[Trang chu] [Kinh sach]

BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT

[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]


SỐ MẠNG NGHIỆP BÁO ĐỒNG HAY KHÁC?

 

Sự có mặt con người trong thế gian này, trọn một đời từng trải qua những cuộc thành bại, thạnh suy, nhục vinh, vui khổ... dường như có sự an bài đâu sẵn. Cái ǵ an bài đời sống con người? Nhà Nho gọi là số mạng hay thiên mạng. Họ cho rằng con người sanh ra mỗi mỗi đều do số định sẵn, hoặc trời sắp đặt cho. Như câu “nhân nguyện như thử thiên lư vị nhiên” (người mong như thế, lẽ trời chưa vậy). Hoặc nói: “Thiên vơng khôi khôi, sơ nhi bất lậu.” (Lưới trời lồng lộng, thưa mà chẳng lọt.) Chỉ do số trời đă định không ai thoát ra ngoài được. Nhà Phật nói là nghiệp báo. Tất cả chúng sanh có mặt trong vũ trụ đều do nghiệp trước tạo nên, phải chịu quả báo hiện nay. Hai bên đều thừa nhận có cái sẵn từ đời trước quyết định cho cuộc sống hiện tại. Vậy hai thuyết này đồng hay khác?

ĐỒNG

Đứng về mặt sẵn có, hai bên đều thừa nhận như nhau. Con người sanh ra không phải bỗng dưng mà có, đều mang sẵn cái quá khứ c̣n lưu lại. V́ thế, có kẻ sanh ra đă sẵn sàng cho một cuộc sống sang cả sung túc, có người sanh ra gặp lầm than nghiệt ngă. Tại họ chọn lựa chăng? Hẳn là không. Tại sao có sự bất công tàn nhẫn ngay từ buổi đầu như thế? Nho nói: “số trước đă định”, Phật nói: “Nghiệp trước gây nên.” Cả hai đều thừa nhận có cái sẵn từ trước. Song một bên nói số, một bên nói nghiệp, không đồng nhau.

KHÁC

1. Nguyên nhân

Nói số định hay trời định cũng tương tợ. Số do ai đặt ra, hẳn là trời hay đấng thiêng liêng tối thượng nào đó. Đă do trời định sẵn sự có mặt của ta; ta là công cụ của Ngài, trọn một đời ta phải hành động theo cái khuôn định sẵn ấy. Quả thật đời sống của ta không có giá trị ǵ hết. Nếu số định cho ta vui th́ ta được vui, số định cho ta khổ th́ ta phải khổ. Ta khó bề thoát khỏi số phận ấy. Số hay trời định cho thân phận ta, mà thật t́nh ta không biết ǵ về cái tột cùng ấy hết. Thật là gởi gấm thân phận ḿnh cho một cái viển vông mơ hồ.

Nói do nghiệp báo nên có mặt trên thế gian này để đền trả. Nghiệp từ đâu có? Nghiệp do những tâm tư hành động của ḿnh từ đời trước gây ra. Nếu đời trước hành động thiện nhiều th́ đời nay ta sanh ra gặp hoàn cảnh tốt, mọi việc như ư. Nếu đời trước hành động ác th́ đời này ta sanh ra trong hoàn cảnh xấu xa bất như ư. Thế là, hiện nay ta sanh ra trong hoàn cảnh tốt hay xấu đều do hành động tốt xấu của ta đời trước chiêu cảm. Ta là chủ nhân sắp đặt lấy cuộc sống hiện tại cho ḿnh. Quyền tối thượng định đoạt là ở chúng ta, không ai khác. Kinh Nhân Quả nói: “Muốn biết nhân đời trước, chỉ xem quả hiện tại đang thọ; muốn biết quả đời sau, chỉ xem nhân gây tạo trong đời này.” (Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; yếu tri hậu thế quả, kim sanh tác giả thị.)

2. Xuất phát

Mọi khổ vui của con người do số định sẵn. Con người phải chấp nhận số phận của ḿnh, gặp hoàn cảnh nào cam chịu trong hoàn cảnh ấy. Nếu người gặp cảnh khắc nghiệt quá, chịu không nổi, họ đâm ra oán trời trách đất. Họ cho rằng trời đất đă chơi xấu với họ, đày ải họ, xử nghiệt ngă với họ, họ sống trong oán trách hận phiền.

Khổ vui do nghiệp chúng ta gây nên, dù gặp hoàn cảnh nào, chúng ta cũng can đảm nhận chịu, không than thở oán trách ai. Mọi việc đều tại sự ngu khờ vụng dại của ta trước kia gây ra. Ta phải vui vẻ nhận chịu, chỉ cần khôn ngoan đừng tiếp tục sự ngu khờ như trước nữa. Ta làm ta chịu, nhận lấy trọng trách của ḿnh. Không ai để chúng ta van xin, không ai để chúng ta oán trách. Can đảm nhận lấy trách nhiệm, vui vẻ để trả mối nợ tiền khiên.

3. Cảm thọ

Số đă định th́ chúng ta bất lực, làm sao đổi được số. Nhất là số trời c̣n ai dám can thiệp vào. Trời đă định như vậy, chúng ta phải chịu như vậy. Người biết an phận, không dám trái ḷng trời.

 Nghiệp th́ biến chuyển, bởi v́ nghiệp do hành động mà có, khi xưa ta hành động theo ngu tối nên chiêu cảm quả khổ, nay đổi lại ta hành động theo tâm hồn trong sáng th́ quả khổ cũng suy giảm. Như trước ta xử sự xấu với một người bạn, gây ra sự buồn phiền hờn giận, nay ta hối cải xử sự tốt với bạn, sự hờn giận trước dần dần suy giảm. Hành động luôn luôn thay đổi, nghiệp cũng theo đó mà đổi thay. Nói nghiệp không phải cái cố định cứng ngắc, mà chuyển biến linh động tùy thuộc tâm tư và hành động con người. V́ thế, nếu trong hiện tại chúng ta cảm thọ cảnh vui hay khổ, biết do nghiệp lành hay dữ trước kia tạo nên. Nếu hiện nay chúng ta chuyển tâm niệm hành động th́ sự cảm thọ cũng theo đó mà chuyển.

4. Hoán cải

Số mạng đă định th́ làm sao đổi được. Cho nên nói số mạng đă định, con người đành bó tay cúi đầu nhận lănh, không ai có thể cưỡng được số. Con người hoàn toàn bất lực dưới mệnh lệnh của đấng tạo hóa đă định sẵn.

Nghiệp do ḿnh tạo, chính ḿnh có quyền thay đổi nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Trước kia ḿnh học nghề trộm cắp, sau này ḿnh học nghề thợ mộc thợ nề. Nghề nghiệp do sở thích của ḿnh học tập mà thành. Trước ḿnh dại khờ thích việc làm không hay, sau ḿnh nhận thức được đổi thành nghề tốt. Nghề nghiệp đổi thay tùy theo tâm tỉnh giác của ḿnh, đổi sang nghề nghiệp mới th́ nghề nghiệp cũ từ từ phai nhạt. V́ thế, nói nghiệp là sửa đổi, cố gắng tích cực chớ không có nghĩa cam chịu đầu hàng. Tuy nhiên, có thiểu số người học Phật mà thiếu nghị lực, không có ư chí, họ không vượt qua được những trở ngại của nghiệp cũ, đành cam bó tay đầu hàng rồi đổ thừa tại nghiệp của tôi. Như đồng thời ghiền rượu, đồng biết rơ tai hại của rượu, cùng hứa bỏ rượu, song anh A th́ bỏ rượu được, anh B lại bỏ không được. V́ anh A đủ nghị lực giàu ư chí, khi quyết định bỏ là can đảm bỏ, nên thắng trận. Anh B th́ không có ư chí, thiếu nghị lực, tuy cũng muốn bỏ rượu mà khi bị cơn ghiền hành hạ không kham chịu, đành thua trận.

Nghiệp chuyển được, song đ̣i hỏi giàu ư chí, đủ nghị lực.

5. Định chế

Nói số mạng là do một đấng quyền lực tối cao, qui định hết mọi sanh hoạt của chúng sanh trên thế gian này. Chấp nhận số mạng là con người thừa nhận và cam đặt ḿnh lệ thuộc vào quyền lực đấng thiêng liêng ấy. V́ thế, số mạng phù hợp với thể chế quân chủ phong kiến, con người bị một đấng quân vương chi phối toàn bộ cuộc đời.

           Nói nghiệp là quyền năng trong tay ḿnh định đoạt. Cuộc sống đời này và đời sau do ḿnh an bài lấy. Muốn an vui do ḿnh, muốn đau khổ cũng do ḿnh. Ta là chủ của mọi cuộc sống, nếu ta c̣n muốn tiếp tục. Không ai thay ta sắp đặt cuộc khổ vui, chỉ có ta mới là người ban vui cứu khổ cho ta. Ta phải sáng suốt gan dạ chọn lựa một cuộc sống đẹp đẽ vui tươi trong hiện tại và mai sau. Tự ta vạch sẵn một lối sống cho ta, tự ta tô điểm đời ta cho tươi sáng. Nếu có khổ đau đến với ta, ta hăy cười, v́ đây là hành vi vụng dại ngày trước của ḿnh. Chúng ta trả và chuyển những cái ǵ không hay của quá khứ, đồng thời xây dựng những điều an vui hạnh phúc cho vị lai. Mọi quyền lực trong tay chúng ta, thật thỏa thích thay! Cuộc sống của chúng ta là cuộc sống tự do tự chủ. Cho nên, lư nghiệp báo thích ứng thể chế dân chủ tự do của nhân loại hiện nay. Ta là chủ ta có quyền chọn lựa người thay ta lo việc nước việc dân.

PHÊ B̀NH

           Nói số mạng là mơ hồ không xác thực. Nghiệp báo là thực tế rơ ràng. Thuyết số mạng đưa con người đến chỗ vô trách nhiệm về hành động của ḿnh. Nghiệp báo dạy người nhận lấy trách nhiệm do mọi hậu quả tốt xấu đến với ḿnh. Số mạng khiến con người thụ động, tiêu cực, phó thác, liều lĩnh. Nghiệp báo xây dựng con người chủ động, tích cực, nỗ lực và sáng tạo. Số mạng tập con người yếu đuối, an phận, đầu hàng. Nghiệp báo chỉ cho ta phải cố gắng, can đảm và thăng tiến. Số mạng thích hợp với thời quân chủ phong kiến. Nghiệp báo thích hợp với thời dân chủ tự do. Ứng dụng thuyết nghiệp báo trong cuộc sống, chúng ta thấy ḿnh đồ sộ hiên ngang, đầy đủ quyền năng trong công cuộc kiến tạo con người và vũ trụ.

NGHIỆP BÁO KHÔNG THẬT

Tuy thuyết nghiệp báo thực tế, chủ động, tích cực...Song cuối cùng nhà Phật nói nó không thật. Bởi v́ nghiệp do hành động tạo tác của con người. Hành động là tướng sanh diệt, cái ǵ sanh diệt nhà Phật đều cho là hư dối. Trong bài Chứng Đạo Ca của Thiền sư Huyền Giác có hai câu “liễu tức nghiệp chướng bản lai không, vị liễu ưng tu hoàn túc trái” (liễu ngộ tức nghiệp chướng xưa nay không, chưa liễu ngộ cần phải đền nợ trước). Có Thiền khách hỏi Thiền sư Cảnh Sầm ở Trường Sa: Tổ Sư Tử liễu chưa mà bị vua nước Kế-tân chặt đầu? Tổ Huệ Khả liễu chưa mà bị chết trong khám? Thiền sư Cảnh Sầm đáp: Đại đức chưa hiểu nghĩa nghiệp chướng. Thiền khách hỏi: Thế nào là nghiệp chướng? Thiền sư Cảnh Sầm đáp: Bản lai không. Qua câu chuyện này, đa số người không hiểu ǵ cả. Sự thật là vầy, sau khi liễu ngộ Phật Tổ thấy các pháp duyên hợp hư dối. Thân này là pháp duyên hợp nên hư dối. Hành động tạo tác từ thân phát xuất lại càng hư dối hơn. Hành động đă hư dối th́ nghiệp do hành động tạo thành làm sao thật được. Bởi thấy nghiệp hư dối nên xem thường không quan trọng, có đến cũng như tṛ chơi, có ǵ phải kinh hoảng sợ hăi. Cho nên khi vua nước Kế-tân muốn hại Tổ Sư Tử, cầm dao đến trước Tổ hỏi: Ngài thấy thân năm uẩn đều không, phải chăng? Tổ đáp: Phải. Vua nói: Ngài cho tôi cái đầu được không? Tổ đáp: Năm uẩn đă không, sá ǵ cái đầu. Vua chặt đầu Ngài. Qua mắt chúng ta, thấy đó là trả nghiệp, đáng sợ, song với Tổ đă không thấy thật, nói ǵ là trả. Cũng như ông A khi chưa hiểu đạo, bị ông B làm vài hành động không vừa ḷng, ông liền mắng chửi ông B. Thời gian sau, ông A hiểu đạo, đúng lúc ông B trả thù mắng chửi thậm tệ hơn trước. Song ông A thấy lời nói không thật, không có ǵ quan trọng, nên vẫn tươi cười không buồn, không đổi nét mặt. Như thế ông A có trả nợ trước hay không trả nợ trước? Thật sự, nợ đă vay th́ phải trả, chỉ khác ở chỗ mê th́ thấy thật, ngộ th́ thấy không thật. Đă không thật th́ trả cũng như không trả. V́ thế, nói “liễu tức nghiệp chướng bản lai không”. Cứu kính thấy nghiệp báo không thật, quả là thấu tột bản chất của nghiệp báo. Tuy không thật mà chẳng mất, đây là bí yếu của đạo Phật. 

]

 


[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]

[Trang chu] [Kinh sach]