[Trang chu] [Kinh sach]

DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI

[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]

[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]


PHẨM 3: THÍ DỤ 

Trong kinh Pháp Hoa có tất cả bảy dụ tại sao chỉ riêng phẩm này lấy tên là Thí Dụ, c̣n những phẩm khác cũng dụ mà không để tên Thí Dụ ? Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện nói lên bản hoài của chư Phật ra đời, cốt làm sao cho tất cả chúng sanh đều được khai, thị, ngộ, nhập Tri kiến Phật của chính ḿnh, hay nói cách khác là nhận ra và hằng sống với tánh Giác của chính ḿnh. Nhưng khi chư Phật ra đời không nói thẳng bản hoài đó v́ căn cơ chúng sanh chưa kham thọ nhận, nên Phật phương tiện nói Ngũ thừa, Tam thừa, sau cùng mới nói Phật thừa. Trong phẩm này, đức Phật đă dùng những ví dụ để làm sáng tỏ thêm chỗ cứu kính, để hiển bày những phương tiện mà Ngài đă dẫn dắt chỉ là tạm thời. Nhờ vậy đă giúp cho hàng trung căn dễ dàng nhận ra đâu là mục tiêu chính mà Phật muốn chỉ. Cho nên phẩm này lấy tên là Thí Dụ.

1. CHÁNH VĂN :

*Lúc bấy giờ ngài Xá-lợi-phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của đức Phật mà bạch Phật rằng: “Nay con theo đức Thế Tôn nghe được tiếng pháp này, trong ḷng hớn hở được điều chưa từng có. V́ sao ? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ-tát được thọ kư thành Phật, mà chúng con chẳng được dự việc đó, tự rất cảm thương mất vô lượng Tri kiến của Như Lai.

Thế Tôn ! Con thường khi một ḿnh ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi, hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vầy: “Chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai lại dùng pháp Tiểu thừa mà tế độ cho ?”

Đó là lỗi của chúng con chớ chẳng phải là Thế Tôn vậy. V́ sao ? Nếu chúng con chờ Phật nói pháp sở nhân thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thời chắc do pháp Đại thừa mà ĐƯỢC độ thoát. Song chúng con chẳng hiểu Phật phương tiện theo cơ nghi mà nói pháp, vừa mới nghe Phật nói pháp, vội tin nhận suy gẫm để chứng lấy.

Thế Tôn ! Con từ xưa đến nay trọn ngày luôn đêm hằng tự trách ḿnh, mà nay được từ Phật nghe pháp chưa từng có, trước chưa hề nghe, dứt các ḷng nghi hối, thân ư thơ thới rất được an ổn. Ngày nay mới biết ḿnh thiệt là Phật tử, từ miệng Phật sanh ra, từ pháp hóa sanh được pháp phần của Phật.

GIẢNG :

Ngài Xá-lợi-phất sau khi nghe Phật nói về Trí tuệ Phật, Ngài liền tin ḿnh có khả năng thành Phật, hay nói một cách khác là Ngài ngộ được Tri kiến Phật của chính ḿnh, nên vui mừng hớn hở đứng dậy chấp tay tŕnh sở ngộ với Phật.

Xưa, ngài Xá-lợi-phất nghe Phật dạy Tứ đế hay Mười hai nhân duyên, chớ không nghe Phật nói Tri kiến Phật, chỉ riêng hàng Bồ-tát mới được nghe và được thọ kư sẽ thành Phật, c̣n Ngài th́ không được dự phần. Tự thấy cảm thương ḿnh nên những lúc ở dưới cội cây trong núi rừng, hoặc ngồi, hoặc kinh hành, Ngài hằng nghĩ tất cả mọi người ai cũng như ai, tại sao người được nghe pháp Tối thượng, người chỉ được nghe pháp Tiểu thừa ? Tại sao có chỗ sai biệt như thế ? Ví dụ nhiều người tới học đạo, có người tôi khuyên nên ăn ở hiền lành, sống làm sao cho gia đ́nh được ḥa thuận tin yêu lẫn nhau. Có người tôi dạy quán các pháp như huyễn để phá ngă chấp và pháp chấp, để tự ḿnh được giải thoát và giải thoát cho chúng sanh. Dạy như vậy tôi có bất công không ? Không. Dạy tu khế lư mà phải khế cơ, nếu tŕnh độ người thấp mà dạy pháp cao th́ họ không thể lănh hội và ứng dụng tu được, nếu ứng dụng không được th́ không có lợi ích mà c̣n thiệt hại là khác. V́ vậy, buộc ḷng phải nói pháp ngang với tŕnh độ người nghe, cho họ được lợi ích thực tiễn. C̣n đối với người đă thuần thục th́ nói thẳng pháp cao họ ứng dụng được, chẳng những tự họ có lợi ích mà c̣n có lợi cho người sau. Sở dĩ Phật nói pháp sai biệt giữa các môn đồ là bởi căn cơ sai khác, với người tŕnh độ thấp th́ Ngài dùng phương tiện nâng lên từ từ, đến khi họ kham lănh được pháp lớn, th́ Ngài b́nh đẳng nói pháp Nhất thừa. Vậy, nếu ḿnh học pháp thấp mà người được học pháp cao, chớ trách người dạy bất công mà phải tự biết ḿnh chưa đủ sức kham lănh pháp cao, nên người hướng dẫn phải tùy thuận theo khả năng của ḿnh mà dạy pháp thấp. Đó là cái khéo của người giáo hóa.

Ở đây, ngài Xá-lợi-phất tự nhận thấy lỗi ḿnh là đă mất vô lượng Tri kiến Như Lai. Nghĩa là Ngài có sẵn Tri kiến Như Lai, nhưng v́ căn cơ thấp kém nên Phật không nói thẳng Phật thừa chỉ nói pháp Nhị thừa. Ngài tự cảm thương ḿnh chứ không trách Phật. Nếu Ngài chờ Phật nói cái nhân thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ngay đó mà tu hành th́ sẽ được thành Phật. Nhưng v́ không hiểu Phật phương tiện tùy cơ nói pháp Nhị thừa, liền tin và tu theo pháp Nhị thừa. Đó là lỗi ở Ngài chớ không phải lỗi ở Phật.

Kế đó, ngài Xá-lợi-phất tán thán pháp mà Phật nói chưa từng có chưa từng nghe, dứt ḷng nghi hối được an ổn. Ngài tự xác nhận ḿnh là con Phật, từ miệng Phật sanh, từ pháp hóa sanh, được pháp phần của Phật. Sở dĩ ngài Xá-lợi-phất tự nhận như vậy là v́ người tu lấy trí tuệ làm mạng sống, v́ nhân lời Phật dạy mà được trí tuệ, đó là từ miệng Phật sanh. Nhờ pháp Phật khiến cho trí tuệ ngày càng tăng trưởng, đó là từ pháp hóa sanh. Được từng phần giác ngộ, nên nói được pháp phần của Phật.

Ngày nay, đa số người đi chùa tự nhận ḿnh là Phật tử, tức là con của đấng Giác ngộ. Nếu không giác ngộ toàn phần th́ ít ra cũng giác ngộ từng phần mới dám xưng là Phật tử, chớ không phải vô phần giác ngộ mà tự xưng là Phật tử được. Trong kinh Phật dạy, người học Phật phải có đủ ba môn trí tuệ là Văn tuệ, Tư tuệ và Tu tuệ. Văn tuệ tức là nghe lời Phật dạy mà khai thông trí tuệ, đó là từ miệng Phật sanh. Tư tuệ là do tư duy pháp Phật dạy mà trí tuệ phát sanh, đó là từ pháp hóa sanh. Tu tuệ là do tu thiền định mà phát sanh trí tuệ, đó là được pháp phần của Phật. Người học Phật phải có được một trong ba phần trí tuệ vừa nêu th́ mới gọi là Phật tử, nếu không hiểu ǵ về đạo lư giải thoát th́ chưa xứng đáng là Phật tử. Đây tôi nêu đôi phần giác ngộ để quí vị tự xét xem ḿnh có phải là Phật tử không ? Phật nói tất cả pháp có h́nh tướng ở thế gian đều là vô thường. Nếu tin mà chưa thấy rơ các pháp là vô thường th́ chưa gọi là giác. Từ lâu chúng ta mê muội thấy đời là đẹp là thường, nhờ nghe Phật nói tất cả pháp có h́nh tướng đều là vô thường mà tâm sáng lên, biết ḿnh đă mê lầm (Văn tuệ). Sau khi nghe rồi suy gẫm, nghiệm xét từ con người đến cảnh vật đều trải qua những giai đoạn thành trụ hoại không, biến dịch không ngừng, biết rơ ràng tất cả pháp có h́nh tướng đều bị luật vô thường chi phối (Tư huệ). Sau khi xác nhận lời Phật dạy là chân lư, th́ ứng dụng vào đời sống hằng ngày, chẳng hạn tâm vừa dấy khởi chạy theo sắc, theo danh, theo lợi... liền nhớ tới thân vô thường, cảnh vật vô thường, có đó rồi mất đó, đuổi theo danh lợi rồi danh lợi cũng sẽ mất, ngay đó dẹp được ḷng tham danh lợi (Tu huệ). Người tu sống được như vậy mới không hổ thẹn với danh xưng Phật tử.

2. CHÁNH VĂN :

Khi ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                        *Con nghe tiếng pháp này

                        Được điều chưa từng có

                        Ḷng rất đỗi vui mừng

                        Lưới nghi đều đă trừ

                        Xưa nay nhờ Phật dạy

                        Chẳng mất nơi Đại thừa

                        Tiếng Phật rất ít có

                        Hay trừ khổ chúng sanh

                        Con đă được lậu tận

                        Nghe cũng trừ lo khổ

                        Con ở nơi hang núi

                        Hoặc dưới cụm cây rừng

                        Hoặc ngồi hoặc kinh hành

                        Thường suy nghĩ việc này

                        Than ôi ! Rất tự trách !

                        Sao lại tự khi ḿnh

                        Chúng ta cũng Phật tử

                        Đồng vào pháp vô lậu

                        Chẳng được ở vị lai

                        Nói pháp Vô thượng đạo

                        Sắc vàng, băm hai tướng

                        Mười lực, các giải thoát,

                        Đồng chung trong một pháp

                        Mà chẳng được việc đây

                        Tám mươi tướng tốt đẹp

                        Mười tám pháp bất cộng

                        Các công đức như thế

                        Mà ta đều đă mất.

GIẢNG :

Ngài Xá-lợi-phất nghe Phật nói mọi người ai cũng có Tri kiến Phật, và chủ yếu Phật ra đời là để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật. Ngài tin chắc rằng Ngài sẽ được pháp Đại thừa và được thành Phật. Ngài Xá-lợi-phất nói Phật thuyết pháp cốt là giải khổ cho chúng sanh. Rồi Ngài tự trách ḿnh là đệ tử của Phật, cũng được pháp vô lậu mà không được thọ kư thành Phật đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, thập lực, tám món giải thoát.

3. CHÁNH VĂN :

                        *Lúc con kinh hành riêng

                        Thấy Phật ở trong chúng

                        Danh đồn khắp mười phương

                        Rộng lợi ích chúng sanh

                        Tự nghĩ mất lợi này

                        Chính con tự khi dối

                        Con thường trong ngày đêm

                        Hằng suy nghĩ việc đó

                        Muốn đem hỏi Thế Tôn

                        Là mất hay không mất ?

                        Con thường thấy Thế Tôn

                        Khen ngợi các Bồ-tát

                        V́ thế nên ngày đêm

                        Suy lường việc như vậy.

GIẢNG :

Ngài Xá-lợi-phất khi ở chỗ vắng vẻ suy gẫm có phải ḿnh đă tự mất giống Phật không, muốn đem hỏi Thế Tôn mà Ngài chưa dám hỏi.

4. CHÁNH VĂN :

                        *Nay nghe tiếng Phật nói

                        Theo cơ nghi dạy pháp

                        Vô lậu khó nghĩ bàn

                        Khiến chúng đến đạo tràng

                        Con xưa chấp tà kiến

                        Làm thầy các Phạm-chí

                        Thế Tôn rơ tâm con

                        Trừ tà nói Niết-bàn

                        Con trừ hết tà kiến

                        Được chứng nơi pháp không

                        Bấy giờ ḷng tự bảo

                        Được đến nơi diệt độ

                        Mà nay mới tự biết

                        Chẳng phải thiệt diệt độ

                        Nếu lúc được thành Phật

                        Đủ ba mươi hai tướng

                        Trời, người, chúng dạ-xoa

                        Rồng, thần đều cung kính

                        Bây giờ mới được nói

                        Dứt hẳn hết không thừa

                        Phật ở trong đại chúng

                        Nói con sẽ thành Phật

                        Nghe tiếng pháp như vậy

                        Ḷng nghi hối đă trừ.

GIẢNG :

Ngài Xá-lợi-phất nói thuở xưa Ngài là thầy của ngoại đạo Phạm chí, Phật biết tâm của Ngài nên giáo hóa Ngài trừ hết các tà kiến, chứng được pháp không, tức Niết-bàn của Nhị thừa. Nghĩa là Ngài quán sát thấy thân này do năm uẩn giả hợp mà thành, tự tánh nó là không nên nói là vô ngă. Người đạt được lư đó th́ chứng quả A-la-hán. Ngài tưởng chứng quả A-la-hán là Niết-bàn thật. Bây giờ nghe Phật nói pháp Đại thừa mới biết đó là Niết-bàn tạm, chớ không phải Niết-bàn thật. Tu bao giờ công đức viên măn thành Phật mới là Niết-bàn thật, Ngài không nghi ngờ nữa.

5. CHÁNH VĂN :

                        *Khi mới nghe Phật nói

                        Trong ḷng rất sợ nghi

                        Phải chăng ma giả Phật

                        Năo loạn ḷng ta ư ?

                        Phật dùng các món duyên

                        Thí dụ khéo nói phô

                        Ḷng kia an như biển

                        Con nghe, lưới nghi dứt

                        Phật nói thuở quá khứ

                        Vô lượng Phật diệt độ

                        An trụ trong phương tiện

                        Cũng đều nói pháp đó

                        Phật hiện tại, vị lai

                        Số nhiều cũng vô lượng

                        Cũng dùng các phương tiện

                        Diễn nói pháp như thế

                        Như Thế Tôn ngày nay

                        Từ sanh đến xuất gia

                        Được đạo chuyển pháp luân

                        Cũng dùng phương tiện nói

                        Thế Tôn nói đạo thật

                        Ba-tuần không nói được.

                        V́ thế con định biết

                        Không phải ma giả Phật

                        Con sa vào lưới nghi

                        Cho là ma làm ra

                        Nghe tiếng Phật êm dịu

                        Sâu xa rất nhiệm mầu

                        Nói suốt pháp thanh tịnh

                        Tâm con rất vui mừng

                        Nghi hối đă hết hẳn

                        An trụ trong thiệt trí

                        Con quyết sẽ thành Phật

                        Được trời, người cung kính

                        Chuyển pháp luân vô thượng

                        Giáo hóa các Bồ-tát.

GIẢNG :

Khi mới nghe Phật nói những vị A-la-hán, Duyên giác tuy chứng Niết-bàn, nhưng không phải thật, ngài Xá-lợi-phất tưởng chừng như ma hóa ra Phật nói. V́ ngày xưa Phật dạy pháp Tứ đế là lư chân thật, ngày nay lại nói Diệt đế chưa phải là cứu kính, chưa phải là Niết-bàn nên Ngài nghi. Nhưng Ngài nghe Thế Tôn giảng chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai khi ra đời giáo hóa đều dùng phương tiện như nhau, trước nói ba thừa rồi sau nói Phật thừa, nhờ vậy mà Ngài tin chắc đó là lời Phật nói không phải là ma. Nên Ngài nói rằng nay nghe tiếng Phật rất êm dịu, sâu xa nhiệm mầu thanh tịnh, Ngài vui mừng hết nghi, tin chắc sẽ thành Phật, nói pháp Đại thừa giáo hóa Bồ-tát. Tới đây ngài Xá-lợi-phất có ḷng tin bất thối chuyển không c̣n lui sụt nữa, quyết định sẽ tiến tới quả Phật, v́ vậy mà sau này được thọ kư thành Phật.

Chúng ta nghe Phật nói, có đủ ḷng tin ḿnh có sẵn Tri kiến Phật, khởi tâm tu th́ sẽ thành Phật không ? Tri kiến Phật là cái nhân, là hạt giống Phật, nếu đă tiến tu không thối chuyển th́ nhất định sẽ thành Phật không nghi. Và được thọ kư vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật, không cố định thời gian dài ngắn, quyết định sẽ thành Phật. Đó là then chốt mà người tụng hay tŕ kinh Pháp Hoa phải nắm vững. Nếu tŕ kinh Pháp Hoa mà c̣n mong cầu cho có phước, giàu sang, vui tươi, mát mẻ... th́ chưa đúng tinh thần tŕ kinh Pháp Hoa.

6. CHÁNH VĂN :

*Lúc bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ta nay ở trong hàng trời, người, Sa-môn, Bà-la-môn mà nói. Ta xưa từng ở nơi hai muôn ức Phật v́ đạo Vô thượng nên thường giáo hóa ông, ông cũng lâu dài theo ta thọ học, ta dùng phương tiện dẫn dắt ông sanh vào trong pháp ta.

Xá-lợi-phất ! Ta thuở xưa dạy ông chí nguyện Phật đạo, ông nay đều quên mà bèn tự nói đă được diệt độ. Ta nay lại muốn khiến ông nghĩ nhớ bổn nguyện cùng đạo đă làm, mà v́ các Thanh văn nói kinh Đại thừa tên là “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”.

GIẢNG :

Đức Phật Thích-ca mới thành Phật trong đời này, tại sao ở đây lại nói đức Phật đă từng ở hai muôn ức Phật, v́ đạo Vô thượng thường giáo hóa ngài Xá-lợi-phất, ngài Xá-lợi-phất cũng đă từ lâu theo Phật thọ học, và được Phật phương tiện dẫn dắt cho vào pháp Phật ? Phật lâu xa đó là chỉ cho Phật pháp thân, c̣n Phật thành đạo ở Ấn Độ là Phật hóa thân. Đứng về mặt Pháp thân th́ ai cũng có Pháp thân Phật, nên nói Phật từng giáo hóa từ xa xưa, và đă từng dạy cho ngài Xá-lợi-phất tu với chí nguyện thành Phật, nhưng v́ ngài Xá-lợi-phất quên đi. Khi nghe pháp Nhị thừa, Ngài tu được diệt độ bèn cho là đă đủ. V́ vậy mà đức Phật đă nhắc lại hạnh nguyện xưa của ngài Xá-lợi-phất, rồi mới v́ hàng Thanh văn nói kinh Pháp Hoa, để thấy tất cả mọi người ai cũng có bản nguyện thành Phật. Bản nguyện đó chính là Phật tánh sẵn có nơi mỗi người, nhưng v́ quên, nên khi nghe pháp nhỏ liền chấp nhận và tu rồi tự hài ḷng nơi đó. Bây giờ Phật nhắc ai cũng sẵn có Tri kiến Phật và ai tu cũng sẽ thành Phật, chừng đó mới chợt nhận ra tu là phải thành Phật, chớ từng bậc quả vị chỉ là tạm thời thôi.

7. CHÁNH VĂN :

*Xá-lợi-phất ! Ông đến đời vị lai, quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị kiếp, cúng dường bao nhiêu ngh́n muôn ức Phật, phụng tŕ chánh pháp đầy đủ đạo tu hành của Bồ-tát sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Nước tên Ly Cấu, cơi đó bằng thẳng, thanh tịnh đẹp đẽ, an ổn, giàu vui, trời, người đông đảo. Lưu ly làm đất, có tám đường giao thông, dây bằng vàng ṛng để giăng bên đường, mé đường đều có hàng cây bằng bảy báu, thường có bông trái. Đức Hoa Quang Như Lai cũng dùng ba thừa giáo hóa chúng sanh.

Xá-lợi-phất ! Lúc đức Phật ra đời dầu không phải đời ác mà bởi bổn nguyện nên nói pháp ba thừa. Kiếp đó tên là “Đại Bửu Trang Nghiêm”. V́ sao gọi là “Đại Bửu Trang Nghiêm” ? V́ trong cơi đó dùng Bồ-tát làm “Đại Bửu” vậy. Các Bồ-tát đó số đông vô lượng vô biên bất khả tư nghị, tính kể hay thí dụ đều không kịp đến được, chẳng phải sức trí huệ của Phật không ai có thể biết được. Khi muốn đi th́ có bông đỡ chân.

Các vị Bồ-tát đó không phải hàng mới phát tâm, đều đă trồng cội đức từ lâu. Ở nơi vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật, tịnh tu phạm hạnh, hằng được các Phật ngợi khen. Thường tu trí tuệ của Phật, đủ sức thần thông lớn, khéo biết tất cả các pháp môn, ngay thật không dối, chí niệm bền vững, bậc Bồ-tát như thế, khắp đầy nước đó.

Xá-lợi-phất ! Đức Phật Hoa Quang thọ mười hai tiểu kiếp, trừ lúc c̣n làm vương tử chưa thành Phật. Nhân dân nước đó thọ tám tiểu kiếp. Đức Hoa Quang Như Lai quá mười hai tiểu kiếp thọ kư đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho Kiên Măn Bồ-tát mà bảo các Tỳ-kheo: Ông Kiên Măn Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Hoa Túc An Hành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, cơi nước của đức Phật đó cũng lại như đây.

Xá-lợi-phất ! Sau khi Phật Hoa Quang đó diệt độ, chánh pháp trụ lại trong đời ba mươi hai tiểu kiếp, tượng pháp trụ trong đời cũng ba mươi hai tiểu kiếp.

Lúc ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                        *Xá-lợi-phất đời sau

                        Thành đấng Phật trí khắp

                        Hiệu rằng: Phật Hoa Quang

                        Sẽ độ vô lượng chúng

                        Cúng dường vô số Phật

                        Đầy đủ hạnh Bồ-tát

                        Các công đức thập lực

                        Chứng đặng đạo Vô thượng

                        Quá vô lượng kiếp rồi

                        Kiếp tên Đại Bửu Nghiêm

                        Cơi nước tên Ly Cấu

                        Trong sạch không vết nhơ

                        Dùng lưu ly làm đất

                        Dây vàng giăng đường sá

                        Cây bảy báu sắc đẹp 

                        Thường có hoa cùng trái

                        Bồ-tát trong cơi đó

                        Chí niệm thường bền vững

                        Thần thông, Ba-la-mật

                        Đều đă trọn đầy đủ

                        Nơi vô số đức Phật

                        Khéo học đạo Bồ-tát

                        Những đại sĩ như thế

                        Phật Hoa Quang hóa độ

                        Lúc Phật làm vương tử

                        Rời nước bỏ vinh hoa

                        Nơi thân cuối rốt sau

                        Xuất gia thành Phật đạo.

                        Phật Hoa Quang trụ thế

                        Thọ mười hai tiểu kiếp

                        Chúng nhân dân nước đó

                        Sống lâu tám tiểu kiếp

                        Sau khi Phật diệt độ

                        Chánh pháp trụ ở đời

                        Ba mươi hai tiểu kiếp

                        Rộng độ các chúng sanh

                        Chánh pháp diệt hết rồi

                        Tượng pháp cũng băm hai

                        Xá-lợi rộng truyền khắp

                        Trời, người khắp cúng dường

                        Phật Hoa Quang chỗ làm

                        Việc đó đều như thế

                        Đấng Lưỡng Túc Tôn kia

                        Rất hơn không ai bằng

                        Phật tức là thân ông

                        Nên phải tự vui mừng.

GIẢNG :

Phật thọ kư cho ngài Xá-lợi-phất trong đời vị lai, vô lượng vô biên bất khả tư ngh́ kiếp, cúng dường ngh́n ức Phật, hộ tŕ chánh pháp đầy đủ đạo hạnh của Bồ-tát, sẽ thành Phật hiệu là Hoa Quang Như Lai. Phật thọ kư ngài Xá-lợi-phất vô lượng vô biên bất khả tư ngh́ kiếp sẽ thành Phật. Thời gian thành Phật quá xa mà ngài Xá-lợi-phất vui mừng cho rằng “Được việc chưa từng có.” Nếu chúng ta thời nay được Phật thọ kư với thời gian lâu xa như vậy sẽ thành Phật, chắc là không mừng, v́ tu lâu quá nên ngán. Thọ kư khoảng năm mười năm thành Phật th́ khả dĩ vui mừng và lo tu hành cho mau được kết quả. Có phải chúng ta sốt sắng mong mau thành Phật hơn ngài Xá-lợi-phất không ?

Như trước đă nói Tri kiến Phật là cái không hạn cuộc ở  không gian và thời gian. V́ nó là cái chưa từng sanh cũng như chưa từng diệt, nên nói bao nhiêu kiếp cũng là vô nghĩa. Chỉ biết ḿnh có Phật tánh và tin ḿnh tu sẽ thành Phật là đủ rồi. Chúng ta v́ c̣n kẹt trên thời gian, chưa nhận ra Tri kiến Phật, chỉ nhận cái thân tứ đại là ḿnh, sống khoảng năm sáu chục năm là chết. Nên nghe nói vô lượng vô biên bất khả tư ngh́ kiếp, thấy quá xa không tin ḿnh có thể thực hiện được. Đâu ngờ chính Tri kiến Phật mới thật là ḿnh. Ngài Xá-lợi-phất đă nhận ra Tri kiến Phật chính là ḿnh, biết có Phật nhân chắc chắn Phật quả không mất phần, nên dầu có bỏ bao nhiêu cái thân tứ đại duyên hợp tạm bợ này cũng không đáng kể. Chỉ cần Phật ấn chứng là an ḷng là măn nguyện rồi.

Ngày nay chúng ta nghe nói tu khoảng một tỷ kiếp mới thành Phật th́ buồn, thấy lâu xa quá không đủ kiên nhẫn để tu, nên xao lăng thối chí. Đó là do tâm sinh diệt nhỏ hẹp lệ thuộc thời gian, nên nghe Phật nói đến thời gian lâu xa không thể nghĩ lường th́ hoảng sợ không đủ ḷng tin. Có nhiều người tu hạn định trong khoảng thời gian ba năm hoặc năm năm phải đạt đạo. Thoạt nghe th́ dường như người ấy có ư chí dơng mănh đáng khen. Nhưng nếu tu ba năm, năm năm không đạt đạo th́ sao ? Thối Bồ-đề tâm, đó là cái bệnh. Người tu mà nôn nóng mong mau thành đạo là người ư chí dơng mănh hay người tham lam lười nhác ? Ví dụ người chân yếu nghe nói cảnh đẹp nhưng đường dài, th́ ngao ngán không muốn đi. Với người chân khoẻ, đường dài th́ mặc đường dài, cứ nhắm đích mà thẳng tiến, không do dự không ngại ngùng, đó là người dơng mănh gan dạ, bền chí.

Cũng vậy, chư Bồ-tát Thanh văn trong pháp hội ḷng tin và ư chí đă vững, tuy Phật thọ kư trong khoảng thời gian lâu xa như vậy mà các Ngài hoan hỉ vui mừng, tâm không chao động thối lui. Chúng ta ngày nay ḷng tin không vững, thiếu nghị lực, tu muốn cho mau đạt đạo nên dễ bị gạt, rơi vào đường tà, rẽ ngă này tẽ ngă kia, rốt cuộc rồi không đến đích. Đó là bệnh chung của đa số người tu Phật hiện nay. Với người tu chân chính một phen nghe Phật dạy, biết rơ tu là để giác ngộ thành Phật, lúc nào cũng thấy rơ lẽ thực hư của các pháp, không lầm, không mong dễ, không mong mau, không ham hào nhoáng hấp dẫn, cứ như thế mà sống cho đến khi hoàn toàn triệt ngộ là đến đích thành Phật. Những cái hào nhoáng hấp dẫn thu hút là cái quảng cáo dối gạt người tu. Lư đạo chân thật th́ thậm thâm vi diệu, lặng lẽ, không nổi bật, không phô trương màu mè để thu hút người. Nếu người tu Phật càng chạy theo những cái phô trương hấp dẫn là càng xa với đạo.

Phật thọ kư ngài Xá-lợi-phất thành Phật, nước tên Ly Cấu, kiếp tên Đại Bửu. Cơi nước ta-bà ngũ trược của đức Phật Thích-ca, chúng sanh nhiều nghiệp ác nên Phật mới phương tiện dùng Ngũ thừa hoặc Tam thừa để giáo hóa. Tại sao cơi nước Ly Cấu là cơi nước thanh tịnh, Phật cũng dùng ba thừa để giáo hóa ? Đây là bản nguyện của tất cả chư Phật mười phương đều dùng phương tiện nói ba thừa. Sở dĩ gọi kiếp tên Đại Bửu Trang Nghiêm là v́ kiếp đó có vô số Bồ-tát tu hành thanh tịnh, là những bậc cao minh trang nghiêm cơi Phật, chớ không phải cơi đó trang nghiêm bằng châu báu vàng bạc.

Qua dữ kiện này, chúng ta thấy chùa nào Tăng Ni tu hành chân chánh thanh tịnh th́ chùa đó được người đời quí trọng. Nếu chùa nào Tăng Ni phạm trai phá giới, tu hành lôi thôi th́ người đời xem thường. Như vậy người đời quí kính là quí kính tâm người cao đẹp thanh tịnh, nếu tâm người ô uế bất tịnh th́ không quí. Vậy, chư Tăng Ni đừng quan niệm rằng cất chùa cho thật to, thỉnh Phật cho thật lớn, trang hoàng cho thật lộng lẫy là người đời quí trọng chùa ḿnh. Người đời quí kính là quí kính người tu chân chính cầu đạo giải thoát, chớ không phải trọng cảnh đẹp. Cho nên người tu ngộ đạo dù cho vị đó mặc áo vá, ăn cơm hẩm, ở hang đá hay am tranh, người ta vẫn t́m đến lễ bái cúng dường. Đạo lư là ở nơi con người, người thanh tịnh mới đáng tôn kính quí trọng. Như vậy, người tu đừng có tâm mơ mộng tạo chùa cảnh cho đẹp để mai kia ḿnh trụ tŕ, mà phải cố gắng nỗ lực tu, chính ḿnh tu chân chính mới dạy được người tu đàng hoàng, đó là trang nghiêm chùa cảnh.

Muốn cơi Phật ḿnh được trang nghiêm th́ phải thực hiện đủ hai môn phước và tuệ. Về phần tuệ tự ḿnh phải nỗ lực tu tỉnh để được giác ngộ viên măn, về phần phước th́ phải giáo hóa chúng sanh. Khi đă giáo hoá chúng sanh viên măn th́ thành Phật. Giả sử đời này chúng ta ngộ đạo là đă có trí tuệ, nhưng chưa giáo hóa chúng sanh làm sao có phước ? Sở dĩ Bồ-tát khi thành Phật có vô số đồ đệ Thanh văn Bồ-tát, là những bậc tu phạm hạnh, tu trí tuệ Phật, có sức thần thông lớn, khéo biết tất cả pháp môn, tâm ngay thật, chí bền vững, là do thời gian hành Bồ-tát đạo giáo hóa chúng sanh lâu dài, nên mới có quyến thuộc đông như vậy và có phước tṛn đầy nên mới được tôn xưng là Lưỡng Túc Tôn. Ngày nay, chúng ta tu muốn năm năm bảy năm thành Phật, trong khi chưa độ sanh làm sao được phước tuệ viên măn ? Vậy nếu được Phật thọ kư khoảng thời gian lâu dài sẽ thành Phật, chúng ta có buồn ngán không ? Thời gian tu tập lâu dài th́ việc lợi sanh cũng nhiều, phước đức thêm lớn. Khi việc tự giác giác tha đă viên măn th́ mới đủ phước và tuệ để thành Phật, quyến thuộc mới đông nhiều để trang nghiêm cơi Phật đúng như hạnh nguyện. Tu chỉ muốn năm năm, bảy năm thành Phật, làm sao có đủ phước huệ để thành Phật ? Dù muốn thành cũng không thể thành.

Đoạn này có hai điểm đáng lưu ư. Kiếp chót của đức Thích-ca thành Phật sanh làm vương tử, ở đây Phật thọ kư cho ngài Xá-lợi-phất kiếp chót thành Phật cũng làm vương tử và các đức Phật cũng đều như vậy. Tại sao đời chót của chư Phật đều sanh làm vương tử mà không sanh trong gia đ́nh bần cùng ?  V́ khi Bồ-tát tu tới quả vị Nhất sanh bổ xứ th́ phước đức vô lượng vô biên, nên sanh làm vương tử mà không sanh vào chỗ xấu ác. Hơn nữa, vương tử bỏ ngôi đi tu, để cho mọi người thấy rằng Ngài đang ở trong ngũ dục lạc sung măn, mà gan dạ từ bỏ ngũ dục lạc, khiến cho mọi người ngưỡng mộ kính phục để giáo hóa họ. Và một vương tử có đủ quyền thế mà c̣n từ bỏ, trong khi mọi người là những kẻ không có chút quyền hành, sao không gan dạ xả bỏ để tu ?

Phần trùng tụng lặp lại ư trên nên tôi không giảng, tuy nhiên bốn câu chót: Đấng Lưỡng Túc Tôn kia, rất hơn không ai bằng, Phật tức là thân ông, nên phải tự vui mừng. Tại sao nói “Phật tức là thân ông” ? V́ ngài Xá-lợi-phất nhận ra Tri kiến Phật của chính ḿnh, nên Ngài tin chắc sẽ thành Phật, và Ngài cũng được Phật thọ kư thành Phật. Bởi ngay nơi thân năm uẩn phàm phu này có sẵn Phật nhân nên nói Phật tức là thân này. Trong Chứng Đạo Ca của thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác, đoạn mở đầu có câu “Huyễn hóa không thân tức Pháp thân” nghĩa là ngay nơi thân năm uẩn duyên hợp huyễn hóa này tức là Pháp thân; Pháp thân không rời thân năm uẩn này mà có. Ngay thân năm uẩn của mỗi người ai cũng có sẵn Pháp thân, nhưng v́ không dám nhận nên tự thấy ḿnh là kẻ phàm phu vô phần, nếu đủ ḷng tin dám nhận th́ thấy ḿnh có phần, sẽ thành Phật. Vậy không cần t́m kiếm Phật ở đâu xa, chỉ khéo nhận Pháp thân chân thật ngay nơi thân năm uẩn huyễn hóa này, và hằng sống với Pháp thân chân thật th́ được an vui tự tại. Nên nói: Phật tức là thân ông, nên phải tự vui mừng.

8. CHÁNH VĂN :

*Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và cả đại chúng: trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà v.v... thấy Xá-lợi-phất ở trước Phật lănh lấy lời dự ghi sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ḷng rất vui mừng hớn hở vô lượng. Mỗi người đều cổi y trên của ḿnh đang đắp để cúng dường Phật. Thích-đề hoàn-nhân cùng Phạm Thiên vương v.v... và vô số thiên tử cũng đem y đẹp của trời, hoa trời mạn-đà-la, ma-ha mạn-đà-la v.v... cúng dường nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm ngh́n muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trỗi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: “Đức Phật xưa ở thành Ba-la-nại, ban đầu chuyển pháp luân, đến nay mới lại chuyển pháp luân rất lớn Vô thượng”.

Lúc đó các thiên tử muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                        *Xưa ở thành Ba-nại

                        Chuyển pháp luân bốn đế

                        Phân biệt nói các pháp

                        Sanh diệt của năm nhóm

                        Nay lại chuyển pháp luân

                        Rất lớn diệu Vô thượng

                        Pháp đó rất sâu mầu

                        Ít có người tin được.

                        Chúng ta từ xưa lại

                        Thường nghe Thế Tôn nói

                        Chưa từng nghe thượng pháp

                        Thâm diệu như thế này.

                        Thế Tôn nói pháp đó

                        Chúng ta đều tùy hỉ

                        Đại trí Xá-lợi-phất

                        Nay được lănh Phật kư

                        Chúng ta cũng như vậy

                        Quyết sẽ đặng thành Phật

                        Trong tất cả thế gian

                        Rất tôn không c̣n trên

                        Phật đạo chẳng thể bàn

                        Phương tiện tùy nghi nói

                        Ta bao nhiêu nghiệp phước

                        Đời nay hoặc quá khứ

                        Và công đức thấy Phật

                        Trọn hồi hướng Phật đạo.

GIẢNG :

Lần đầu đức Phật nói pháp Tứ đế ở vườn Lộc Uyển, để phá ngă chấp cho năm anh em ông Kiều- trần-như khiến chứng Niết-bàn Thanh văn. Nay đức Phật nói pháp vô thượng vi diệu khó tin khó hiểu, mà ngài Xá-lợi-phất có khả năng tin nhận và được Phật thọ kư, cho nên tất cả thính chúng trong pháp hội đều vui mừng tùy hỉ. Theo các kinh A-hàm th́ ngài Xá-lợi-phất là đệ tử lớn của Phật, là người được thời trí, tức là trí tuệ ứng đối kịp thời, hỏi là đáp không cần suy nghĩ, khiến cho người nghe tiếp nhận dễ dàng, nên được khen ngợi là người trí tuệ bậc nhất, là hàng thượng căn. Khi nghe Phật nói pháp tối thượng vi diệu th́ Ngài ngộ trước. Cả hội chúng đều hớn hở vui mừng cúng dường y, cúng dường hoa lên đức Phật. Đó là tâm tùy hỉ của người xưa v́ đạo. C̣n phần đông chúng ta ngày nay thấy có người hơn ḿnh th́ø không vui, khởi lên những niệm tỵ hiềm, nên tu không tiến là ở chỗ đó. Phần trùng tụng lặp lại ư trên không có ǵ khác nên khỏi giảng.

9. CHÁNH VĂN :

*Bấy giờ, Xá-lợi-phất bạch rằng: “Thế Tôn ! Con nay không c̣n nghi hối, tự ḿnh ở trước Phật đặng thọ kư thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị tâm tự tại một ngh́n hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật thường dạy rằng: Pháp của ta hay ĺa sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết-bàn. Các vị hữu học, vô học đây cũng đều đă tự rời chấp ngă cùng chấp có, chấp không v.v... nói là đặng Niết-bàn, mà nay ở trước đức Thế Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế Tôn ! Xin Phật v́ bốn chúng nói nhân duyên đó, khiến ĺa ḷng nghi hối.”

GIẢNG :

Ngài Xá-lợi-phất thấy chỉ có Ngài và Bồ-tát Kiên Măn được thọ kư, số người c̣n lại chưa được thọ kư. Với tâm lượng của đàn anh, Ngài được lợi ích thế nào th́ cũng muốn cho huynh đệ được lợi ích như thế ấy, nên Ngài bạch với Phật rằng nay con không c̣n nghi hối, được Phật thọ kư. C̣n 1250 vị Tỳ-kheo thuộc hàng hữu học và vô học ở trong chúng, thường theo Phật nghe pháp Tứ đế tu chứng Niết-bàn, nghe Thế Tôn nói về Tri kiến Phật, các Tỳ-kheo ấy nghi ngờ không biết ḿnh có kham làm Phật không ? Ngài Xá-lợi-phất muốn đức Phật v́ 1250 Tỳ-kheo ấy mà giải thích rơ hơn, nên Ngài vừa tán thán công đức những vị ấy vừa cầu xin đức Phật thương xót mà nói pháp cho họ hết nghi lầm, đều được thọ kư như Ngài. Đó là tâm hạnh của Bồ-tát. C̣n tâm lượng phàm phu th́ khác, chỉ muốn ḿnh hơn người chớ không muốn người bằng ḿnh, v́ có người bằng ḿnh th́ ḿnh mất giá trị. Đó là tâm bệnh của chúng ta hiện nay.

10. CHÁNH VĂN :

*Khi ấy, Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Ta trước đâu không nói rằng: Các Phật Thế Tôn dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư ? Các điều nói đó đều v́ dạy hàng Bồ-tát vậy. Nhưng Xá-lợi-phất ! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rơ lại nghĩa đó, những người có trí do thí dụ mà đặng hiểu”.

GIẢNG :

Tới đây, đức Phật bắt đầu chỉ cho mọi người biết rằng đoạn trước chư Phật dùng phương tiện này phương tiện nọ để giáo hóa chúng sanh, nhưng cuối cùng chỉ đưa họ đến quả vị Phật. Bây giờ muốn rơ th́ nghe Phật thí dụ:

11. CHÁNH VĂN :

*Xá-lợi-phất ! Như trong quốc, ấp, tụ lạc có vị Đại trưởng giả tuổi đă già suy, của giàu vô lượng, có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông: hoặc một trăm, hai trăm, cho đến năm trăm người, lầu gác đă mục, vách phên sụp đổ, chưn cột hư nát, trính xuyên xiêu ngă, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.

Các người con của Trưởng giả hoặc mười người, hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người ở trong nhà đó.

*Trưởng giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn, không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà ḷng chẳng nhàm lo, không có ư cầu ra khỏi.

Xá-lợi-phất ! Ông Trưởng giả đó lại nghĩ: Thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghế v.v... từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: Nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngă bị lửa đốt cháy, ta nên v́ chúng nó mà nói những việc đáng sợ.

Nhà này đă bị cháy phải liền mau ra, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế rồi theo chỗ đă nghĩ đó mà bảo các con: “Các con mau ra !” Cha dầu thương xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng khứng tin chịu, chẳng sợ sệt, trọn không có ḷng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu ǵ là lửa ? Ǵ là nhà ? Thế nào là hại ? Chỉ cứ Đông Tây chạy giỡn nh́n cha mà thôi.

GIẢNG :

Đây là cái cớ đầu tiên của bậc đại trí, đức Phật đưa ví dụ ông Trưởng giả tuổi già, giàu có, nhiều ruộng vườn tôi tớ, nhà rộng lớn chỉ có một cửa để ra vào, cột kèo trính xuyên hư mục, vách phên xiêu vẹo, con trong nhà có hàng mấy chục người đang nô đùa chơi giỡn, bỗng lửa bốc cháy bốn phía nhà.

Thấy lửa bốc cháy, ông Trưởng giả lo ngại và nghĩ rằng ông tuy ở trong nhà lửa, nếu muốn ra th́ ra một cách dễ dàng, c̣n đám con của ông cứ mải miết chơi giỡn, không hề hay biết, không hề sợ lửa đốt cháy thân ḿnh, cũng không có ư muốn ra khỏi nhà lửa. Ông Trưởng giả bảo các con mau ra khỏi nhà lửa, thế mà các người con không nghe nh́n ông rồi cứ chạy giỡn.

Nhà lửa là chỉ cho cơi Dục, cơi Sắc và cơi Vô sắc đang bị lửa vô thường, lửa tham, sân, si thiêu đốt, mà chúng sanh ở trong ba cơi này không hay biết, không có ư muốn ra. Chúng ta sống trong cơi đời này, một ngày trôi qua là một ngày bị lửa vô thường thiêu đốt ṃn một phần thân thể, một tháng trôi qua là một tháng bị lửa vô thường thiêu đốt thân ḿnh, một năm trôi qua là một năm bị lửa vô thường thiêu hoại h́nh hài. Rồi 60 năm, 70 năm, 80 năm toàn thân con người bị thiêu rụi, hoàn toàn sụp đổ. Lửa vô thường thiêu đốt, làm hư hoại người vật từng giây phút, từng ngày giờ, từng năm tháng mà chúng ta không hay không biết ! Xưa ông Trụ tŕ Thiện Phát ở Phước Ḥa có vóc dáng tráng kiện, tươi trẻ, khi tới Huệ Nghiêm cũng c̣n khỏe mạnh, rồi tới Chân Không sức cũng c̣n kha khá, bây giờ ở Thường Chiếu th́ đă già nua yếu đuối. Đó là một bằng chứng cụ thể, lửa vô thường âm thầm thiêu đốt tất cả người vật không ngừng nghỉ.

Chúng ta xét kỹ rồi thương ḿnh thương người, dù cho người có nhiều tiền của, nhà lầu, xe hơi, quyền thế danh vọng cũng không thoát được cái nạn lửa vô thường thiêu đốt. Vậy mà con người cứ mải đuổi theo danh lợi quyền thế và mong cho ngày tháng qua mau, trông chờ xuân đến để thực hiện những mộng mơ ước muốn của ḿnh cho tốt. Đâu ngờ rằng mong ngày tháng qua mau, là mong lửa vô thường sớm thiêu rụi h́nh hài này ! Tâm người quá mâu thuẫn, luôn luôn sợ chết, không muốn chết sớm, mà mong ngày tháng qua mau, thật là mê lầm điên đảo đáng thương. Nên Phật thuyết giáo cho biết thân là vô thường, các pháp là hư dối, tuy có nghe nhưng vẫn c̣n mê say ngũ dục, chưa có ư muốn ra khỏi. Cũng giống như những đứa con ông Trưởng giả, tuy nghe cha nói nhà cháy sắp sụp đổ, nguy hiểm tới rồi, mà vẫn cứ mải mê chơi giỡn, không chịu chạy ra, không nghe lời cha khuyên bảo. Đó là những đứa con ngu si bất hiếu. Vậy mà đêm nào chúng ta cũng lạy Phật cầu nguyện: Con kính tin Tam bảo, học tu theo giáo pháp Phật để được giải thoát sanh tử. Và những buổi sám hối qú thưa có vẻ thống thiết lắm, nhưng rồi th́ chứng nào tật nấy không chịu sửa đổi.

Đời sống của người tu là đời sống cao thượng, ư thức được lư vô thường, biết rơ lửa vô thường đang âm ỉ đốt cháy thân ḿnh, mong muốn thoát ra khỏi nhà lửa nên mới đi tu. Thế mà khi đi tu rồi lại quên, cũng t́m cách này cách nọ để giải trí cho vui, giết chết th́ giờ vô ích. Để thời giờ và công sức vào việc tu học th́ thấy như làm một việc khó nhọc cực khổ. Thí dụ tối và khuya tôi tăng giờ tụng kinh và ngồi thiền th́ quí vị ngán, than không kham nổi. C̣n nếu để cho quí vị vui chơi văn nghệ tới khuya th́ không ai than thở, lại c̣n lấy làm thích thú. Vậy văn nghệ có cứu quí vị thoát khỏi lửa vô thường thiêu đốt không ? Hay chỉ là những tṛ chơi giải trí cho vui, qua rồi th́ mất ? Việc tu là việc cấp thiết để giải khổ th́ lại lơ là !

V́ biết chư Tăng Ni có chí nguyện xuất gia cầu giải thoát sanh tử, tức là cầu ra khỏi nhà lửa, cho nên tôi khuyến khích thúc đẩy cho quí vị nỗ lực tu hành. Khuyến khích thúc đẩy là cái duyên tốt đưa quí vị ra khỏi sanh tử luân hồi, mà quí vị không biết đón nhận, lại có ư tránh né. Có người nói ở đây vừa làm việc, vừa học, vừa tu cực quá, để đi chỗ khác tu cho khỏe. Tu là tu cho quí vị chớ đâu phải tu cho tôi, quí vị tu một ngày là quí vị được lợi ích một ngày, tôi có được lợi ích ǵ đâu ? Chúng ta mê muội tập khí sâu dày, tuy có tỉnh giác phát nguyện xuất gia, tuy xuất gia nhưng lâu rồi quên, trở lại  thói  cũ  là ngu si của thuở xưa, cũng ham chơi, chạy theo những thú vui của thế tục, chớ không chịu lo tu hành để giải thoát sanh tử . Nếu là người trí khi đă xuất gia rồi th́ trong ḷng đau đáu, nghĩ phải làm sao thoát khỏi cái nhà lửa này, chớ không ngồi yên chờ cho lửa cháy tới thiêu rụi cả nhà, cả thân. Khi nào ra khỏi nhà lửa rồi mới an ổn vui chơi. Ngày nào c̣n trong nhà lửa là ngày đó phải tỉnh giác, biết sợ cái hiểm nguy của lửa vô thường thiêu đốt mà cố gắng thoát ra.

12. CHÁNH VĂN :

*Bấy giờ Trưởng giả liền nghĩ, nhà này đă bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không liền ra chắc sẽ bị cháy, ta nay nên bày chước phương tiện khiến cho các con được khỏi nạn này.

Cha biết các con đều vẫn có ḷng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: “Đây này là những món ít có, khó đặng mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa, nên mau ra đây, tùy ư các con muốn, cha đều sẽ cho các con.”

Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ư ḿnh, nên ḷng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng đua nhau ruổi chạy, tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó Trưởng giả thấy các con đặng an ổn ra khỏi nhà lửa, đều ở trong ngă tư đường ngồi nơi đất trống không c̣n bị chướng ngại, tâm ông thơ thới vui mừng hớn hở.           

Bấy giờ các người con đều thưa với cha rằng: “Cha lúc năy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho.”

GIẢNG :

Nghiệm lại mới thấy cái si mê của chúng ta quá lắm, đang bị nguy hiểm bủa vây, đáng sợ mà không sợ, lại cứ mải miết tham mê, Phật kêu ra mà không ra. Thật đáng thương ! Cho nên Ngài mới t́m cách dẫn dụ.

Trưởng giả biết các con ham chơi, ưa thích đồ quí đẹp, nên bảo: “Các con mau ra khỏi nhà lửa, cha sẽ cho đồ chơi quí tốt như xe dê, xe hươu, xe trâu, ở ngoài cửa sẽ tùy ư dạo chơi, hăy ra mau !” Các người con nghe có đồ chơi tốt quí sanh ḷng ham thích, đua nhau chạy ra.

Tất cả chúng ta đều mê lầm nên Phật nói thẳng lẽ thật, chúng ta không kham tin nhận nên Ngài phải dùng phương tiện dụ dỗ mới chịu nghe. Cái mà đem ra dụ dỗ th́ không thật, nhưng đức Phật lại nói. Tuy là cái dụ dỗ không thật mà vẫn hơn. Khi chúng sanh tu để ra khỏi nhà lửa tam giới, chỉ nghĩ sẽ được quả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Nhưng khi ra khỏi nhà lửa rồi th́ được Phật chỉ cho Phật thừa b́nh đẳng, quá sức tưởng tượng, quá điều mong ước của chúng sanh.

Tới đây, chúng ta mới thấy ḷng từ bi của đức Phật vô lượng vô biên, Ngài dùng đủ mọi phương tiện dẫn dụ, thế mà chúng ta có người nghe có người không nghe, cứ quanh quẩn trong cảnh nguy hiểm khổ đau không chịu ra. Thậm chí Ngài phải khai thác tâm lư để dẫn dụ: Ráng niệm Phật chừng mười câu, nếu được nhất tâm bất loạn th́ được Phật A-di-đà và Thánh chúng đón về Cực lạc, ở đó không có khổ, cực kỳ vui sướng, muốn ǵ được nấy. Ngài biết chúng sanh đang ham mê ngũ dục lạc ở thế gian: Ham tiền của, vàng bạc châu báu, Phật nói ở cơi Cực lạc đất cát th́ bằng vàng, có lan can, lưới, cây, ao bằng bảy báu, lầu các làm bằng pha lê, xa cừ, xích châu, mă năo. Chúng sanh tham ưa mùi thơm, sắc đẹp, tiếng hay th́ Phật nói cơi Cực lạc có hoa sen lớn, có ánh sáng đủ màu, mùi thơm vi diệu, có nhạc trời, chim báu ngày đêm ca hát với âm thanh tuyệt diệu. Thích ăn ngon Phật nói ở Cực lạc muốn ăn liền có ăn... toàn là những cái đúng với sở thích của chúng sanh. Như vậy cho thấy đức Phật từ bi đáo để và rất khéo dùng phương tiện trị bệnh đam mê dục lạc của chúng sanh ở cơi này. Phật nói thẳng chúng sanh không nghe, không tin, nên phải dẫn dụ, dụ bằng cách này không được th́ dụ bằng cách khác. Thấy tâm lượng của Phật, chúng ta vừa tôn kính Phật, mà cũng vừa tức cười cho ḿnh là đứa bé bị dụ dỗ !

13. CHÁNH VĂN :

*Xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu, lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch, thân h́nh mập đẹp, có sức rất mạnh, bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.

V́ cớ sao ? V́ ông Trưởng giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: “Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy ḷng b́nh đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác.

V́ sao ? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hăy c̣n không thiếu huống ǵ các con”. Lúc ấy, các người con đều ngồi xe lớn đặng điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia ḿnh trông.

GIẢNG :

Ông Trưởng giả dụ những người con ra khỏi nhà lửa sẽ cho ba xe, nhờ vậy mà chúng đua nhau chạy ra khỏi nhà lửa. Khi chúng ra rồi ông Trưởng giả không cho ba xe, mà chỉ cho xe trâu trắng lớn bậc nhất, trang trí bằng những vật quí giá. Sở dĩ ông cho như vậy là v́ tâm ông b́nh đẳng không muốn có sự sai biệt giữa các con. Vả lại ông là người giàu có của cải vô lượng, giả sử cho xe tốt đó khắp người trong thiên hạ cũng không thiếu. Vậy, xe trâu trắng đó là dụ cho Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi người; nếu biết quay lại với chính ḿnh, không đuổi theo trần cảnh th́ Tri kiến Phật hiện tiền, lúc bấy giờ an vui, tự do, tự tại, vô ngại.

Qua thí dụ này, chúng ta thấy cái đặc biệt của đạo Phật là nêu lên những cảnh vô thường, khổ năo, bất như ư thường xuyên chi phối con người. Sau khi chỉ cho thấy những khổ đau rồi dạy phải tu để thoát khỏi cảnh khổ đó, th́ sẽ được an vui tự tại vô ngại. Mới thoạt nh́n thấy đạo Phật như bi quan, nhưng nếu biết nh́n và biết sống đúng lẽ thật th́ đạo Phật rất lạc quan và tích cực.

14. CHÁNH VĂN :

*Xá-lợi-phất ! Ư của ông nghĩ sao ? Ông Trưởng giả đó đồng đem xe trân báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng ? Xá-lợi-phất thưa: “Thưa Thế Tôn ! Không, ông Trưởng giả đó chỉ làm cho các người con đặng khỏi nạn lửa, toàn thân mạng chúng nó chẳng phải là hư vọng. V́ sao ? Nếu được toàn thân mạng bèn đă được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.

Thế Tôn ! Dầu ông Trưởng giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ c̣n chẳng phải hư vọng. V́ sao ? V́ ông Trưởng giả đó trước có ư nghĩ như vầy: Ta dùng chước phương tiện cho các con được ra khỏi, v́ nhân duyên đó nên không hư vọng vậy. Huống ǵ ông Trưởng giả tự biết ḿnh của giàu vô lượng muốn lợi ích cho các con mà đồng cho xe lớn.”

GIẢNG :

Đức Phật hỏi ngài Xá-lợi-phất: Ông Trưởng giả hứa cho ba xe, bấy giờ các con ra khỏi nhà lửa, ông chỉ cho có một xe trâu trắng, như vậy ông có lỗi dối gạt không ? Ngài Xá-lợi-phất trả lời không. V́ ông Trưởng giả muốn cho các con khỏi bị lửa thiêu đốt thân mạng, nên dùng phương tiện dẫn dụ cho ra khỏi nhà lửa để thoát khỏi nạn khổ. Chẳng những không cho xe nhỏ mà lại cho xe lớn là điều quá tốt, quá sức tưởng tượng của các con, khiến chúng được điều chưa từng có, lợi ích vui sướng khôn lường. Cũng vậy, Phật thuyết pháp lặp ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát rơ ràng. Tới đây Phật nói ba thừa đó không thật, chỉ có Phật thừa mới là cứu kính. Như vậy là sao ? Điều này chúng ta phải hiểu cho thật kỹ. Đức Phật với tâm b́nh đẳng thương chúng sanh như nhau, không muốn có sự sai biệt giữa người này với người khác. Sở dĩ trước Phật lặp ba thừa là v́ căn cơ chúng sanh c̣n thấp, nên Phật tùy theo đó mà phương tiện hướng dẫn từ từ. Nay chúng đă đủ khả năng tin nhận nên Phật chỉ thẳng Phật thừa rốt ráo, để tất cả đều được lợi ích như nhau.

15. CHÁNH VĂN :

*Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Hay thay ! Hay thay ! Như lời ông nói, Xá-lợi-phất ! Như Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ hăi suy năo lo buồn vô minh che tối hết hẳn không c̣n thừa, mà trọn thành tựu vô lượng Tri kiến, Trí lực, Vô sở úy, có sức đại thần thông cùng sức trí huệ đầy đủ các món phương tiện, trí huệ Ba-la-mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi. Hằng v́ cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa: Sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ năo, ngu si tối tăm, ba độc; dạy bảo cho chúng sanh đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

*Ta thấy các chúng sanh bị những sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ năo nó đốt cháy, cũng v́ năm món dục tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại v́ tham mê đeo đuổi t́m cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa ngục, súc sanh, ngạ quỉ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người yêu thường xa ĺa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế mà chúng sanh ch́m trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng chẳng sanh ḷng nhàm, không cầu giải thoát; ở trong nhà lửa tam giới này Đông Tây rảo chạy, dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.”

GIẢNG :

Đức Phật là bậc trí tuệ viên măn, có đủ trí lực, vô sở úy, thần thông, ba-la-mật, v́ thương tất cả chúng sanh c̣n đang mê đắm ngũ dục trong nhà lửa tam giới, nên Ngài mới nguyện sinh vào trong nhà lửa này để độ tất cả ra khỏi nhà lửa. Lửa đó là lửa: sanh, già, bệnh, chết, tham, sân, si, lo, buồn. Lửa sanh, già, bệnh, chết âm ỉ thiêu đốt con người từ lúc tóc xanh cho tới bạc đầu không lúc nào dừng nghỉ. C̣n lửa tham tài, tham sắc, tham danh... người muốn có nhiều tiền của hay danh vọng th́ phải lao thần, hao khí, tổn giảm sức lực nhiều mới có tiền tài, danh vọng, và đă có rồi th́ phải phí công ǵn giữ. Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật có thí dụ: “Một cây hương khi được đốt lên, mùi hương lan tỏa dần ra, người xung quanh ngửi được mùi thơm th́ cây hương cháy đă gần tàn.” Cũng vậy, khi chúng ta tạo cho đủ điều kiện để thành danh, có quyền lợi th́ sức lực đă hao ṃn, thân già tóc bạc... Nếu tham mà không được thỏa măn th́ sân hận nổi lên, hoặc lo buồn dấy khởi, tinh thần rối loạn, nói xằng làm bậy, thân tâm bất an, sức khỏe suy yếu. Đó là lửa tham, lửa sân, lửa si thiêu đốt con người, khiến cho người khổ đau bất tận.

Sở dĩ chúng ta bị sanh, già, bệnh, chết, tham, sân, lo, buồn, khổ năo đốt cháy, là v́ chúng ta thích ưa năm món dục lạc ở thế gian là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Mắt th́ mê sắc đẹp, tai th́ ưa tiếng hay, mũi th́ thích mùi thơm, lưỡi th́ ưa vị ngon, thân th́ thích xúc chạm cái trơn, láng, mềm, ấm... Nếu chạy theo năm món đó th́ con người đau khổ. Suốt ngày đi làm nhọc mệt cho có tiền, để ăn cho thật ngon, mặc cho thật đẹp rồi tối đi xem hát, nghe nhạc... Cả ngày làm vất vả nhọc nhằn chỉ để thỏa măn năm món dục lạc. Càng đuổi theo dục lạc càng bị lửa tham dục, lửa sân hận, lửa si mê đốt cháy khốn khổ vô cùng. Chẳng những khổ trong đời hiện tại, mà chính v́ đuổi theo danh lợi, tài sắc mà con người gây nhiều tội lỗi tày trời. Khi đă tạo những cái nhân tày trời rồi, th́ quả khổ địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh ở đời sau không tránh khỏi. Và thọ báo xong, nếu trở lại làm người th́ cũng làm người cùng khổ, lại bị cái khổ người yêu thương xa ĺa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ; bao nhiêu thứ khổ dồn dập không có ngày dừng, không có ngày ra.

?


[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]

[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]

[Trang chu] [Kinh sach]