[Trang chu] [Kinh sach]

BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT

[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]


CHỮ “TỨC” TRONG  PHẬT GIÁO ĐẠI THỪA

 

Người đời và những người mới học đạo đều nh́n sự vật với tính cách cố định. Nói ác hẳn là ác, nói thiện hẳn là thiện, phải hẳn là phải, quấy hẳn là quấy, có hẳn là có, không hẳn là không... họ không hiểu nổi lối nói “cái này tức là cái kia”, trong kinh điển Đại thừa. Họ cho lối nói này ỡm ờ mờ ám không chấp nhận được. Song với tinh thần Đại thừa Phật giáo, nh́n sự vật thấy rơ không có bản chất cố định, không ngoài nhau. V́ thế, trong kinh nói “Sắc tức là Không, Không tức là Sắc”, hay “Phiền năo tức Bồ-đề”, hoặc “Sanh tử tức Niết-bàn”. Chỉ một chữ “Tức” làm sáng tỏ nghĩa không cố định, không ngoài nhau của các Pháp.

SẮC TỨC LÀ KHÔNG, KHÔNG TỨC LÀ SẮC

           Câu này xuất phát từ kinh Bát-nhă. Chữ Sắc ở đây là chỉ cho Sắc uẩn. Dưới con mắt đức Phật, thân này do năm uẩn kết hợp thành. Sắc uẩn là phần vật chất; thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn là phần tinh thần. Chẳng riêng ǵ sắc uẩn tức là không, mà thọ, tưởng, hành, thức cũng như thế. Bởi v́ bản chất mọi uẩn không tự có, do duyên ḥa hợp thành. Đă do nhân duyên ḥa hợp th́ làm sao cố định được. Trước khi nhân duyên ḥa hợp nó không có, sau khi nhân duyên ly tán, nó cũng không, chính khi duyên đang hợp phân tích ra cũng không có thực thể của nó. Ví như nắm tay, trước khi co năm ngón lại, không có nắm tay, sau khi buông năm ngón ra không có nắm tay, đang khi co năm ngón lại nếu phân tích từng ngón cũng không có nắm tay. Thế th́, nắm tay chỉ là cái tên tạm gọi khi co năm ngón lại, chớ không có thực thể cố định của nắm tay. Sắc uẩn không cố định nên nói “sắc tức là không”; không, khi đủ duyên hợp thành sắc nên nói “không tức là sắc”, sắc chẳng ngoài tính chất không cố định, không cố định chẳng ngoài sắc, nên nói “sắc tức là không, không tức là sắc”! Thấu triệt lư các pháp tùy duyên biến chuyển, không đứng yên, không tự thành, là thông suốt câu “sắc tức là không, không tức là sắc”.

PHIỀN NĂO TỨC BỒ-ĐỀ

Câu này bàng bạc trong các kinh Đại thừa. Phiền năo là si mê bực bội đau khổ. Bồ-đề là giác ngộ yên tĩnh an vui. Hai thứ bản chất trái ngược nhau, tại sao lại nói cái này tức cái kia? Bởi phiền năo bản chất không cố định, khi biết chuyển hoặc biết xả liền thành Bồ-đề. Cái động không ngoài cái tịnh, dừng động tức là tịnh. Cái sáng không ngoài cái tối, hết tối tức là sáng. Chúng ta cứ quen chạy t́m cái giác ở ngoài cái mê, t́m an vui ngoài đau khổ. Sự thật không phải thế, hết mê tức là giác, dứt khổ tức là vui. Thiền sư Tư Nghiệp người Trung Hoa, khi chưa xuất gia làm nghề hàng thịt. Một hôm mổ heo, bỗng dưng ông thức tỉnh, bỏ nghề đi xuất gia. Khi xuất gia, ông làm bài kệ:

                        Tạc nhật Dạ-xoa tâm

                        Kim triêu Bồ-tát diện

                        Bồ-tát dữ Dạ-xoa
                        Bất cách nhất điều tuyến.

            Dịch:

                        Hôm qua tâm Dạ-xoa,

                        Ngày nay mặt Bồ Tát

                        Bồ-tát cùng Dạ-xoa

                        Không cách một sợi chỉ.

            Biết dừng phiền năo tức Bồ-đề, không phải nhọc nhằn t́m kiếm đâu xa. Bồ-đề đă sẵn có nơi ḿnh, do phiền năo dấy khởi phủ che nên Bồ-đề bị ẩn khuất. Một khi phiền năo lắng xuống th́ Bồ-đề hiện tiền. Chúng ta ôm đầy một bụng phiền năo chạy t́m Bồ-đề, dù chạy cùng ngàn sông muôn núi t́m vẫn không thấy Bồ-đề. Chỉ khéo ngồi yên lại cho phiền năo lắng xuống th́ Bồ-đề hiện tiền.

Như khi trời đổ mưa to, nước mưa từ hư không mưa xuống là trong sạch, song rơi đến mặt đất lôi cuốn bụi bặm bùn đất chảy xuống ao hồ, thấy toàn nước đục. Có người cần nước trong xài, ra ao hồ nh́n thấy toàn nước đục không biết làm sao. Gặp người thông minh bảo: nước đục tức là nước trong, anh ta ngẩn ngơ không hiểu, ông này bảo: Anh cứ gánh về đổ vào lu, lấy ít phèn quậy nhiều ṿng cho nước cuồn lộn lên, rồi để yên vài tiếng đồng hồ, cặn bụi lắng xuống nước sẽ trong. Anh chàng kia làm đúng như người thông minh dạy, kết quả anh được nước trong.

Bởi v́ nước mưa nguyên là trong, do bụi đất cuốn theo và ḥa tan trong nước nên trở thành đục. Kẻ khờ thấy nước đục khác với nước trong, tưởng chừng như nước trong ngoài nước đục mà có, nên khi cần nước trong thấy nước đục là thất vọng, không biết phải t́m nước trong ở đâu. Người trí biết nước mưa vẫn trong, do bụi đất ḥa lẫn nên đục, chỉ cần lóng bụi đất trở thành nước trong. V́ thế, khi thấy nước đục, họ vẫn quả quyết nói “nước đục tức là nước trong”. Chữ tức ở đây để chỉ nước trong không cố định trong, do duyên hợp thành đục; nước đục không cố định đục, do duyên lóng thành trong. Nước đục không ngoài nước trong mà có; nước trong không thể bỏ nước đục mà t́m. Bồ-đề và phiền năo cũng thế, phiền năo không cố định phiền năo, do duyên hợp thành phiền năo, Bồ-đề không cố định Bồ-đề, do duyên lóng sạch thành Bồ-đề. Bồ-đề không ngoài phiền năo mà có, phiền năo không ngoài Bồ-đề mà sanh. Bỏ phiền năo chạy t́m Bồ-đề như người lưới cá trên không, bẫy chim đáy biển, rốt cuộc chỉ phí công vô ích.

Nước đục lóng thành nước trong, trẻ con thấy mới được nước trong, người lớn biết nước trước nguyên trong, nay lóng trở lại trạng thái cũ, có ǵ là “được”. Nếu trước nước vốn đục, nay lóng mấy cũng không trở thành trong. Cũng vậy, nếu tất cả chúng sanh không có sẵn tánh giác, dù có tu hành đến đâu cũng không thể giác được. Chư Phật, Bồ-tát trước cũng là chúng sanh, các Ngài tu hành đă giác ngộ được, tất cả chúng ta nếu biết tu hành chắc chắn sẽ giác ngộ như các Ngài. V́ thế, chư Phật thấy rơ tất cả chúng sanh đều có tánh giác, v́ vô minh phiền năo che đậy trở thành mê, một khi khéo tu lóng sạch vô minh phiền năo liền trở lại giác. Từ mê sang giác, chúng sanh tưởng là mới được, nên thấy có chứng có đắc. Chư Phật biết rơ chỉ trở lại tánh giác sẵn có, nên nói vô chứng vô đắc. Vô chứng vô đắc không có nghĩa là không ngơ, mà không c̣n mê, hằng sống lại tánh giác của ḿnh. Cái đă sẵn có, trở lại với nó có ǵ thêm bớt mà nói chứng đắc. Tuy không chứng đắc mà hằng giác chẳng mê, làm sao nói không ngơ được?

Biết trong nước đục vốn là nước trong, nước đục khéo lóng sẽ thành nước trong, đó là cái thấy của người thông minh. Đức Phật cũng thế, Ngài thấy tất cả chúng sanh đều sẵn có tánh giác, dù đang mê tánh giác cũng không mất, nên nói “Ta thấy tất cả chúng sanh đă thành Phật”. Lại có khi Ngài nói “Ta là Phật đă thành, các ông là Phật sẽ thành”. Bởi chúng ta đă sẵn tánh giác, một khi thức tỉnh huân tu tánh giác sẽ hiển hiện, việc này không có ǵ là lạ. Câu Phật nói trước có vẻ khó hiểu, đă thành Phật tại sao chúng sanh vẫn mê muội loạn cuồng. Bởi v́ Phật cũng là một chúng sanh như chúng ta, Ngài khéo lóng vô minh phiền năo ch́m lặng trở thành giác ngộ. Nếu không có tánh giác sẵn, dù Ngài tu đến muôn a-tăng-kỳ cũng không ngộ, nói ǵ ba a-tăng-kỳ. Thấy chúng sanh sẵn có tánh giác, nói “đă thành Phật” th́ có lỗi ǵ? Có sẵn tánh giác mà cứ quên, mải tạo nghiệp đi trong sanh tử luân hồi, càng luân hồi càng tạo nghiệp, nghiệp mê chồng chất nên thành mê muội loạn cuồng. Một phen thức tỉnh, dừng bước luân hồi, nghiệp mê băng hoại, mới tin “ta là Phật sẽ thành”.

SANH TỬ TỨC NIẾT-BÀN

Chúng sanh mải trôi lăn, lặn hụp trong biển luân hồi sanh tử, dừng sanh tử được an lành là Niết-bàn. Sanh tử là khổ đau. Niết-bàn là an lạc. Sự khổ đau an lạc dường như hai mà không phải hai. Như người đi trên vai gánh một gánh nặng đi xa, họ cảm nghe nhọc nhằn vô kể, để gánh nặng xuống nghỉ, họ cảm thấy nhẹ bổng an vui. Cái nhọc nhằn và an vui người này cảm giác được, dường như hai mà không phải hai. Chẳng qua, khi gánh nặng c̣n đè trĩu trên vai là đau khổ, để gánh nặng xuống th́ an vui. Do hết khổ gọi là vui, chớ không có cái vui từ đâu đem đến. Niết-bàn và sanh tử cũng thế, do hết sanh tử gọi là Niết-bàn, không có Niết-bàn ngoài sanh tử.

Chúng sanh tạo nghiệp, lại do nghiệp dẫn chúng sanh loanh quanh lẩn quẩn, không có ngày cùng. Chúng ta v́ sự sống tạo nghiệp, nghiệp lại dẫn chúng ta qua lại trong tam giới, lên xuống trong sáu đường, không biết bao giờ ra khỏi. Nếu khéo tu dừng nghiệp th́ bánh xe luân hồi sẽ theo đó mà dừng. Theo nghiệp trôi lăn là sanh tử, dừng nghiệp lặng yên là Niết-bàn. V́ thế, cần được Niết-bàn, chúng ta phải dừng nghiệp. Có nhiều người tưởng Niết-bàn là một cảnh giới xa xôi đẹp đẽ như cảnh Cực Lạc chẳng hạn. Họ cố cầu xin Phật, Bồ-tát cho họ được Niết-bàn hoặc t́m minh sư đạt đạo nhờ truyền pháp hay điểm đạo cho họ được Niết-bàn. Họ không ngờ sạch nghiệp tức là Niết-bàn. Nghiệp lại do ḿnh tạo, chỉ cần t́m ra động cơ chủ yếu tạo nghiệp, bắt nó dừng lại th́ Niết-bàn hiện tiền. Tâm thức lăng xăng của chúng ta là chủ động tạo nghiệp, khéo tu dừng lặng nó th́ Niết-bàn xuất hiện. Dừng ngắn th́ được Niết-bàn ngắn, dừng lâu th́ được Niết-bàn lâu, dừng hẳn th́ được Niết-bàn viên măn.

Sở dĩ có Niết-bàn là do đối với sanh tử mà lập, một khi sanh tử dứt sạch th́ Niết-bàn cũng không c̣n chỗ đứng. Kinh có câu “Niết-bàn sanh tử đồng như hoa đốm trong không”. Đă là hai danh từ đối đăi mà lập th́ đều không thật. Không có sanh tử th́ không có Niết-bàn; không có Niết-bàn th́ nói ǵ là sanh tử. Như không có khổ th́ không có vui, không có vui th́ làm sao biết khổ. Niết-bàn và sanh tử không riêng lập và không ngoài nhau, nên nói “Sanh tử tức Niết-bàn”.

           Sẽ có người bảo, sanh tử là do nghiệp dẫn là pháp sanh diệt, hư dối là phải, Niết-bàn là dứt sạch nghiệp là chân thật, tại sao lại nói hư dối? Quả thật Niết-bàn không hư dối, song danh từ Niết-bàn là hư dối. Thực thể Niết-bàn không có h́nh dáng để diễn tả, không có ngôn ngữ để nói bàn, nó vượt ngoài pháp đối đăi thế gian. Ngôn ngữ chúng ta sử dụng để diễn đạt tâm tư đều nằm trong đối đăi không thật. Dù là ngôn ngữ Niết-bàn, cũng chỉ là lớp mây phủ núi, chớ không phải là núi, đứng về núi mà nh́n th́ nó là cái hư dối bên ngoài không đáng kể. Thế nên nói “như hoa đốm trong hư không” mà thực thể chẳng phải không.

THIỆN TỨC ÁC, ÁC TỨC THIỆN, PHẢI TỨC QUẤY, QUẤY TỨC PHẢI

Ta có thể nói rộng ra “thiện tức ác, ác tức thiện” hay “phải tức quấy, quấy tức phải”... chẳng hạn. Bởi v́, dù là việc thiện mà chúng ta cố chấp liền trở thành ác. Ví như người theo tôn giáo A tự thấy là hay là lợi ích, liền khuyên bà con thân quyến cùng theo với ḿnh. Nếu những người thân không bằng ḷng theo, tức th́ sanh tâm giận ghét. Thế không phải chấp thiện thành ác là ǵ? Tuy là việc ác, chúng ta ư thức được liền bỏ là trở thành thiện. Như anh A nghe theo bạn bè làm việc trộm cắp, gặp người tốt nhắc nhở giải thích cho A biết việc làm ấy là xấu xa, tội lỗi, A liền bỏ nghề trộm cắp. Quả thật ác biết bỏ liền trở thành thiện.

           Phải quấy cũng không có tiêu chuẩn cố định, nếu ta chấp vào cái phải của ḿnh liền trở thành quấy. Bao nhiêu việc căi vă chửi lộn đánh lộn đâu không phải do chấp phải mà ra. Có người nào sau khi đánh lộn, bị người hỏi, dám nhận là tôi quấy đâu. Mọi người đều thấy ḿnh phải nên có ẩu đả. Ngược lại, người ư thức việc làm của ḿnh là quấy tự bỏ, liền trở thành phải. Những người lầm đường lạc lối, khi họ thức tỉnh xoay trở lại đường lành liền trở thành người tốt. Mọi sự việc trong đối đăi đều như thế cả, không có một sự việc ǵ là cố định. Cái phải của A không phải là cái phải của B. Cái phải của nhóm C không phải là cái phải của nhóm D. Cái phải của xứ này không phải là cái phải của xứ khác. Cái phải của thời gian trước không phải là cái phải của thời gian sau. Thế th́, lấy đâu làm tiêu chuẩn mà chấp phải quấy! Chấp chặt phải quấy là ngu xuẩn là khổ đau. Biết buông xả linh động tùy thời là người khôn ngoan an ổn.

CHỮ TỨC ĐỐI TRONG VẠN VẬT

Ta đi xa hơn ra ngoại giới, với mọi sự vật dùng chữ TỨC vẫn đúng lẽ thật. Như nói “thể lỏng tức là thể hơi” hoặc nói “thể hơi tức là thể lỏng”. Nước là thể lỏng đun nóng bốc lên thành hơi, hơi nước lên cao gặp khí lạnh đọng lại rơi xuống thành nước thể lỏng. Cũng có thể nói “thể lỏng tức là thể cứng, thể cứng tức là thể lỏng”. Nước là thể lỏng khi để vào tủ lạnh cô đọng thành nước đá thể cứng; nước đá đem để ngoài nắng tan thành nước thể lỏng. Ngoài nước ra, các loại ch́, đồng, sắt..., từ thể cứng để vào ḷ nấu sức nóng lên đến 1.0000C trở lên sẽ chảy thành thể lỏng, thể lỏng đó đem ra để nguội trở thành cứng... V́ thế, thấu hiểu chữ TỨC là thấy đúng lẽ thật, cũng là thấy tột cùng lư tùy duyên chuyển biến của các pháp. Môn hóa học hiện tại chứng minh sự vật không tự tồn tại, không có cá thể độc lập, không giữ nguyên một vị trí. Một vật thể này bị thay đổi chất liệu liền biến thành vật thể khác. Thế nên, con người có thể dùng các thứ nguyên liệu khoa học đă t́m được, biến chế thành những sản phẩm hữu ích cung ứng cho nhân loại cần dùng. Mọi vật thể kết hợp không phải đơn thuần, mà sự cấu tạo rất phức tạp. Biết được sự cấu tạo của vật thể, người ta sẽ tạo điều kiện biến nó thành những vật theo nhu cầu của ḿnh. Sự biến hóa đổi thay trong mỗi vật thể đă là bằng chứng hùng hồn về lư không cố định của sự vật. Thấy được lư không cố định là thấy tột bản tánh của sự vật. Những nguyên tố hợp thành sự vật tuy nhiều song chẳng lắm, do sự kết hợp tăng giảm biến thành muôn vàn sự vật có đủ thiên h́nh vạn trạng trên thế gian này. Quả là trong vật này có những nguyên tố của vật khác, trong vật khác có những nguyên tố của vật này. Thế nên, nói “A tức B, B tức A” là đúng lẽ thật đâu có sai ngoa.

HIỆU DỤNG CHỮ TỨC TRONG SỰ TU HÀNH

Hiểu rơ chữ TỨC có công hiệu rất lớn trong việc tu hành. A tức là B, th́ A không thật A, B tức là A th́ B không thật B. Muôn vật tùy duyên thay h́nh đổi dạng, có cái ǵ cố định mà chấp. Bệnh lớn của con người là cố chấp, chấp càng nặng th́ khổ càng nhiều. Mỗi người chấp theo cái thấy, cái nghe, cái sở học, cái suy nghĩ, cái tưởng tượng của ḿnh hoặc của nhóm người thân ḿnh, nếu người khác thấy đồng cái thấy của ḿnh, nhóm ḿnh th́ thân; thấy khác cái thấy cái chấp của ḿnh, nhóm ḿnh th́ thù. Đây là gốc đấu tranh gây ra đau khổ cho nhân loại. Sự vật là một ḍng biến thiên, mà ḿnh nh́n theo cái chấp cố định th́ làm sao thấy được lẽ thật, làm sao đem lại sự an b́nh. Con người khủng khiếp hăi hùng khi nghe tin ḿnh sắp chết. Sợ chết v́ chấp thân là chắc thật lâu dài, bỗng dưng nó sắp tan hoại nên hoảng sợ. Sự nghiệp tài sản cũng chấp cố định bền lâu, xảy ra tai nạn hỏa hoạn, binh đao, trộm cướp... khiến phải tan hoại, người ta sẽ đau khổ vô hạn. T́nh cảm bạn bè, thân hữu..., chấp măi măi không đổi thay; một khi gặp cảnh đổi thay, người ta sẽ thảm sầu vô kể.

          Người nắm vững nguyên tắc “các pháp không cố định”, mọi cố chấp trên từ từ tan ră, khổ đau, sầu thảm, hoảng sợ, hăi hùng dần dần tan biến theo mây khói. Thân sắp chết, sự nghiệp tan vỡ, bạn bè chia ĺa... cũng là lẽ đương nhiên trong ḍng biến thiên của vạn vật. Chúng ta chưa can đảm cười trước cảnh ấy, song cũng can đảm nh́n chúng trôi qua với tâm niệm an b́nh. Bởi người tu hành là huân tập phát minh những lẽ thật ấy. Sở dĩ hiện nay có lắm người tu khi gặp hoàn cảnh tang thương biến cố liền hoảng sợ bất an, do họ không phát minh những lẽ thật này. Họ nghĩ rằng tụng kinh nhiều, niệm Phật lắm, cúng kính hậu là đầy đủ công phu tu hành. Tu bằng cách nhắm ra ngoài, chạy theo h́nh thức làm sao đạt được lẽ thật, mà làm suy giảm khổ đau. Họ càng tu th́ chấp càng nặng, chấp nặng th́ đau khổ càng nhiều. Thế là, tu chỉ tăng khổ, chớ không hết khổ.

A tức là B, th́ A không thật là A, B tức là A, th́ B không thật là B, hai bên đều không cố định. Đă không cố định th́ làm sao dám bảo là thật. Hai bên đều không thật th́ không thể thành hai. Bởi không thể thành hai là tiến thẳng vào “Pháp môn bất nhị”. Thấy vạn vật đối đăi không thật, c̣n ǵ để lư giải luận bàn. Vừa phát ra ngôn ngữ là nằm trong đối đăi, đối đăi thuộc hai bên. Muốn chỉ chỗ cứu kính của “Pháp môn bất nhị”, ngài Duy-ma-cật chỉ c̣n cách lên ṭa ngồi lặng thinh. Chính thế mà Bồ-tát Văn-thù tán thán không tiếc lời.

THẤY THÂN GIẢ DỐI CÓ PHẢI QUAN NIỆM CHÁN ĐỜI CHĂNG?

Đa số người nghe trong kinh Phật nói “xem thân như huyễn hóa” cho là tâm trạng bi quan, yếm thế. Trái lại, nhà Phật thấy thân như huyễn hóa là sức mạnh để làm lợi ích chúng sanh. Như nói “Bồ-tát lấy thân như huyễn độ chúng hữu t́nh như huyễn”, bởi Bồ-tát thấy thân h́nh không thật nên sẵn sàng lăn xả vào làm việc lợi ích chúng sanh, dù gặp khó khăn nguy hiểm cũng không ngán sợ, v́ thân như huyễn có mất cũng không ǵ quan trọng. Thấy chúng hữu t́nh như huyễn nên độ chúng sanh mà không chấp nhân ngă. Thấy thân như huyễn, khiến người ta mạnh mẽ lên, không c̣n hăi sợ, trước vạn vật biến thiên mà tâm hồn ḿnh vẫn an nhiên tự tại... Ta hăy nghe bài kệ của Thiền sư Vạn Hạnh:

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.

Nhậm vận thạnh suy vô bố úy,

Thạnh suy như lộ thảo đầu phô.

Dịch:

Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cỏ xuân tươi, thu đượm hồng

Mặc cuộc thạnh suy không sợ hăi

Thạnh suy như cỏ hạt sương đông.

Biết bao lời Phật, ư Tổ trong các kinh, luận thấy thân như huyễn đạt tinh thần vô úy như thế.

THẤY THÂN HUYỄN HÓA LÀ ĐÚNG LẼ THẬT

Phật giáo nói thân này do tứ đại ḥa hợp thành nên không chắc thật bền lâu. Tứ đại là đất, nước, gió, lửa, bốn thứ này bủa khắp trời đất vạn vật nên nói là đại. Chất cứng trong thân là đất, chất ướt là nước, chất động là gió, chất ấm là lửa. Bốn chất này thiếu một th́ thân phải hoại. Song bốn chất này luôn luôn thù địch chống đối nhau. Lửa không ưa nước, đất không ưa gió, ngược lại cũng thế. Khi lửa thạnh hơn nước sanh nóng bức đau đầu; gió thạnh hơn đất sanh nhọc nhằn đau nhức. Chúng hằng chống đối nhau, nên lúc nào thân này cũng sẵn sàng bệnh hoạn hay chực tan ră. Ta khéo điều ḥa th́ thân c̣n an ổn, không khéo chúng sẽ băng hoại. Sự băng hoại của thân thật bất định, một mạch máu bể, một cái sẩy chân, một luồng gió độc, một viên đạn xuyên qua... là mất mạng. Sự ḥa hợp của tứ đại thật là khó khăn không bảo đảm lâu dài, v́ chúng mang bản chất thù địch nhau. Như bốn người thù địch nhau chung làm một công tác, nếu thiếu một trong bốn người th́ công tác phải đổ vỡ. Thử hỏi, chúng ta dám bảo đảm bốn người này ḥa hợp lâu dài chăng? Và công tác họ đang làm có thể thành tựu viên măn không? Thật không ai dám hứa điều đó hết, v́ thấy rơ tính chất thù địch của chúng. Sự ḥa hợp của bốn kẻ thù, dù ai ngu tối mấy cũng biết rất tạm bợ mỏng manh. Thế th́, nói thân tạm bợ hư dối là nói đúng sự thật không c̣n nghi ngờ ǵ nữa.

Chẳng những sự ḥa hợp của chúng rất tạm bợ mỏng manh, chính khi đang ḥa hợp, chúng cần phải vay mượn tứ đại bên ngoài hỗ trợ mới được tồn tại. Sự vay mượn tứ đại bên ngoài bị thiếu hay ngưng trệ, nguy cơ tan vỡ xuất hiện ngay. Lỗ mũi chúng ta đang hít thở là mượn gió, miệng ta uống nước, ăn cơm là mượn nước, mượn đất và lửa. Sự vay mượn ấy được thuận chiều ổn thỏa th́ thân an vui khỏe mạnh. Sự vay mượn bị trở ngại khó khăn là thân đau đớn nguy kịch. Quả thật cuộc sống an vui hạnh phúc là do sự vay mượn và tống trả một cách an ổn điều ḥa, ngược lại là sự sống bất hạnh. Sự sống c̣n là nhờ vay mượn, làm sao dám nói thân này là thật, là lâu dài?

Thế mà người đời bị si mê nhiều kiếp, cứ nghĩ thân này là thật, là lâu bền, là của ta. Thậm chí đất nước gió lửa bên ngoài là của thiên nhiên trời đất, mà một khi mượn vào xài, liền chấp của ḿnh. Như lỗ mũi vừa mượn không khí đem vào chưa đến một phút, thở trả ra liền nói hơi của tôi. Nước, đất cũng chấp như vậy. Một vật ǵ vừa qua thân này đều nói là của tôi, không ngờ cái tôi này cũng vay mượn nốt. Bao nhiêu đó đủ thấy, cái si mê chấp ngă của chúng ta thật quá nặng nề. V́ chấp ngă nên mù quáng, không thấy lẽ thật. Bởi vậy nên nghe nói thân này như huyễn hóa liền hằn học chống đối ngay.

           Nếu thân này là thật, phải có bảo đảm tồn tại trong thời gian bao lâu. Quả thật không dám bảo đảm, làm sao nói thân này là thật được. Có người ra chợ mua hàng, thấy món hàng vừa ư muốn mua, song c̣n ngại đồ giả. Chàng ta hỏi cô bán hàng: Đây là đồ thật hay đồ giả? Cô bán hàng đáp: Đồ thật! Tôi bảo đảm ông đồ tốt lâu bền... có thật mới dám bảo đảm, nếu giả đâu dám bảo đảm, trừ kẻ bướng. Thân này đă không, có ai dám bảo đảm, nói giả dối là hợp lư c̣n ǵ nghi ngờ. Song nói giả dối hay huyễn hóa để chỉ sự có mặt của nó rất tạm bợ không lâu bền, không chủ tể, chớ chẳng phải không ngơ, không có ǵ hết. Có người bảo đạo Phật nói thân như huyễn hóa, tại sao các người tu theo Phật vẫn ăn, vẫn mặc v.v... và v.v...? Biết thân huyễn hóa là thấy nó có một cách tạm bợ ngắn ngủi, dễ tan hoại, chẳng phải là không, sự ăn mặc đối với nó là lẽ thường có ǵ phải nghi. Thấy được lẽ thật tạm bợ của thân này, chúng ta phá được cái chấp ngă sai lầm vô lư, dừng tay, không tạo nghiệp ác, đem lại sự cảm thông tương trợ lẫn nhau, để được chút an vui trong cuộc đời tạm bợ.

THẤY THÂN HUYỄN HÓA ĐỂ TRỪ TAM ĐỘC

Tham, sân, si là ba con rắn độc sát hại người không thể kể xiết. Chẳng những chúng giết hại người trong đời này, mà c̣n gây họa ương không biết bao nhiêu kiếp nữa. C̣n tham sân si là con người c̣n đau khổ. Thấy thân như huyễn hóa là lối nh́n đúng như thật bằng con mắt trí tuệ. Con mắt trí tuệ mở sáng th́ si mê tan biến là phá được si. Si đă tan th́ tham theo đó mà dừng. Tham hết th́ sân không c̣n lư do trỗi dậy. Bởi si mê nên thân duyên hợp hư dối ta tưởng lầm là chân thật quí báu. Do tưởng thân thật quí, nên sanh ḷng tham muốn thu góp mọi nhu cầu mà thân yêu thích. Sự thu góp bị ngăn trở liền nổi sân lên. Thế là, từ si khởi tham, từ tham sanh sân, tạo nghiệp gây khổ cho ḿnh cho người. Hành giả biết rơ cội gốc của tam độc là si mê dùng cây xẻng trí tuệ bứng tung gốc si mê lên. Gốc si mê đă trôùc th́ thân tham và cành lá sân cũng đổ ngă theo, cây tam độc ngang đây sẽ khô khan ră mục. Quả là chúng ta đă tháo được cây chốt cửa giải thoát. Bài kinh Bát-nhă bổ khuyết cho tất cả thời khóa tu tập chủ yếu là ở chỗ này. Chúng ta tu theo đạo Phật là đi trên con đường giác ngộ, nếu không thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ th́ mục đích giác ngộ ắt phải xa vời. Kinh Pháp Cú Phật dạy “các ông tự thắp đuốc lên mà đi, thắp lên với chánh pháp”. Trong mười hai nhân duyên, bắt đầu từ vô minh. Từ vô minh tiếp nối đến sanh tử là lưu chuyển. Vô minh diệt cho đến sanh tử diệt là hoàn diệt. Do vô minh dẫn măi đi trong luân hồi sanh tử. Vô minh là tên khác của si mê. Chúng ta đă thấy đích thực bộ mặt ác độc của hắn rồi, không ra tay tiêu diệt hắn, biết bao giờ chúng ta mới hết khổ. V́ thế, hành giả thẳng tay trừng trị đích đáng kẻ ác độc này, với cây kiếm trí tuệ cầm sẵn trong tay. Bất cứ nơi chốn nào, thời gian nào, hành giả hằng lia kiếm trí tuệ, bọn quân si mê ngă rạp không c̣n một đứa dám xáp lại gần là thắng trận, trên đường tiến đến thành giác ngộ. Ngược lại, là kẻ bại trận không thể cứu.

THẤY THÂN HUYỄN HÓA ĐẠT ĐẾN KHÔNG HUYỄN HÓA

Lư do không bi quan của đạo Phật là thấy thân huyễn hóa để đạt đến không huyễn hóa. Không phải như những kẻ phàm phu tục tử, có lúc nhàn hạ ngồi yên suy gẫm cuộc đời, thấy nó ngắn ngủi tạm bợ đâm ra chán chường kinh hoảng. Thấy cuộc sống đi vào ngơ cụt, họ ê chề chán ngán có khi liều ḿnh tự tử. Hành giả dùng trí tuệ quán sát thấy thân đúng lẽ thật, nó hư dối tạm bợ không có ǵ đáng quí. Song lại có cái chân thật tàng ẩn trong ấy, chỉ có người đạt đạo mới thấy được. Ta hăy nghe ba câu trong bài ca Chứng Đạo của Thiền sư Huyền Giác:

Huyễn hóa không thân tức pháp thân

Pháp thân giác liễu vô nhất vật

Bản nguyên tự tánh Thiên Chân Phật.

Ngay trong thân không thật huyễn hóa này tức là Pháp thân. Giác ngộ pháp thân thấy không có một h́nh tướng sự vật ǵ. Pháp thân này cũng gọi là Bản nguyên, Tự tánh, Thiên Chân Phật. Pháp thân là tên khác của tâm thể lặng lẽ, tràn đầy trong sáng của mọi chúng ta. Nó không có h́nh tướng nên không bị vô thường, không dấy động nên không sanh diệt, hằng trong sáng nên chẳng phải không ngơ. V́ chúng ta quen nh́n cái ǵ cũng theo h́nh tướng, theo dấy động mới cho là có, ngược lại bảo là không? Để sáng tỏ ư này, chúng ta nghe lời đối đáp của Thiền sư Hoài Nhượng với Lục Tổ. Sư đến Tào Khê, Lục Tổ hỏi: Ở đâu đến? Sư thưa: Ở Tung Sơn đến. Tổ hỏi: Vật ǵ đến? Sư thưa: Nói in tuồng một vật tức không trúng. Tổ hỏi: Lại có tu chứng chăng? Sư thưa: Tu chứng tức chẳng không, nhiễm ô tức chẳng được. Tổ bảo: Chính cái không nhiễm ô này là chỗ hộ niệm của chư Phật, ngươi đă như thế, ta cũng như thế.

Tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng có sẵn trong mọi người, nên nói là bản nguyên, là tự tánh. Tại v́ vọng tưởng dấy khởi liên miên, khiến chúng ta chỉ thấy vọng tưởng, không thấy được tâm thể này. Bởi chỉ thấy vọng tưởng nên chấp nhận vọng tưởng làm tâm ḿnh, hài ḷng ngang đây, cam chịu nó lôi chạy trong lục đạo luân hồi. Mỗi vọng tưởng dấy lên, hay mỗi niệm khởi, đă cắt xén tâm thể tràn đầy thành những mảnh vụn. Những mảnh vụn này tung tóe lên che khuất tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng. Như mặt biển lặng lẽ tràn đầy trong sáng, một cơn gió mạnh thổi qua, những lượn sóng trỗi dậy nối tiếp, đă cắt xén mặt biển phẳng ĺ thành vô lượng mảnh vụn, đang săn đuổi nhau. Khi này, người ta nh́n không c̣n thấy mặt biển phẳng, chỉ thấy bao nhiêu lượn sóng gầm thét rượt bắt nhau.

Sóng đă dậy làm sao dừng? Chỉ khi nào gió lặng. Sóng tâm muốn dừng chỉ khi nào gió nghiệp lặng. Vọng tưởng dấy lên đều có đối tượng. Ngă và pháp là đối tượng chủ yếu của vọng tưởng. Nghĩ cái ǵ? Nghĩ về ta, về người hay vạn vật. Thấy thân duyên hợp như huyễn, cảnh duyên hợp như huyễn là vô hiệu hóa gió nghiệp. Đă biết thân cảnh hư dối c̣n ǵ phải bận ḷng, đối tượng đă phá vỡ th́ vọng niệm không c̣n chỗ tựa để phát sanh. Thế là gió nghiệp lặng, sóng vọng niệm từ từ im bặt, chỉ c̣n mặt biển tâm lặng lẽ tràn đầy trong sáng như xưa. Công tác quan trọng của người tu là trí tuệ Bát-nhă, nhờ nó chúng ta mới phá được mê lầm muôn kiếp. Nó góp công lớn lao trong việc đem lại an b́nh cho tâm thể.

Vọng niệm dấy khởi là loạn động, sanh diệt, là cắt xén vụn vặt, là che phủ ngàu đục. Có vọng niệm th́ không thể thấy được tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng. V́ thế, mọi người đều có tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng mà ít người nhận ra. Đă không nhận ra, dù tu hành cũng không tin ḿnh thành Phật. Đây là nguyên nhân lui sụt của đa số người tu. Nghe trong kinh nói có Chân tâm, Phật tánh, Tri kiến Phật..., thực tế không bao giờ họ nhận thấy mặt mày của nó. Tu lâu rồi, họ xoay ra lo cất chùa to, tổ chức lễ lớn... lấy đó làm Phật sự, việc giác ngộ giải thoát xem như vô phần. Muốn thấy chân tâm, Phật tánh, trước tiên chúng ta phải dừng vọng niệm. Vọng niệm đă dừng th́ tâm thể lặng lẽ tràn đầy trong sáng hiện tiền, chẳng cần cầu mong trông đợi cũng tự thấy. Song vọng niệm không phải dễ dừng, nó đă thành một ḍng sanh diệt liên tục trong chúng ta. Để chận đứng nó, trước tiên chúng ta phải đập nát đối tượng chủ yếu làm cơ sở phát sanh của nó là ngă và pháp. Dùng trí Bát-nhă thấy ngă pháp như huyễn hóa, là chiếc búa thần đập tan đối tượng chủ yếu của vọng niệm. Đối tượng đă đổ vỡ th́ vọng niệm c̣n nương đâu phát sanh. Thế là, nhờ trí tuệ Bát-nhă thấy ngă pháp như huyễn hóa, hành giả đạt đến tâm thể chân thật không huyễn hóa.

BI TRÍ TR̉N ĐỦ

           Trí tuệ khai phát, hành giả tháo gỡ lần những mối rối ḅng bong trong tâm tư. Đến khi mọi việc suôn sẻ, trí giác tṛn sáng là xong phần tự giác. Phần giác tha do tâm từ bi thúc đẩy, đến lúc viên măn th́ công phu hành giả mới được tṛn đủ. Khi thực hiện giác tha, hành giả phải chuẩn bị thế nào? Tâm từ bi là ban vui cứu khổ. Chúng sanh có nhiều loại khổ, không ngoài hai thứ, khổ về vật chất, khổ về tinh thần. Khổ về vật chất tuy cấp bách song không trầm kha miên viễn bằng khổ về tinh thần. Thể hiện ḷng từ bi bằng hành động bố thí, trong ba thứ bố thí, tài thí là đứng đầu. V́ thích ứng với nhu cầu cấp bách vật chất, nên phải thực hiện tài thí trước. Người đang đói rét mà mời đi nghe pháp là việc làm của kẻ dại khờ. Trước nhất, chúng ta phải cho họ có cơm ăn, cả áo mặc, sau mới hướng dẫn về đạo lư thâm sâu. Do đó, pháp thí Phật đặt sau tài thí. Phật tử muốn cứu người thoát khỏi cái khổ trầm kha, miên viễn của tinh thần, trước phải lo giúp đỡ người giảm bớt cái khổ về vật chất. V́ thế, tuy thấy thân như huyễn hóa, các pháp như huyễn hóa, chúng ta vẫn phải cần cù lao động làm ra nhiều tài sản của cải để giúp những người cần giúp, nhiên hậu mới đem chánh pháp hướng dẫn giáo hóa họ. Thấy thân như huyễn, các pháp như huyễn, để rồi nh́n cảnh ngắm trăng nhịp đùi ngâm thơ, là người không có ḷng từ bi, không hiểu thấu ư nghĩa Phật dạy. Hoặc gặp ai cũng cố gắng khai mở trí Bát-nhă cho họ, mà không đếm xỉa ǵ bản thân người đang no hay đói, là kẻ thuyết pháp chẳng hợp thời cơ. V́ muốn cứu cái khổ trầm kha miên viễn tinh thần của mọi người, chúng ta phải cố gắng nỗ lực cứu cái khổ cấp bách vật chất cho họ trước đă. Được vậy, sự tự giác giác tha, chúng ta mới tṛn đủ. Tự giác là trí, giác tha là bi, đạo Phật chủ yếu đưa người đến giác ngộ, nên bi trí đều cùng một chữ giác.

KẺ SI MÊ NGƯỜI TRÍ TUỆ CAN ĐẢM HY SINH

Kẻ si mê can đảm hy sinh không ngoài ba yếu tố chính là tham lam, sân hận, si mê. V́ tham danh, tham lợi, tham sắc..., họ can đảm hy sinh, v́ đam mê không măn ư, họ can đảm hy sinh, v́ nóng giận hận thù, họ can đảm hy sinh. Sự can đảm hy sinh của họ do động lực bên ngoài thúc đẩy. Họ can đảm trong cái sợ sệt, hy sinh trong cái liều lĩnh. Người đời muốn lợi dụng ḷng can đảm, hy sinh của họ, bèn cám dỗ bằng danh lợi, kích động bằng hận thù, xây dựng bằng lư tưởng. Bởi không tự chủ được, họ phải làm theo cái ǵ mà người khác muốn họ làm. Cuộc sống của họ xem ra rất ngang dọc anh hùng, song là cái anh hùng của người khác tạo nên. Họ hy sinh trong cái tự cao, ngă mạn, hoặc trong nhắm mắt đánh liều.

           Người trí tuệ can đảm hy sinh do nhận chân lẽ thật, v́ ḷng từ bi cứu khổ chúng sanh. Khi thấy rơ thân này duyên hợp như huyễn, chúng sanh không biết chấp là thật, gặp cảnh khổ liền kinh hoàng, hoảng sợ. Người trí tuệ thấy thế dám hy sinh thân ḿnh để đem sự an vui cho người. Đôi mắt trí tuệ với ḷng từ bi, người trí tuệ can đảm hy sinh giúp người, cứu vật, không do động lực nào khác thúc đẩy. Nói can đảm hy sinh, mà thật không có ǵ đáng hy sinh. Bởi thấy thân như huyễn hóa, sự c̣n mất có đáng ǵ, gọi là hy sinh. Cho nên, hy sinh cho mọi người, vẫn không thấy có ḿnh hy sinh, đây là tâm hồn Bồ-tát. Bồ-tát thấy chúng sanh khổ coi như ḿnh khổ, xả thân ḿnh giải khổ cho người là việc làm dễ dàng thường nhật của Bồ-tát.

KẾT THÚC

Qua những lư do trên, chúng ta được quyền khẳng định rằng thấy thân giả dối là đúng lẽ thật, là diệt trừ tam độc, là giải thoát sanh tử, là tích cực v́ người, là can đảm hy sinh, không phải là quan niệm bi quan yếm thế. Mọi khổ đau, mọi hèn nhát, phát nguồn từ bản ngă khổng lồ. Phá tan được bản ngă này, có sự lợi ích nào chẳng dám làm, sự đau khổ nào mà chẳng dám cứu, sự hiểm nguy nào mà chẳng xông vào. Bồ-tát Địa Tạng đâu không nói “ta không vào địa ngục, ai vào địa ngục”. Có phải chăng là một sức mạnh vô biên, khi thấy thân không thật. Chỉ trừ bọn phàm phu, sau khi trà dư tửu hậu, ngồi suy gẫm cuộc đời, thấy kiếp sống mỏng manh cuộc đời tạm bợ, nảy sanh ra quan niệm chán đời. Với cái nh́n của bọn người này, không dính dáng ǵ với trí tuệ Bát-nhă. Trí tuệ Bát-nhă không rời từ bi. Bi trí viên măn mới tṛn Phật quả. 

]

 


[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]

[Trang chu] [Kinh sach]