[Trang chu] [Kinh sach]

BƯỚC ĐẦU HỌC PHẬT

[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]


HỌC PHẬT BẰNG CÁCH NÀO?

 

            Hỏi học Phật bằng cách nào, tức là hỏi đến phương pháp học Phật. Ở thế gian môn học nào cũng có phương pháp riêng của nó. Ví như môn toán học, người học tṛ trước phải biết số, kế học thuộc cửu chương, học cách cộng trừ nhân chia, lên nữa phải học công thức, phương tŕnh v.v... Môn văn chương, trước phải biết chữ cái, học ráp vần, viết chánh tả, học văn phạm, tập cách làm văn v.v... Phương chi Phật pháp là môn học giác ngộ, mà không có phương pháp riêng của nó hay sao?

            Phương pháp học Phật tức là ba môn Tuệ học: Văn tuệ, Tư tuệ, và Tu tuệ. Bởi v́ muốn vào cửa giác ngộ không phải anh tướng trí tuệ th́ không sao vào được. Phật pháp là chân lư là những sự thật, nếu không có ngọn đuốc trí tuệ soi sáng, làm sao chúng ta thấy mọi sự thật ở chung quanh, không cần trí tuệ, chỉ dùng ḷng tin đến với đạo Phật, để học Phật pháp, thật là sai lầm lớn lao. Đây là chứng bệnh trầm trọng của Phật tử hiện thời. Cần chữa lành bệnh này, chúng ta phải ứng dụng triệt để ba môn Tuệ học vào công tŕnh tu học Phật pháp.

Thế nào là Văn tuệ?

            Văn là nghe, do nghe giáo lư Phật pháp trí tuệ mở sáng, gọi là Văn tuệ. Chúng ta nghe Phật pháp qua lời giảng dạy của chư Tăng, của thiện hữu tri thức đă tu học trước ta. Những lời giảng dạy ấy xuất phát từ kinh điển của Phật, trong đó chứa toàn lời lẽ chân chánh, chỉ bày mọi sự thật cho chúng sanh. Càng nghe trí tuệ chúng ta càng sáng. Hoặc chúng ta trực tiếp đọc kinh sách Phật, khiến mở mang trí tuệ cũng thuộc Văn tuệ. Chịu khó nghe giảng dạy, chịu khó nghiên cứu kinh sách Phật, đó là người biết từ cửa Văn tuệ tiến thẳng vào ngôi nhà Phật pháp.

Thế nào là Tư tuệ?

            Tư là suy xét phán đoán, do suy xét phán đoán những lời dạy trong Phật pháp, trí tuệ càng tăng trưởng. Chúng ta được nghe lời chỉ dạy của thầy bạn, dẫn từ trong kinh Phật ra, song nghe rồi tin liền là chưa đủ tư cách học Phật. Buộc chúng ta phải dùng trí phán đoán xem đúng hay sai, nếu quả thật đúng, từ đó chúng ta mới tin. Có thế mới thực hành đúng câu “các người phải tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh pháp”, trong kinh Pháp Cú. Chúng ta muốn mở mang trí tuệ, song tự ḿnh làm sao mở được, phải mồi ngọn đuốc trí tuệ của ḿnh với ngọn đuốc chánh pháp của Phật, trí tuệ mới phát sáng.

            Mồi bằng cách nào?

            Ví như chúng ta nghe vị Sư giảng rằng: “Tất cả thế gian đều là vô thường.” Sau đó phải dùng trí tuệ của ḿnh phán đoán xem đúng hay không. Chúng ta tự đặt câu hỏi: Tất cả thế gian đều là vô thường, có sự vật nào thoát ngoài luật lệ ấy chăng? Nếu có, câu nói này chưa phải chân lư. Bằng không, mới thật đúng chân lư, chúng ta sẽ hoàn toàn tin. Thế rồi, ta tự khảo sát :

            Con người có phải vô thường không? Từ ông bà đến cha mẹ chúng ta đều có sanh ra, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu rồi chết. Kể luôn cả ta, khi nào c̣n nhỏ bé, lớn lên, bệnh hoạn, già yếu, rồi cũng sẽ chết. Trong gia đ́nh thân tộc chúng ta đă thế, ngoài xă hội cũng thế, cả nhân loại trên thế giới cũng thế; ngàn xưa là thế, măi sau này cũng thế. Quả là con người vô thường.

            Đến những sự vật, nào nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... có bị vô thường không? Chính cái nhà của ḿnh, khi mới cất th́ tốt đẹp lành lặn, qua vài ba năm thấy cũ dần, đến năm mười năm th́ hư sập. Cái bàn viết cũng thế, khi mới đóng xem bóng loáng tốt đẹp, dùng mấy năm thấy đă cũ, tróc sơn khờn mặt, rồi đây sẽ mục nát hư hoại. Chiếc xe đạp khi mới mua đem về mới toanh, chạy được một năm vỏ đă rách, cổ lỏng, các con ốc lờn... vài năm nữa sẽ hư. Thế là, nhà cửa, bàn ghế, xe cộ... những vật cần dùng bên cạnh chúng ta thảy bị vô thường chi phối. Cho đến trăm ngàn vật khác, nếu khảo sát đều thấy đồng một số phận như nhau.

            Chúng ta có thể kết luận rằng: “tất cả thế gian là vô thường”, quả thật là chân lư. Ta tin chắc lẽ này, dù có ai nói khác đi, cũng không làm lay động được ḷng tin của ta. Bởi ḷng tin này đă được gạn lọc qua sàng lư trí, nên nó vững chắc không dễ ǵ làm lung lay.

            Lại một thí dụ, chúng ta nghe vị Sư giảng lư luân hồi, bảo rằng: “Muôn vật ở thế gian đều xoay quanh ṿng luân hồi.” Ta tự đặt câu hỏi: Tại sao muôn vật đều luân hồi? Có vật nào không luân hồi chăng? Chúng ta bắt đầu xét từ thực vật:

             Cây cối thành h́nh bắt nguồn từ hạt, hạt nẩy mầm tăng trưởng thành cây, nở hoa, kết trái; trái sanh hạt, hạt lại nẩy mầm... lộn đi đảo lại không cùng. Song đó là sự lộn đi đảo lại từ cây này sang cây khác, ngay bản thân cây ấy có đảo lộn vậy không? Cũng lộn đi đảo lại như thế. Thân cây hiện sống đây, do châm rễ hút đất nước... nuôi dưỡng mới được sanh trưởng, dần dần thành đại thọ. Rễ hút đất nước nuôi dưỡng thân cành lá, lá rụng biến thành phân đất, cành găy mục cũng thành phân đất, thân cây ngă mục cũng trở về đất nước. Thân cây nhờ đất nước sanh trưởng, khi ngă mục lại trở về đất nước.

            Nước do ánh nắng bốc thành hơi, hơi lên cao gặp khí lạnh đọng lại, rơi xuống thành nước; nước lại bốc hơi... măi măi không cùng.

            To như quả địa cầu vẫn quay tṛn quanh cái trục, sáng rồi tối, tối lại sáng. Căn cứ vào sự quay tṛn của nó, người ta chia ra ngày giờ tháng năm, thời tiết xuân hạ thu đông, xoay vần thế măi không cùng.

            Do sự khảo sát trên, chúng ta khẳng định rằng “muôn vật ở thế gian đều xoay quanh ṿng luân hồi”, là sự thật không c̣n ǵ phải nghi ngờ.

            Trên đây tạm cử vài thí dụ làm căn bản cho công cuộc suy xét phán đoán Phật pháp. Căn cứ vào đây, chúng ta phán xét những lời Phật dạy, hoặc chư Tăng dạy trong những trường hợp khác. Có thế, mới phân biệt được chánh tà và mới đúng tinh thần người học Phật.

Thế nào là Tu Tuệ?

            Sau khi phán xét lời Phật dạy là đúng, chúng ta đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày của ḿnh, khiến chánh lư càng bày hiện sáng tỏ, là tu tuệ. Ví như, đă biết rơ “tất cả thế gian là vô thường”, chúng ta ứng dụng sự vô thường vào đời sống của ḿnh, trong những trường hợp như sau:

            Đă biết rơ thế gian là vô thường, khi gặp vô thường đến với bản thân, với gia đ́nh ta, ta vẫn giữ b́nh tĩnh không hốt hoảng hăi sợ. V́ biết chắc điều đó ở thế gian không ai tránh khỏi, sợ hăi kinh hoàng chỉ làm rối thêm vô ích. Bởi không sợ nên tâm ta b́nh tĩnh sáng suốt, giải quyết mọi việc một cách tốt đẹp. Chúng ta vẫn đủ sáng suốt để khuyên giải cho những người đồng cảnh ngộ bớt đau khổ.

            Biết rơ thế gian là vô thường, mọi sự tranh giành danh lợi, tài sắc... ḷng ta nguội lạnh. Tranh giành những thứ tạm bợ ấy làm ǵ, để rồi chuốc khổ về ḿnh, gây đau khổ cho người, rốt cuộc chỉ thành việc ṃ trăng bắt bóng. Ḷng tham lam giành giật dục lạc thế gian, do đây dứt sạch.

            Do thấy rơ lẽ vô thường, chúng ta không thể ngồi yên chờ chết. Phải cố gắng làm mọi việc lành, nếu cơn vô thường đến, chúng ta có muốn làm cũng không sao làm được. Lại biết quí tiếc thời giờ, một ngày qua rồi không t́m lại được, phải cấp bách nỗ lực làm lợi ḿnh lợi người, không thể chần chờ.

            Đó là ba trường hợp do biết “thế gian vô thường”, chúng ta khéo ứng dụng tu hành trong cuộc sống hiện tại của ḿnh. Bao nhiêu sự lợi ích tốt đẹp sẽ theo đó mà tăng trưởng. Sự tu hành ấy, đi đôi với tâm trí tỉnh táo sáng suốt, nên gọi là “Tu tuệ”.

            Ví dụ khác, chúng ta nhận rơ “muôn vật luân hồi”, liền ứng dụng lư luân hồi vào cuộc sống của ḿnh. Nếu phải luân hồi, chúng ta chọn cái luân hồi nào tốt đẹp an ổn hơn. Ví như, biết các loài thảo mộc từ hạt nẩy mầm, sanh trưởng thành cây, đơm hoa, kết quả; hạt lại nẩy mầm... Chúng ta nên chọn lựa hạt tốt giống ngon đem ương, để sau này kết quả ngon, cho ta và mọi người được thưởng thức vị ngon. Cũng thế, trong ṿng luân hồi bản thân ta cũng không thoát khỏi, ta cần tạo những nhân tốt, nhân an vui, để mai kia có lăn lộn cũng lăn lộn trong chỗ tốt, chỗ an vui.

            Đă biết muôn vật luân hồi, chúng ta phải t́m xem nguyên nhân nào lôi cuốn vào trong ấy. Biết rơ nguyên nhân rồi, phải t́m cách thoát ra ngoài ṿng luân hồi. Không đầu hàng khuất phục, để chịu lăn măi trong luân hồi. Như các nhà khoa học nghiên cứu biết sức hút của quả đất, sau đó t́m cách chế phi thuyền đủ sức mạnh vượt ra ngoài ṿng hút của quả đất, đi thẳng vào quĩ đạo v.v... Biết luân hồi để t́m cách thoát ra, chính là tinh thần “Tu tuệ”.

            Văn tuệ, Tư tuệ rất cần thiết, song Tu tuệ lại càng quan trọng hơn. Nếu có văn tuệ, tư tuệ mà thiếu tu tuệ th́ chỉ là tuệ rỗng, không lợi ích thiết thực cho đời sống con người. Nhờ tu tuệ mới thẩm định được giá trị văn, tư ở trên và giúp cho văn, tư được kết quả viên măn.

            V́ thế, đức Phật dạy hàng Phật tử đi chùa là cốt gặp Sư tăng, Sư ni, gặp Tăng Ni rồi cần phải thưa hỏi Phật pháp, thưa hỏi xong phải ghi nhớ, ghi nhớ rồi cần phán xét, phán xét rồi phải tiến tu. Được vậy mới đúng tinh thần Phật tử (Phỏng theo bài kinh Ma-ha-nam trong Tạp A-hàm). Bồ-tát Quán Thế Âm cũng tŕnh với Phật, thuở quá khứ lâu xa Ngài gặp Phật dạy tu phương pháp văn, tư, tu được vào chánh định và cho hiệu là Quán Thế Âm (Kinh Lăng Nghiêm). Chính trong giới Bồ-tát, Phật cũng dạy “dù ở xa trăm ngàn dặm, nghe có người nói kinh luật, người mới thọ giới Bồ-tát cũng phải mang kinh luật đến đó học (Kinh Phạm Vơng). Quả nhiên đức Phật không chấp nhận đệ tử tu hành tối dốt, phải đầy đủ ba môn Tuệ học, mới xứng là đệ tử của Ngài.

            Ba môn Tuệ học này hoàn toàn thích hợp với tinh thần khoa học hiện nay. Bất luận môn học nào, trước tiên học lư thuyết, kế phê b́nh lư thuyết, sau thí nghiệm hay thực hành lư thuyết. Lư thuyết tức là văn tuệ, phê b́nh tức là tư tuệ, thí nghiệm.

]

 


[mucluc][loidausach]

[p1][p2][p3][p4][p5][p6][p7][p8][p9][p10][p11][p12][p13][p14]

[p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][p29][ketluan]

[Trang chu] [Kinh sach]