[Trang chu] [Kinh sach]

DIEÄU PHAÙP LIEÂN HOA GIAÛNG GIAÛI

[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]

[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]


KINH  DIỆU  PHÁP  LIÊN  HOA 

Kinh Pháp Hoa ở Việt Nam đă có nhiều nhà giảng giải. Tuy nhiên, hôm nay tôi giảng kinh Pháp Hoa theo cái nh́n của Thiền tông. Nếu quí vị nghe, thấy có chỗ dị biệt, chớ lấy làm lạ. V́, đó là điểm đặc trưng của tinh thần triển khai kinh điển theo chỗ thông hội lư kinh của người giảng giải.           

LƯỢC KHẢO LỊCH SỬ KINH

Kinh Pháp Hoa nguyên chữ Phạn (Sanskrit) tên Saddharmapundarika - Suttra, được dịch ra chữ Hán bởi nhiều dịch giả với nhiều bản khác nhau.

Hiện nay c̣n đang lưu hành ba bản:

1.- Chánh Pháp Hoa Kinh, do ngài Trúc Pháp Hộ dịch vào đời Tây Tấn, niên hiệu Vĩnh Khang (  ) tại Đôn Hoàng, gồm 10 quyển.

2.- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do ngài Cưu-ma-la-thập dịch, vào đời Diêu Tần, niên hiệu Hoằng Thủy và Long An (khoảng 396-397 Tây lịch) tại Trường An, gồm 7 quyển, sau thêm thành 8 quyển.

 3.- Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, do hai ngài Xà-na và Cấp-đa dịch vào đời Tùy, niên hiệu Nhân Thọ (khoảng 601 Tây lịch), tại chùa Đại Hưng Thiện, gồm 7 quyển.

 Dịch từ Hán văn ra Việt văn có những bản sau đây:

1/ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Đoàn Trung C̣n dịch, xuất bản vào năm 1936. Bản dịch này, dung họp bản Hán văn của Cưu-ma-la-thập và bản Pháp văn của Eugène Burnouf.

 2/ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa do Ḥa thượng Thích Trí Tịnh dịch, xuất bản năm 1948. Bản dịch này căn cứ theo bản Hán văn của ngài Cưu-ma-la-thập.

3/ Pháp Hoa Huyền Nghĩa do Mai Thọ Truyền tuyển dịch, xuất bản năm 1964, ông dung họp nhiều bản Hán văn và Pháp văn để dịch.

4/ Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Diễn Giải Lục do Ḥa thượng Thích Trí Nghiêm dịch, xuất bản năm 1970, Ngài dịch nguyên bản chữ Hán và chú giải của đại sư Thái Hư.

Về phẩm loại của những bản dịch Phạn Hán th́ bản Chánh Pháp Hoa của Trúc Pháp Hộ dịch có 27 phẩm, không có phẩm Đề-bà-đạt-đa và phẩm Chúc Lụy là phẩm sau cùng. Bản Diệu Pháp Liên Hoa của hai ngài Xà-na và Cấp-đa dịch đủ 28 phẩm, có phẩm Đề-bà-đạt-đa và phẩm Chúc Lụy ở vào phẩm thứ 22. Bản của ngài Cưu-ma-la-thập dịch, thiếu nửa phần đầu của phẩm Dược Thảo Dụ; thiếu phần đầu của phẩm Pháp Sư, thiếu phẩm Đề-bà-đạt-đa, thiếu phần kệ tụng của phẩm Phổ Môn và phẩm Chúc Lụy ở chót. Nhưng  sau y cứ vào bản “bối diệp”  do Xà-na, Cấp-đa mang tới, Ngài dịch bổ khuyết thêm  đầy đủ là 28 phẩm. Do đó mà sau này được đặt tên là Thiêm Phẩm Pháp Hoa tức là kinh Pháp Hoa thêm một phẩm. Ba bản kinh Pháp Hoa dịch từ chữ Phạn ra chữ Hán đang lưu hành, th́ bản Diệu Pháp Liên Hoa Kinh của ngài Cưu-ma-la-thập dịch được coi là định bản. V́ đa số tu sĩ cũng như cư sĩ đều dùng bản này để nghiên cứu tụng đọc, bởi văn kinh lưu loát sáng sủa đầy đủ ư nghĩa, lư sâu sắc, đọc tụng dễ hiểu dễ nhận.

Bốn bản kinh Pháp Hoa được dịch từ chữ Hán ra chữ Việt mà chúng tôi vừa nêu, th́ bản dịch của Ḥa thượng Thích Trí Tịnh, được hầu hết người xuất gia cũng như tại gia ở Việt Nam dùng để nghiên cứu học hỏi, tŕ tụng. Hôm nay giảng kinh Pháp Hoa, chúng tôi cũng dùng bản dịch của Ḥa thượng Thích Trí Tịnh để cho quí vị dễ theo dơi, dễ hiểu. Ḥa thượng Thích Trí Tịnh là người dày công nghiên cứu và phiên dịch kinh điển, nên có đầy đủ uy tín trên phương diện giáo dục cũng như dịch thuật. Pháp Phật mà Ngài phiên dịch và truyền bá hầu hết chúng ta đều tin tưởng, nên bản dịch của Ngài được mọi người tin cậy nhất. Tuy nhiên, một bản dịch dày đến năm sáu trăm trang, việc làm nhiều th́ không tránh khỏi chút ít sơ sót. Nhưng phần căn bản th́ đáng cho chúng ta tin tưởng để y theo đó mà tu học.

Kinh Pháp Hoa chẳng những ở Trung Hoa, Tăng Ni Phật tử quí trọng, mà khi truyền sang Việt Nam cũng được các chùa kính trọng, nên hay tổ chức các đạo tràng Pháp Hoa hay hội Pháp Hoa để tŕ tụng. Ởû Nhật Bản, kinh Pháp Hoa cũng được tôn trọng nên có ra đời một phái tên Nhật Liên Tôn, chuyên tŕ kinh Pháp Hoa và niệm câu Nam-mô Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

Sớ giải kinh Pháp Hoa th́ ở Trung Hoa có cả trăm nhà sớ giải. Nhưng hai bộ sách được quí trọng, phổ biến rộng răi là Pháp Hoa Huyền Nghĩa, do Thiên Thai Trí Giả đại sư sớ giải và bộ Pháp Hoa Huyền Tán, do ngài Khuy Cơ đệ tử ngài Huyền Trang sớ giải.           

TÊN KINH:

Tên kinh,  bản chữ Hán nói đủ là “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, gọi tắt là Diệu Pháp Liên Hoa, nói gọn nữa là kinh Pháp Hoa. Tên kinh được cấu tạo theo đề ghép, thuộc loại pháp dụ. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là dụ. Theo kinh Pháp Hoa, Diệu Pháp là Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sanh, c̣n gọi là Pháp thân thanh tịnh hay Phật tánh... Nếu người nhận ra Tri kiến Phật th́ không c̣n kẹt trong pháp đối đăi hai bên của phàm phu. Liên Hoa là dụ, sở dĩ dụ Tri kiến Phật như hoa sen, v́ hoa sen có những đặc điểm như sau:

1/ Nhân quả đồng thời, nghĩa là hoa sen, gương sen có đồng một lúc, không giống như những hoa khác khi nở, cánh hoa tàn rồi mới tượng nụ thành trái. Gương sen đă có sẵn trong hoa, v́ cánh hoa chưa rụng nên gương chưa lộ ra. Nếu cánh hoa rụng hết th́ gương sen lộ ra đầy đặn. Cũng vậy, Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi chúng sanh, v́ vô minh phủ che nên nó không hiện. Nếu người biết tu hành, công phu viên măn th́ Tri kiến Phật hiển hiện tṛn sáng. Đó là ư nghĩa nhân quả đồng thời.

2/ Hoa sen mọc trong bùn lầy nhơ nhớp mà không bị hôi tanh, vẫn đẹp thơm thanh khiết. Hoa sen được người ưa quí, không phải ở sắc đẹp, mùi thơm như những hoa khác, mà quí ở chỗ hoa mọc từ nơi bùn lầy nhơ nhớp mà vẫn giữ được sắc hương thanh khiết. Cũng giống như thân năm uẩn này, nếu nh́n với con mắt giác ngộ th́ nó rất ô uế bất tịnh. Tuy nó ô uế bất tịnh, nhưng có cái hằng thanh tịnh sáng suốt, kinh Pháp Hoa gọi đó là Tri kiến Phật.

3/ Hoa sen có những hoa vượt lên khỏi mặt nước hé nụ, trổ hoa, bày gương hạt; lại có những hoa c̣n đang ở trong nước, và cũng có những hoa vừa nhú lên khỏi bùn. Tất cả những hoa sen ấy, trước sau đều nở hoa sắc hương thanh khiết. Cũng vậy, Người, Trời, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát căn cơ tuy có sai biệt nhưng ai cũng có Tri kiến Phật, nếu tu hành viên măn th́ thành Phật.

4/ Hoa sen không bị ong bướm bu đậu và không bị phụ nữ dùng để trang điểm. Cũng vậy, Tri kiến Phật là pháp vi diệu nhiệâm mầu, không bị bất cứ pháp thế gian nào làm ô nhiễm.

Sở dĩ gọi Tri kiến Phật là Diệu Pháp là v́ Tri kiến Phật siêu việt trên tất cả pháp đối đăi và không thể so sánh với bất cứ một pháp nào ở thế gian này được. Thiền tông gọi là “Bản Lai Diện Mục”, là pháp gốc mà tất cả mọi chúng sanh xưa nay ai cũng có sẵn. Nếu tu, sạch hết vô minh vọng tưởng th́ “Bản Lai Diện Mục” hiện tiền. Bài kệ truyền pháp mà Phật truyền cho tôn giả Ma-ha Ca-diếp mở đầu bằng câu: “Pháp bổn pháp vô pháp”. Pháp bổn là Diệu Pháp, gọi nó là pháp mà không phải pháp. Tại sao ? V́ pháp ấy không phải là một vật đối đăi theo con mắt phàm t́nh thế gian thấy biết, nên nói không phải pháp. Pháp gốc là thể của muôn pháp. Diệu Pháp cũng tương đương nghĩa này. Tương truyền, ngày xưa Thiên Thai Trí Giả đại sư khi ngộ được kinh Pháp Hoa, Ngài giảng chữ Diệu suốt một tuần lễ. V́ Diệu Pháp là thể của muôn pháp nên nói không hết, giảng không cùng, v́ vậy nên gọi Tri kiến Phật là Diệu Pháp và dụ như hoa sen. Ở hội Linh Sơn, Phật giơ cành hoa sen lên, đưa mắt nh́n khắp tứ chúng; cả hội chúng lặng im, chỉ có tôn giả Ma-ha Ca-diếp nh́n thấy liền chúm chím cười. Phật nhân đó ấn chứng cho Ngài là người đă ngộ được lư Thiền, và được truyền thừa y bát làm Tổ thứ nhất phái Thiền tông. Như vậy, kinh Pháp Hoa được Phật nói ở núi Linh Thứu và dùng hoa sen để dụ cho Diệu Pháp; tổ Ca-diếp thấy Phật đưa cành hoa sen, Ngài ngộ được Pháp gốc (Diệu Pháp) cũng ở núi Linh Thứu. Điều đó cho chúng ta thấy kinh Pháp Hoa có mối liên hệ với Thiền tông rất mật thiết nên các thiền sư khi hoằng hóa hay dùng hoa sen để ví dụ, như nói: “Hoa sen ở trong ḷ lửa mà vẫn tươi nhuần”. Ḷ lửa là chỉ cho thân vô thường, hoa sen thanh khiết chỉ cho Pháp thân thanh tịnh, ư nói từ nơi thân vô thường của mỗi chúng sanh có sẵn thể bất sanh bất diệt hằng thanh tịnh.

V́ kinh Pháp Hoa có mối liên hệ với Thiền tông, nên hôm nay chúng tôi giảng kinh Pháp Hoa theo tinh thần Thiền tông. Với con mắt của Thiền tông, chúng ta mới lănh hội được những biểu trưng kỳ đặc ở trong kinh. Nếu nh́n theo lư thông thường th́ không thấy được những ư nghĩa đặc biệt đó.                                          

]

 


[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]

[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]

[Trang chu] [Kinh sach]