dùng thuật trấn ếm, nếu cha mẹ họ chết nhằm ngày trùng. Thật là tàn nhẫn, họ không c̣n chút t́nh thương đối với người chết. Mọi việc ma chay, chọn lựa ngày giờ, họ đều một bề v́ họ. Những người ấy lúc nào họ cũng nơm nớp lo sợ, trên đầu trên cổ họ đă cột sẵn trăm ngàn mối dây năm tháng ngày giờ, không cho họ thong thả một phút giây nào.

            c) Khiếp nhược mất tự tín    

            Người tin vào bói xăm, sao hạn... là con người khiếp nhược mất tự tín. Bởi không tự tín nên làm việc ǵ họ cũng phải đi hỏi thần, hỏi thánh. Họ lo âu, sợ hăi năm nào gặp sao La Hầu, Kế Đô. Nhân lành họ không chịu tạo, nhân dữ không chịu tránh, mà một bề sợ sao sợ hạn, quả là những con người mù mịt, tối tăm. Họ sợ những cái không đáng sợ, họ cầu những điều không thể cầu, thật là oái ăm vô lư. Người Phật tử thấy rơ lẽ tà chánh ấy, can đảm quăng đi những tệ tục sai lầm, mới có thể sống với tinh thần đạo giác ngộ.

IV.- CẦU NGUYỆN LÀ CHÁNH TÍN HAY MÊ TÍN ?  

            Trong nhà chùa mỗi khi tụng kinh, mọi Phật sự đều có cầu nguyện. Sự cầu nguyện này là chánh tín hay mê tín? Câu hỏi này không thể trả lời một chiều, tùy chỗ hiểu biết của mỗi người, sự cầu nguyện là mê tín, cũng là chánh tín.

            a) Mê tín

            Nếu chúng ta khẳng định rằng mọi sự cầu nguyện đều được toại nguyện, đó là mê tín. V́ sao? Bởi v́, nếu cầu nguyện mà được, th́ không cần nói đến nhân quả nghiệp báo. Nếu mọi sự kiện xảy ra đều do nhân quả th́ sự cầu nguyện khó mà toại nguyện. Bởi lẽ, thế gian có kẻ tạo nghiệp lành, người tạo nghiệp dữ. Người tạo nghiệp lành khi phước báo đến th́ được như nguyện. Kẻ tạo nghiệp dữ khi nghiệp báo đến, dù có nguyện cầu cũng khó thoát khỏi quả khổ. Thế th́ làm sao dám cố định cầu nguyện là được như ư. Người chấp cố định, là sai lầm không hợp lư, nên thuộc mê tín.

            b) Chánh tín

            Chúng ta chỉ xem cầu nguyện như những lời chúc lành là chánh tín. V́ quí kính cha mẹ, quí kính người thân, chúng ta hằng cầu nguyện cho những vị ấy song có được như nguyện hay không, c̣n tùy thuộc phước duyên dày mỏng của những vị ấy. Mặc dù không được như nguyện, cũng nói lên được ḷng hiếu thảo chân thành của chúng ta. Cũng như v́ hiếu kính những người trưởng thượng, những bạn bè thân hữu, đầu năm mọi người chúc lành cho nhau. Những lời chúc lành này không hẳn thể hiện được, nhưng cũng nói lên được ḷng quí mến nhau.

            Hơn nữa, người tu Phật cầu nguyện với mục đích phá tan tâm niệm vị kỷ của ḿnh. Bất cứ một Phật sự nào, chúng ta đều hồi hướng nguyện cầu cho tất cả chúng sanh đều thành Phật đạo. Mới nghe qua dường như những lời nguyện suông, không thể thực hiện được. Song trên tinh thần phá ngă, cứ lập tới, lập lui măi tâm niệm v́ tất cả chúng sanh, khiến người ta quên bẵng bản ngă riêng tư của ḿnh. Mọi việc làm đều không phải v́ ḿnh, không được nghĩ lợi ích riêng cho ḿnh, mà phải v́ nhân loại, v́ tất cả chúng sanh. Hằng ngày cứ huân tập măi tâm niệm này, đến một khi nào đó, chúng ta không c̣n thấy bản ngă riêng, đồng hóa ḿnh và chúng sanh không khác. Thế là chúng ta phá được chấp ngă và phát tâm đại từ bi, xem mọi khổ vui của người như của chính ḿnh. Hiểu cầu nguyện và ứng dụng cầu nguyện như vậy, quả thật là chánh tín.

V.- CHÁNH TÍN

            a) Tin nhân quả

            Đứng về chiều thời gian, vạn vật hiện có trong vũ trụ này, không một vật nào thoát ngoài nhân quả mà được h́nh thành. Trên tiến tŕnh sanh diệt, quyết hẳn vạn vật từ nhân tiến đến quả, từ quả trở lại nhân. Nhân quả, quả nhân xoay vần không dứt. Đó là hiện tuợng sanh hóa trên cơi nhân gian. Nghiệm xét thấu đáo, chúng ta không thấy có một vật ǵ không nhân mà có, ngẫu nhiên mà thành. Thấy rơ lư nhân quả, chúng ta khéo uyển chuyển cái xấu trở thành tốt, cái dở trở thành hay. Thấy rơ lư nhân quả, chúng ta nắm chắc quyền tự chủ, tạo dựng tương lai tươi đẹp cho chính ḿnh. Lư nhân quả vừa là khoa học vừa là sức mạnh chuyển tiến của con người. T́m hiểu tường tận lư nhân quả là người thông minh. Biết ứng dụng lư nhân quả là con người tiến bộ. Khảo sát theo nhân quả là lư luận chặt chẽ, là hiểu biết thấu đáo. Cho nên nghiệm xét lư nhân quả tường tận rồi, chúng ta tin tưởng là chánh tín.

            b) Tin nhân duyên

            Đứng về mặt không gian, vạn vật trong vũ trụ đều do nhân duyên hợp thành. Không một vật nào do một đơn vị làm nên, mà phải nhiều đơn vị hợp lại mới thành h́nh. Chính thế, lư nhân duyên thích ứng với tinh thần phân tích của khoa học hiện nay. Nếu sự vật do một đơn vị làm nên th́ c̣n ǵ phân tích. Bởi nhiều đơn vị hợp thành một vật thể, người ta mới phân tích chia ra nhiều đơn vị, nhiều loại. Nhỏ nhất như một nguyên tử, người ta phân tích trong đó vẫn có nhiều phần hợp thành, huống là những vật thể to tát. Do đó, chúng ta thấy rơ lư nhân duyên nhà Phật nói, là một lẽ thật, đúng với tinh thần khoa học hiện thời. Hiểu được lư nhân duyên, chúng ta phá tan cái chấp lầm vô nhân và nhất nhân. Hiểu được lư nhân duyên, chúng ta thấy rơ muôn vật trên thế gian có sự liên quan chằng chịt với nhau. Chúng ta không thể tách một cá thể đứng ngoài tập thể, một cá nhân đứng ngoài nhân loại. Đây là lư do khiến dẹp được quan niệm cá nhân ích kỷ. Chúng ta tích cực xây dựng nên hạnh phúc chung cho nhân loại, không riêng của một cá nhân. Tin lư nhân duyên là tin bằng trí tuệ, bằng khoa học, cho nên chánh tín.

VI.- LỢI ÍCH CHÁNH TÍN

            a) Trí tuệ

            Nhận rơ lư nhân quả, lư nhân duyên là tác dụng của trí tuệ. Chính do nhận xét thấu đáo, phân tích rành mạch, khiến trí tuệ càng ngày càng phát triển. Nếu một đối tượng trước mắt, chúng ta cứ thầm nhận là tự nhiên nó có, do tạo hóa làm nên, thế là c̣n ǵ phải nhận xét, phải phân tích. Cứ thế măi, trí tuệ sẽ cùn mằn, không thể nào bén nhạy được. Đó là cái cớ khiến người ta lười suy xét, lâu ngày trở thành tâm trí ù lỳ chai cứng. Người Phật tử phải sống bằng trí tuệ, nên thấy rơ vạn vật sanh thành hoại diệt đều nằm trong hệ thống nhân quả, nhân duyên. Sự vật hiện có mà không do nhân quả, nhân duyên là phi lư luận, phản khoa học. V́ thế người chánh tín là người thực tế, khoa học, nhận xét bằng trí tuệ.

            b) Chịu trách nhiệm

            Thâm đạt lư nhân quả nhân duyên, người ấy sẽ nhận lấy trách nhiệm nên hư, hay dở, tốt xấu đều do ḿnh. Ḿnh là chủ động gây thành nhân tốt, tạo ra duyên lành. Mọi việc đều không được tốt lành là do ḿnh không chịu gây tạo, đây là lỗi tại ḿnh nào phải tại ai. Biết thế, chúng ta không trốn tránh, không kêu than, trái lại can đảm chấp nhận để rồi xoay chuyển. Bởi nhận rơ nhân quả nhân duyên, chúng ta xét một sự kiện xảy ra tốt xấu, phát xuất từ nhân nào, hội đủ nhân duyên ǵ mới xảy ra như thế. Thế th́ dù có việc dở việc hay, chúng ta đều thấy rơ không lầm. Chúng ta nỗ lực cố gắng tạo điều kiện để chuyển đổi nó. Chịu trách nhiệm để chuyển đổi, không phải chịu trách nhiệm để thông qua, đó là tinh thần của người chánh tín.

            c) Tự tín

            Biết rơ dở hay do ḿnh, quả thật ḿnh là chủ nhân của mọi thành bại. Đau khổ an vui, chính ḿnh là người tạo ra. Ngày mai tươi sáng, ngày mai tối tăm, ta là người chủ động. Do thấu hiểu lư nhân quả nhân duyên, con người sẽ có sức tự tín mănh liệt. Nhờ sức tự tín, con người mới cố gắng chuyển đổi, vươn lên trong mọi lănh vực. Một dân tộc có đức tự tín, không bao giờ cam chịu khuất phục, chậm tiến. Có tự tín là có một sức mạnh phi thường. Có tự tín, sự tu hành mới không thối chuyển.

VII.- KẾT LUẬN

            Mê tín và chánh tín là hai con đường tối sáng khác nhau. Nếu đi bên tối là không thấy bên sáng, nếu đi bên sáng th́ không kẹt trong tối. Đạo Phật chủ trương chánh tín, không bao giờ chấp nhận mê tín. Do v́ người truyền đạo không thông lư đạo, nên ghép những tập tục thế gian vào trong đạo, khiến người ta hiểu lầm đạo Phật mê tín. Bản chất của đạo Phật là trí tuệ, là giác ngộ, làm sao dung nạp được mê tín. Nếu người ta thấy trong chùa chiền hiện nay c̣n những hiện tượng mê tín, vội phê b́nh đạo Phật mê tín. Đây là những oan t́nh của đạo Phật. Tất cả những kinh Phật không có nói những việc mê tín ấy, chẳng qua một số người v́ tùy tục, v́ thiếu hiểu Phật pháp vẽ bày ấy thôi. Người học Phật chân chánh phải gan dạ loại bỏ những tập tục sai lầm ấy, can đảm dứt khoát đập tan mọi tệ đoan làm suy giảm giá trị Phật pháp. Có khi dẹp bỏ những điều đó, có thể thiệt tḥi chút ít quyền lợi của ḿnh. Song chúng ta cương quyết v́ chánh pháp, chớ không v́ lợi dưỡng, v́ đưa người ra khỏi đường mê, không v́ sợ mất mát bản đạo.  Được thế, chúng ta mới xứng đáng là người lănh đạo tín đồ, mới không hổ thẹn là hàng Tăng Bảo.  

]

 


[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]

[Trang chu] [Kinh sach]