DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 2: PHƯƠNG TIỆN (tt) 22. CHÁNH VĂN : Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng: *Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni Cưu ḷng tăng thượng mạn Cận sự nam ngă mạn Cận sự nữ chẳng tin, Hàng bốn chúng như thế Số kia có năm ngh́n Chẳng tự thấy lỗi ḿnh Nơi giới có thiếu sót Tiếc giữ tội quấy ḿnh Trí nhỏ đó đă ra Bọn cám tấm trong chúng Oai đức Phật phải đi Gă đó kém phước đức Chẳng kham lănh pháp này Chúng nay không cành lá Chỉ có những hột chắc. GIẢNG : Đức Phật nói những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ trong tứ chúng, có khoảng năm ngàn người là những kẻ kém duyên phước, trí nhỏ hẹp, thuộc hàng tăng thượng mạn, họ không kham nhận pháp Phật nên bỏ đi. Sau khi họ bỏ đi, Phật mới nói: Bây giờ trong chúng không c̣n cám tấm, cành lá úa, chỉ c̣n hạt chắc thôi. 23. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất khéo nghe ! Pháp của các Phật được Vô lượng sức phương tiện Mà v́ chúng sanh nói. Tâm của chúng sanh nghĩ Các món đạo ra làm Bao nhiêu những tánh dục Nghiệp lành dữ đời trước, Phật biết hết thế rồi Dùng các duyên thí dụ Lời lẽ sức phương tiện Khiến tất cả vui mừng, Hoặc là nói Khế kinh, Cô khởi cùng Bổn sự, Bổn sanh, Vị tằng hữu, Cũng nói những Nhân duyên, Thí dụ và Trùng tụng Luận nghị cọng chín kinh. Căn độn ưa pháp nhỏ Tham chấp nơi sanh tử Nơi vô lượng đức Phật Chẳng tu đạo sâu mầu Bị các khổ năo loạn V́ đó nói Niết-bàn, Ta bày phương tiện đó Khiến đều vào huệ Phật. Chưa từng nói các ông Sẽ được thành Phật đạo Sở dĩ chưa từng nói V́ giờ nói chưa đến, Nay chính là đến giờ Quyết định nói Đại thừa. GIẢNG : Phật nói cho tất cả hội chúng biết rằng pháp mà Phật được, có sức phương tiện vô cùng, biết tường tận nhân duyên quả báo của sáu loài chúng sanh. Ngài nói pháp dùng những phương tiện như: - Khế kinh: Lời dạy của Phật hợp với căn cơ chúng sanh, bằng thể văn xuôi, c̣n gọi là Trường hàng. - Trùng tụng: Một thể văn thuyết pháp của Phật lặp lại ư của đoạn văn Trường hàng bằng kệ tụng. - Bổn sự: Những việc làm, những kiến văn ở đời trước của Phật do Phật thuật lại. - Bổn sanh: Phật nhắc lại tiền kiếp của Ngài hay của đệ tử. - Vị tằng hữu: Việc chưa từng có, khó hiểu, khó tin. - Nhân duyên: Phật giải về căn bổn của quả báo từ gốc tới ngọn. - Thí dụ: Dùng một mẩu chuyện để so sánh cho dễ hiểu. - Cô khởi: Thi văn tự ḿnh xướng lên lúc thuyết pháp. - Luận nghị: Biện luận sâu rộng, khúc chiết, mạch lạc cho dễ hiểu. Đó là những thể tài thuyết pháp mà Phật đă dùng hoặc đủ chín phần hoặc không đủ chín phần trong mỗi bộ kinh. Phật tùy thời tùy cơ mà nói, dẫn dụ chúng sanh đi từ thấp đến cao, cuối cùng đưa đến Phật thừa là chỗ cứu kính. 24. CHÁNH VĂN : *Chín bộ pháp của ta Thuận theo chúng sanh nói Vào Đại thừa làm gốc Nên mới nói kinh này Có Phật tử tâm tịnh Êm dịu cùng căn lợi Nơi vô lượng các Phật Mà tu đạo sâu mầu, V́ hàng Phật tử này Nói kinh Đại thừa đây Ta ghi cho người đó Đời sau thành Phật đạo Bởi thâm tâm niệm Phật Tu tŕ tịnh giới vậy Hạng này nghe thành Phật Rất mừng đầy khắp ḿnh, Phật biết tâm của kia Nên v́ nói Đại thừa, Thanh văn hoặc Bồ-tát Nghe ta nói pháp ra Nhẫn đến một bài kệ Đều thành Phật không nghi. GIẢNG : Sở dĩ Phật nói chín bộ pháp đó là v́ thuận theo căn cơ của chúng sanh mà nói, chớ bản hoài của Phật là chỉ cho chúng sanh một Phật thừa mà thôi. Nếu ai nghe Phật thừa này, đem ḷng tin và nói cho người khác nghe th́ được Phật thọ kư sau này sẽ thành Phật. V́ tâm họ nhớ nghĩ Phật rất sâu xa, không tự măn ở những cấp bậc thấp, quyết định họ sẽ thành Phật. 25. CHÁNH VĂN : *Trong cơi Phật mười phương Chỉ có một thừa pháp Không hai cũng không ba Trừ Phật phương tiện nói Chỉ dùng danh từ giả Dắt dẫn các chúng sanh V́ nói trí tuệ Phật. Các Phật ra nơi đời Chỉ một việc này thiệt Hai thứ chẳng phải chân. Trọn chẳng đem Tiểu thừa Mà tế độ chúng sanh Phật tự trụ Đại thừa Như pháp của ḿnh được Định, huệ, lực, trang nghiêm Dùng đây độ chúng sanh. Tự chứng đạo Vô thượng Pháp b́nh đẳng Đại thừa Nếu dùng Tiểu thừa độ Nhẫn đến nơi một người Thời ta đọa san tham Việc ấy tất không được Nếu người tin về Phật Như Lai chẳng dối gạt Cũng không ḷng tham ganh Dứt ác trong các pháp Nên Phật ở mười phương Mà riêng không chỗ sợ. Ta dùng tướng trang nghiêm Ánh sáng soi trong đời Đấng vô lượng chúng trọng V́ nói thiệt tướng ấn. GIẢNG : Đoạn này Phật lặp lại ư chính của chư Phật mười phương ra đời là chỉ nói một Phật thừa, chứ không có thừa thứ hai hay thứ ba. Tại sao ? V́ quả vị cùng tột mà Ngài chứng được là quả Phật, nếu để lại ít phần không chỉ dạy rốt ráo, đó là thiếu ḷng từ, tâm c̣n xan lẩn, sợ người hơn ḿnh. Phật là đấng Đại từ Đại bi, không xan lẩn, nên cái ǵ Ngài được, Ngài muốn cho tất cả mọi người đều được như Ngài. Nếu mọi người chưa được như Ngài th́ Ngài chưa măn nguyện, không bằng ḷng. V́ vậy mà cuối cùng Ngài nói: “Đấng vô lượng chúng trọng, v́ nói thiệt tướng ấn.” Thông thường trong nhà Phật có nêu ra Tam pháp ấn, Tứ pháp ấn, hoặc Nhất thật pháp ấn, để làm dấu ấn xác minh coi pháp đó có phải Phật nói không. Tam pháp ấn là: chư hành vô thường, chư pháp vô ngă, Niết-bàn tịch tịnh; Tứ pháp ấn là: vô thường, khổ, không, vô ngă; Nhất thật pháp ấn cũng là Thật tướng ấn. Ấn là dấu in để ấn chứng. Muốn biết kinh nào là thật của Phật nói hay không phải của Phật nói, th́ phải lấy Tam pháp ấn, Tứ pháp ấn hay Nhất thật pháp ấn để làm chỗ ấn chứng. Nhất thật pháp ấn là chỉ cho mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nếu tu th́ sẽ thành Phật. Kinh Pháp Hoa, Phật nói tột chỗ đó nên gọi là “Thật tướng ấn”. 26. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Nên biết ! Ta vốn lặp thệ nguyện Muốn cho tất cả chúng Bằng như ta không khác Như ta xưa đă nguyện Nay đă đầy đủ rồi Độ tất cả chúng sanh Đều khiến vào Phật đạo Nếu ta gặp chúng sanh Dùng Phật đạo dạy cả Kẻ vô trí rối sai Mê lầm không nhận lời Ta rơ chúng sanh đó Chưa từng tu cội lành Chấp chặt nơi ngũ dục V́ si ái sanh khổ Bởi nhân duyên các dục Sa vào ba đường dữ Xoay lăn trong sáu nẻo Chịu đủ những khổ độc Thân mọn thọ bào thai Đời đời tăng trưởng luôn Người đức mỏng ít phước Các sự khổ bức ngặt Vào rừng rậm tà kiến Hoặc chấp có, chấp không Nương gá các chấp này Đầy đủ sáu mươi hai Chấp nhận pháp hư vọng Bền chặt không bỏ được Ngă mạn tự khoe cao Dua nịnh ḷng không thiệt Trong ngh́n muôn ức kiếp Chẳng nghe danh tự Phật Cũng chẳng nghe chánh pháp Người như thế khó độ. GIẢNG : Lời thệ nguyện của đức Phật Thích-ca cũng như chư Phật mười phương là muốn làm sao cho tất cả chúng sanh đều được bằng Phật. Nhưng v́ tâm trí chúng sanh mê mờ rối loạn, tà kiến, tham ưa ngũ dục, không bao giờ tu pháp lành, nên trôi lăn trong ba đường dữ chịu mọi khổ đau, do đó không bao giờ nghe được danh hiệu Phật. Những chúng sanh này rất là khó độ. 27. CHÁNH VĂN : *Cho nên Xá-lợi-phất ! Ta v́ bày phương tiện Nói các đạo dứt khổ Chỉ cho đó Niết-bàn Ta dầu nói Niết-bàn Cũng chẳng phải thiệt diệt Các pháp từ bổn lai Tướng thường tự vắng lặng Phật tử hành đạo rồi Đời sau được thành Phật Ta có sức phương tiện Mở bày pháp ba thừa Tất cả các Thế Tôn Đều nói đạo Nhứt thừa Nay trong đại chúng này Đều nên trừ nghi lầm Lời Phật nói không khác Chỉ một, không hai thừa. GIẢNG : V́ hàng chúng sanh khó độ nên Phật mới bày phương tiện dứt các khổ cho họ được Niết-bàn. Niết-bàn đó là Niết-bàn của Nhị thừa. Tuy nói Niết-bàn, nhưng chẳng phải thật diệt. V́: Các pháp từ bổn lai Tướng thường tự vắng lặng. Từ trước chúng ta thường nghe Phật dạy các pháp ở thế gian này là biến động vô thường, tại sao ở kinh này Phật lại nói “các pháp từ xưa đến nay tướng thường tự vắng lặng” ? Chữ “tướng” ở đây phải hiểu là “thật tướng”, tức là thể tánh của các pháp. Chúng ta quán sát thấy các pháp trên thế gian này tướng nó là biến động, có đó rồi mất đó. Ví dụ như cái đồng hồ, thông thường máy chạy, kim quay, chúng ta căn cứ trên kim đồng hồ, định ngày giờ mà làm việc. Nếu máy không chạy kim không quay, th́ đồng hồ không xài được. Như vậy, tất cả pháp thế gian được hữu dụng là do linh động có sự sống, nếu nó bất động coi như là chết vô dụng. Đó là cái thấy thông thường của thế gian. Nhưng nếu nh́n sâu hơn, chúng ta mở chốt đồng hồ ra, để riêng từ bộ phận th́ máy không chạy, kim không quay; nếu ráp các bộ phận ấy lại th́ máy đồng hồ chạy, kim đồng hồ quay. Như vậy, các pháp biến động là do duyên hợp mà có, chớ thực thể của nó vốn không động, nên nói tự tánh các pháp vốn tịch diệt. Cũng vậy, tự tâm của mỗi người, khi mắt thấy người thấy cảnh... rồi khởi niệm nghĩ về người về cảnh đó là động niệm, mà động niệm là tướng duyên hợp sinh diệt vô thường, đủ duyên th́ tạm có, thiếu duyên th́ tạm không, không có thực thể cố định. Như vậy, pháp do duyên mà thành có hay thành không, th́ pháp đó không thật. C̣n pháp không do duyên mà thành, đó là cái chân thật. Vậy, tất cả pháp ở thế gian này, nếu đứng về mặt bản thể mà nh́n, không có một pháp nào biến động vô thường cả. Sở dĩ thấy các pháp vô thường biến động là v́ chưa thấy tột cùng bản thể của nó, nên theo t́nh chấp mà thấy có động tịnh, có vô thường. Nếu thấy tột cùng bản thể của nó th́ thấy các pháp nguyên là bất động, lặng lẽ. Ngay nơi bản thân con người sự sống và sự chết là do cái ǵ ? Sống là do duyên, mà chết cũng do duyên. Vậy sống chết là chuyện của duyên; đă là chuyện của duyên th́ không phải là chuyện của ḿnh. Ngay nơi sống chết biết đó là tướng của duyên th́ chúng ta không c̣n bị sống chết chi phối nữa, sự sống chết đối với chúng ta rất thường, không quan trọng. Xưa có thiền sư đọc tới hai câu trên Ngài nghi: Tại sao các pháp từ xưa đến nay tướng thường vắng lặng ? Ngài ôm ấp thắc mắc măi trong ḷng. Một sáng mùa xuân nọ, Ngài ngồi trước cửa chùa, bỗng thấy chim hoàng oanh đậu trên cành liễu hót, Ngài hoát nhiên ngộ đạo, liền đọc tiếp hai câu: Xuân đáo bách hoa khai Hoàng oanh đề liễu thượng. Hợp lại thành bài thơ bốn câu: Chư pháp tùng bản lai, Thường tự tịch diệt tướng. Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng oanh đề liễu thượng. Mùa xuân đến th́ trăm hoa nở, chim hoàng oanh đậu trên cành liễu cất tiếng hót. Tất cả pháp, thể vốn không động, khi duyên hợp th́ động, xuân sang th́ hoa nở, chim hót. Xuân sang, hoa nở, chim hót là duyên. Cái động đó là động của duyên. Ngài thấy rơ ngay trong các pháp thể tánh nó vốn lặng lẽ, mà tướng dụng của nó th́ biến động, như hoa nở, chim hót khi xuân đến. Ngộ đạo là thấy cùng tột bản thể của sự vật, cũng như nhận ra thể tánh của chính ḿnh, đồng thời cũng biết rơ tướng dụng sinh động của nó không lầm lẫn. Chúng ta v́ c̣n mê nên lầm chấp tướng dụng của các pháp cho là thật, đó là gốc của khổ đau. Người học đạo, nếu thấy tột chỗ cứu kính này th́ sẽ thành Phật không nghi, c̣n nếu chấp tướng động của thân của nghiệp th́ vẫn là chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử. Đoạn này cốt nói rơ mục tiêu của chư Phật, v́ thương xót chúng sanh mê lầm nên măi chịu khổ. Các Ngài dùng nhiều phương tiện giải bày cho hết khổ. Chỗ cứu kính mà Phật muốn chỉ là Phật thừa, chớ không có thừa thứ hai thứ ba. 28. CHÁNH VĂN : *Vô số kiếp đă qua Vô lượng Phật diệt độ Trăm ngh́n muôn ức Phật Số nhiều không lường được Các Thế Tôn như thế Các món duyên thí dụ Vô số ức phương tiện Diễn nói các pháp tướng Các đức Thế Tôn đó Đều nói pháp Nhứt thừa Độ vô lượng chúng sanh Khiến vào nơi Phật đạo Lại các đại Thánh chúa Biết tất cả thế gian Trời, người loài quần sanh Thâm tâm chỗ ưa muốn Bèn dùng phương tiện khác Giúp bày nghĩa đệ nhứt. GIẢNG : Đoạn này lặp lại ư đoạn trước. Vô số đức Phật đời quá khứ dùng mọi phương tiện giáo hóa chúng sanh khiến cho vào Phật đạo. 29. CHÁNH VĂN : *Nếu có loài chúng sanh Gặp các Phật quá khứ Hoặc nghe pháp bố thí Hoặc tŕ giới, nhẫn nhục Tinh tấn, thiền trí thảy Các món tu phước huệ Những người như thế đó Đều đă thành Phật đạo Sau các Phật diệt độ Nếu người ḷng lành dịu Các chúng sanh như thế Đều đă thành Phật đạo. GIẢNG : Nếu có những chúng sanh gặp chư Phật đời quá khứ, dược các Ngài dạy tu Lục độ, những chúng sanh đó hay tu dược Lục độ th́ họ đă thành Phật. Và sau khi Phật diệt độ, những chúng sanh có ḷng lành dịu, th́ cũng đều đă thành Phật đạo. 30. CHÁNH VĂN : *Các Phật diệt độ rồi Người cúng dường xá-lợi Dựng muôn ức thứ tháp Vàng, bạc và pha lê Xa cừ cùng mă năo Ngọc mai khôi, lưu ly Thanh tịnh rộng nghiêm sức Trau giồi nơi các tháp Hoặc có dựng miếu đá Chiên-đàn và trầm thủy Gỗ mật cùng gỗ khác Gạch ngói bùn đất thảy Hoặc ở trong đồng trống Chứa đất thành miếu Phật Nhẫn đến đồng tử giỡn Nhóm cát thành tháp Phật Những hạng người như thế Đều đă thành Phật đạo. GIẢNG : Phật quá khứ đă diệt độ, nếu có ai xây tháp bằng vàng, bạc, pha lê... hoặc xây bằng gỗ, gạch, ngói, bùn, đất, cho đến trẻ con chơi làm tháp Phật để cúng dường, tất cả những người đó đều đă thành Phật đạo. 31. CHÁNH VĂN : *Nếu như người v́ Phật Xây dựng các h́nh tượng Chạm trổ thành các tướng Đều đă thành Phật đạo Hoặc dùng bảy báu làm Thau, đồng bạch, đồng đỏ Chất nhôm cùng ch́ kẽm Sắt, gỗ cùng với bùn Hoặc dùng keo, sơn, vải Nghiêm sức làm tượng Phật Những người như thế đó Đều đă thành Phật đạo Vẽ vời làm tượng Phật Trăm tướng phước trang nghiêm Tự làm hoặc bảo người Đều đă thành Phật đạo Nhẫn đến đồng tử giỡn Hoặc cỏ cây và bút Hoặc lấy móng tay ḿnh Mà vẽ làm tượng Phật Những hạng người như thế Lần lần chứa công đức Đầy đủ tâm đại bi Đều đă thành Phật đạo Chỉ dạy các Bồ-tát Độ thoát vô lượng chúng. GIẢNG : Nếu các chúng sanh v́ Phật mà tạo h́nh tượng Ngài bằng bảy báu, hoặc dùng các thứ kim loại, hoặc dùng gỗ, bùn, keo, sơn, vải tạc thành tượng Phật, cho đến trẻ con dùng ngón tay hay dùng cây cỏ vẽ thành tượng Phật; nhờ tích chứa công đức, đầy đủ tâm đại bi, nên họ đều đă thành Phật đạo. 32. CHÁNH VĂN : *Nếu người nơi tháp miếu Tượng báu và tượng vẽ Dùng hoa, hương, phan, lọng Ḷng kính mà cúng dường Hoặc khiến người trỗi nhạc Đánh trống, thổi sừng ốc Tiêu địch, cầm, không hầu Tỳ bà, chụp chả đồng Các tiếng hay như thế Đem dùng cúng dường hết Hoặc người ḷng vui mừng Ca ngâm khen đức Phật Nhẫn đến một tiếng nhỏ Đều đă thành Phật đạo. GIẢNG : Nếu người ở trước tượng Phật hay tháp miếu Phật mà cúng dường hoa, hương, phan, lọng, hoặc dùng các loại nhạc cụ trỗi nhạc để cúng dường, hay ca ngâm khen ngợi Phật đều đă thành Phật đạo. 33. CHÁNH VĂN : *Nếu người ḷng tán loạn Nhẫn đến dùng một bông Cúng dường nơi tượng vẽ Lần thấy các đức Phật Hoặc có người lễ lạy Hoặc lại chỉ chấp tay Nhẫn đến giơ một tay Hoặc lại hơi cúi đầu Dùng đây cúng dường tượng Lần thấy vô lượng Phật Tự thành đạo Vô thượng Rộng độ chúng vô số Vào Vô dư Niết-bàn Như củi hết lửa tắt. Nếu người ḷng tán loạn Vào nơi trong tháp miếu Một xưng Nam-mô Phật Đều đă thành Phật đạo Nơi các Phật quá khứ Tại thế, hoặc diệt độ Có người nghe pháp này Đều đă thành Phật đạo. GIẢNG : Nếu người ḷng tán loạn thấy tượng Phật họ lễ lạy, hoặc chỉ chấp tay, giơ tay, hoặc hơi cúi đầu để cúng dường Phật, th́ lần lần thấy vô lượng Phật, tự thành đạo Vô thượng, độ tất cả chúng sanh vào vô dư Niết-bàn. Hoặc những người ḷng tán loạn vào tháp miếu thờ Phật, niệm Nam-mô Phật đều đă thành Phật đạo. Đối với chư Phật thời quá khứ, những chúng sanh nào tạo được những phước duyên như vừa nêu th́ đều đă thành Phật đạo. Câu đều đă thành Phật đạo cốt nhấn mạnh ư nghĩa: Tất cả chúng sanh ai cũng có sẵn Tri kiến Phật, nhưng v́ mê lầm quên đi nên trầm luân trong lục đạo luân hồi. Bây giờ đủ duyên thức tỉnh, biết quay về th́ sớm muộn ǵ cũng sẽ thành Phật. V́ đă có sẵn hạt giống, biết đem ra ươm trồng, thế nào rồi cũng thành quả. Đó là nói đối với người ở thời Phật quá khứ, dù chưa có ḷng tin nhưng khi phát ḷng tin hướng về Phật th́ họ đều đă thành Phật đạo. 34. CHÁNH VĂN : *Các Thế Tôn vị lai Số nhiều không thể lường Các đức Như Lai đó Cũøng phương tiện nói pháp Tất cả các Như Lai Dùng vô lượng phương tiện Độ thoát các chúng sanh Vào trí vô lậu Phật Nếu có người nghe pháp Không ai chẳng thành Phật Các Phật vốn thệ nguyện Ta tu hành Phật đạo Khắp muốn cho chúng sanh Cũng đồng được đạo này Các Phật đời vị lai Dầu nói trăm ngh́n ức Vô số các pháp môn Kỳ thiệt v́ Nhứt thừa Các Phật Lưỡng Túc Tôn Biết pháp thường không tánh Giống Phật theo duyên sanh Cho nên nói Nhứt thừa. Pháp đó trụ ngôi pháp Tướng thế gian thường c̣n Nơi đạo tràng biết rồi Đức Phật phương tiện nói Hiện tại mười phương Phật Của trời người cúng dường Số nhiều như hằng sa Hiện ra nơi thế gian V́ an ổn chúng sanh Cũng nói pháp như thế Biết vắng bặt thứ nhứt Bởi dùng sức phương tiện Dầu bày các món đạo Kỳ thiệt v́ Phật thừa Biết các hạnh chúng sanh Thâm tâm nó nghĩ nhớ Nghiệp quen từ quá khứ Tánh dục, sức tinh tấn Và các căn lợi độn Dùng các món nhân duyên Thí dụ cùng lời lẽ Tùy cơ phương tiện nói. GIẢNG : Chư Phật đời vị lai nhiều vô số, dùng vô số phương tiện độ chúng sanh, cũng không ngoài mục đích chỉ cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật, nên nói rằng: Biết pháp thường không tánh, giống Phật theo duyên sanh, cho nên nói nhất thừa. Tại sao nói các pháp thế gian thường không tánh ? Tất cả pháp thế gian do duyên hợp mà có giả tướng, đă là giả tướng do duyên hợp mới có th́ không có tự tánh cố định. Ví dụ cái nhà gồm cột, kèo, đ̣n tay, gạch ngói... hợp lại tạm gọi là cái nhà. Nếu chỉ có cột mà không có đ̣n tay, ngói... th́ không thành cái nhà, hoặc có ngói gạch mà không có kèo cột... cũng không thành cái nhà. Như vậy, cái nhà là tướng do duyên hợp, nó không có tự thể cố định, nên nói các pháp thường không tánh. Tại sao nói giống Phật theo duyên sanh ? Duyên sanh ở đây không có nghĩa do duyên hợp sanh ra giống Phật, mà nơi mỗi chúng sanh đều có sẵn Phật tánh, nếu được thầy giáo hóa khai ngộ và tự ḿnh tu tỉnh th́ Phật tánh sẽ hiển hiện. V́ vậy nên nói giống Phật theo duyên sanh. Phật v́ biết chúng sanh có sẵn giống Phật, nên Ngài chỉ nói pháp Nhứt thừa để cho chúng sanh tu thành Phật, chớ không nói thừa nào khác. Pháp đó trụ ngôi pháp, tướng thế gian thường c̣n nghĩa là pháp đó ở đúng bản vị của nó, tướng thế gian thường trụ. Nếu chúng ta nh́n sự vật theo tướng nhân duyên ḥa hợp th́ thấy nó hư giả, chợt có chợt không, nên vô thường, không có tự thể cố định. Chính tự thể không cố định là cái tướng thường c̣n không biến dịch không thay đổi. Ví dụ như nước ở nhiệt độ trung b́nh th́ lỏng, ở nhiệt độ cao bốc thành hơi, ở 0o th́ đông thành khối. Tùy theo duyên mà h́nh tướng nước có đổi thay từ lỏng sang cứng hay hơi, nhưng trên thể tánh của nước vẫn là ướt, không đổi thay, là thường c̣n. Đa số kinh A-hàm đều đứng trên mặt tướng dụng mà diễn nói, c̣n các kinh Đại thừa th́ đứng trên bản thể của các pháp mà thuyết minh. Như vậy, nếu nh́n trên h́nh tướng th́ thấy các pháp đổi thay vô thường. Nếu nh́n sâu đến thể tánh th́ thấy thật tướng của các pháp là thường c̣n. Tuy Phật biết thể tánh của các pháp là như vậy, nhưng v́ chúng sanh chưa đủ sức thấy như Phật, nên Ngài phương tiện nói tướng dụng của các pháp là vô thường để dắt dẫn lần lần họ đi sâu vào bản thể. Hiểu như vậy mới không thấy mâu thuẫn và thấy rơ điểm đặc biệt của kinh Pháp Hoa: Qui Tam thừa về Nhất thừa. CHÁNH VĂN : *Ta nay cũng như vậy V́ an ổn chúng sanh Dùng các món pháp môn Rao bày nơi Phật đạo Ta dùng sức trí tuệ Rơ tánh dục chúng sanh Phương tiện nói các pháp Đều khiến được vui mừng Xá-lợi-phất nên biết ! Ta dùng mắt Phật xem Thấy sáu đường chúng sanh Nghèo cùng không phước huệ Vào đường hiểm sanh tử Khổ nối luôn không dứt Sâu tham nơi ngũ dục Như trâu “mao” mến đuôi Do tham ái tự che Đui mù không thấy biết Chẳng cầu Phật thế lớn Cùng pháp dứt sự khổ Sâu vào các tà kiến Lấy khổ muốn bỏ khổ Phật v́ chúng sanh này Mà sanh ḷng đại bi. GIẢNG : Sau khi Phật thành đạo biết rơ tâm bịnh của chúng sanh, v́ muốn cho họ an ổn nên Ngài nói pháp đúng như chỗ họ muốn, v́ vậy tất cả đều được vui mừng. Phật dùng trí tuệ nh́n thấy chúng sanh lăn lộn trong sáu đường, nghèo phước đức, nghèo trí tuệ, nên mải đi trên con đường sanh tử hiểm trở không có ngày dừng. Ngay cả chư thiên ở cơi trời tuy sang quí nhưng đức Phật cũng vẫn thấy đó là hàng chúng sanh c̣n ch́m trong dục lạc, vẫn c̣n bị sanh tử vô thường chi phối, nên Phật nói chưa đủ phước tuệ; nếu đủ phước tuệ th́ thoát ly sanh tử, dứt luân hồi. Nếu c̣n đi trong ṿng luân hồi sanh tử th́ khổ này nối tiếp khổ kia, không bao giờ dứt. Như thai nhi ở trong bụng mẹ êm ấm, khi ra đời bất thần bị nóng lạnh cọ xát đó là khổ. Lúc c̣n nhỏ được cha mẹ nuôi dưỡng chu đáo, nhưng thỉnh thoảng cũng bị ốm đau bức ngặt đó là khổ. Đến tuổi già răng rụng, mắt mờ, tai điếc, bịnh hoạn thúc bách đó là khổ. Rồi chết đến hơi thở dồn dập bức ngặt là khổ. Đó là một ḍng khổ đuổi nhau từ lúc mở mắt chào đời cho tới ngày nhắm mắt, chung cuộc của kiếp người, chẳng những chỉ một đời này khổ mà c̣n tiếp diễn tới nhiều đời sau, triền miên không dứt. Thế mà mọi người đối với ngũ dục thế gian lại tưởng là vui... cứ đeo đuổi nắm bắt. Thế nên ở đây Phật mới nói ḷng tham ngũ dục của con người, giống như con trâu mao mến cái đuôi. Trâu mao có đuôi dài và đẹp đi đâu cũng gác cái đuôi trên lưng, không để cái đuôi lết dưới đất hay dùng đuôi để đuổi ruồi muỗi, v́ sợ dơ và rụng lông. Để thấy, đó là cái mê mờ của chúng sanh, đă đi trong đường khổ mà không ư thức được cái khổ, cứ ham thích bám giữ, để rồi ch́m sâu trong khổ đau. Tất cả mọi khổ đau đều từ tham muốn mà có, bao giờ hết tham muốn là hết khổ, mà người đời cứ nuôi ḷng tham muốn nên khổ măi. V́ vậy đức Phật nói: Tham ái là cái che lấp, làm cho chúng sanh mờ tối không thấy được lẽ thật. Thí dụ hai bà mẹ có hai đứa con chơi chung, chúng bất ḥa căi lộn, mỗi bà v́ quá thương con nên không c̣n biết phải quấy, đứng ra bênh vực con ḿnh cũng căi lộn nhau. Người ḿnh thương th́ quấy cũng thành phải, người ḿnh ghét th́ phải cũng thành quấy, không mù là ǵ ? Tất cả mọi thấy biết của chúng sanh đều theo ḷng tham ái của chính ḿnh, nói và làm theo cái tham ái đó, nên không thấy được lẽ thật. V́ vậy mà Phật nói chúng sanh đui mù. Bởi đui mù nên càng ngày càng ch́m sâu trong tà kiến, bám lấy khổ mà muốn bỏ khổ. Kinh A-hàm, Phật dạy chúng sanh bị sanh mà cầu sanh, bị vô thường mà cầu cái vô thường. Tức là thân này bị sanh ra đă khổ, khi sắp già chết lại muốn đời sau tái sanh mang thân khác. Chính thân này đă vô thường, lại ham muốn những cái vô thường khác. Chẳng hạn mong có chiếc xe thật tốt để khỏi đi bộ cho đỡ khổ nhưng khi được rồi, thời gian sau nó hư phải nhọc công sửa chữa lại càng thêm khổ. Đó là tự thân đă khổ mà muốn lấy khổ để bỏ khổ. Thế nên, Phật khởi tâm đại bi thương xót chúng sanh tham ái mù tối, mà v́ họ nói pháp độ cho hết khổ. 36. CHÁNH VĂN : *Xưa, ta ngồi đạo tràng Xem cây cùng kinh hành Trong hai mươi mốt ngày Suy nghĩ việc như vầy: Trí huệ của ta được Vi diệu rất thứ nhứt Chúng sanh các căn chậm Tham vui si làm mù Các hạng người như thế Làm sao mà độ được? Bấy giờ các Phạm vương Cùng các trời Đế-thích Bốn Thiên vương hộ đời Và trời Đại Tự Tại Cùng các thiên chúng khác Trăm ngh́n ức quyến thuộc Chắp tay cung kính lễ Thỉnh ta chuyển pháp luân. Ta liền tự suy nghĩ Nếu chỉ khen Phật thừa Chúng sanh ch́m nơi khổ Không thể tin pháp đó Do phá pháp không tin Rớt trong ba đường dữ Ta thà không nói pháp Mau vào cơi Niết-bàn Liền nhớ Phật quá khứ Thật hành sức phương tiện Ta nay chứng được đạo Cũng nên nói ba thừa. GIẢNG : Xưa đức Phật mới thành đạo, hoặc Ngài ngồi ngay đạo tràng, hoặc đi dạo trong vườn cây, hoặc đi kinh hành trên đường thẳng; suốt hai mươi mốt ngày, Phật nghĩ rằng trí tuệ mà Ngài chứng được th́ quá vi diệu, tối thượng, c̣n chúng sanh th́ căn cơ quá ám độn, lại bị ḷng tham ưa ngũ dục che mờ làm sao mà độ được ? Ngài nghĩ như vậy th́ chư thiên đến thỉnh Ngài nên thuyết pháp. Ngài mới nghĩ tiếp, nếu nói thẳng Phật thừa mà ta đă chứng, th́ e chúng sanh không thể tin nhận, sanh ḷng hủy báng chánh pháp, sẽ mắc tội phá pháp rơi vào ba đường dữ, tốt hơn ta nên vào Niết-bàn. Nhưng Ngài nhớ lại chư Phật quá khứ từng dùng sức phương tiện để giáo hóa chúng sanh, nay ta cũng dùng phương tiện nói ba thừa để dẫn dắt họ từ từ. 37. CHÁNH VĂN : *Lúc ta nghĩ thế đó Mười phương Phật đều hiện Tiếng Phạm an ủi ta Hay thay ! Đức Thích-ca Bậc Đạo sư thứ nhứt Được pháp Vô thượng ấy Tùy theo tất cả Phật Mà dùng sức phương tiện Chúng ta cũng đều được Pháp tối diệu thứ nhứt V́ các loại chúng sanh Phân biệt nói ba thừa. Trí kém ưa pháp nhỏ Chẳng tự tin thành Phật Cho nên dùng phương tiện Phân biệt nói các quả Dầu lại nói ba thừa Chỉ v́ dạy Bồ-tát. GIẢNG : Khi đức Phật Thích-ca nghĩ nên mở bày phương tiện để giáo hóa chúng sanh, th́ mười phương chư Phật hoan hỉ tán thán Ngài là bậc thầy thứ nhứt, khéo léo biết dùng ba thừa để giáo hóa, nhưng rốt sau chỉ dùng Phật thừa để dạy Bồ-tát. 38. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất nên biết ! Ta nghe các đức Phật Tiếng nhiệm mầu rất sạch Xưng: “Nam-mô chư Phật !” Ta lại nghĩ thế này Ta ra đời trược ác Như các Phật đă nói Ta cũng thuận làm theo Suy nghĩ việc đó rồi Liền đến thành Ba-nại. Các pháp tướng tịch diệt Không thể dùng lời bày Bèn dùng sức phương tiện V́ năm Tỳ-kheo nói. Đó gọi chuyển pháp luân Bèn có tiếng Niết-bàn Cùng với A-la-hán Tên pháp, tăng sai khác. Từ kiếp xa vẫn lại Khen bày pháp Niết-bàn Dứt hẳn khổ sống chết Ta thường nói như thế. GIẢNG : Nghe chư Phật quá khứ khen, Ngài liền hướng về chư Phật xưng: “Nam-mô Phật.” Sau đó, Ngài bắt đầu khởi phương tiện t́m đến Uất-đầu-lam-phất là vị thầy cũ dạy Ngài tu chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ định và A-la-la Kamala vị thầy dạy Ngài tu từ Sơ thiền cho đến Vô sở hữu xứ định. Nhưng hai vị này vừa viên tịch, Ngài mới tới thành Ba-la-nại nơi vườn Lộc Uyển, nói pháp Tứ đế độ năm anh em Kiều-trần-như là những người đồng tu học với Ngài thuở trước. Từ đó mới có Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, mới có danh từ Chuyển pháp luân, Niết-bàn, A-la-hán. Lần chuyển pháp luân này là phương tiện đầu tiên Ngài dùng để giáo hóa chúng sanh. 39. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Phải biết ! Ta thấy các Phật tử Chí quyết cầu Phật đạo Vô lượng ngh́n muôn ức Đều dùng ḷng cung kính Đồng đi đến chỗ Phật Từng đă theo các Phật Nghe nói pháp phương tiện Ta liền nghĩ thế này: Sở dĩ Phật ra đời Để v́ nói Phật huệ Nay chính đă đúng giờ. GIẢNG : Sau khi Ngài phương tiện nói pháp Tứ đế v.v... để giáo hóa. Ngài xét lại thấy thời cơ đă đến, chúng sanh nghe pháp đầy đủ ḷng tin. Ngài thấy cần phải nói thẳng về Phật thừa, nên bắt đầu nói kinh Pháp Hoa. 40. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất phải biết ! Người căn chậm trí nhỏ Kẻ chấp tướng kiêu mạn Chẳng thể tin pháp này Nay ta vui vô úy Ở trong hàng Bồ-tát Chính bỏ ngay phương tiện Chỉ nói đạo Vô thượng Bồ-tát nghe pháp đó Đều đă trừ lưới nghi Ngh́n hai trăm La-hán Cũng đều sẽ thành Phật Như nghi thức nói pháp Của các Phật ba đời Ta nay cũng như vậy Nói pháp không phân biệt Các đức Phật ra đời Lâu xa khó gặp gỡ Chính sử hiện ra đời Nói pháp này khó hơn; Vô lượng vô số kiếp Nghe pháp này cũng khó Hay nghe được pháp này Người đó cũng lại khó Thí như hoa linh thoại Tất cả đều ưa mến Ít có trong trời, người Lâu lâu một lần trổ. GIẢNG : Phật nói với ngài Xá-lợi-phất rằng: Những người căn trí nhỏ, chậm lụt, chấp tướng, kiêu mạn, không thể tin pháp Phật nói. Họ chỉ có cái ưa muốn tầm thường, như cư sĩ tu th́ mong đời sau giàu sang sung sướng, con cái hiếu thảo v.v... C̣n người xuất gia tu th́ mong đời sau chuyển nữ thành nam, hoặc được thông minh trí tuệ... Hoặc người kẹt trên h́nh tướng th́ pháp có h́nh tướng mới tin, c̣n Tri kiến Phật không tướng mạo th́ không đủ sức tin nhận. Với người kiêu mạn, họ đă tự thấy đủ, không cần cầu nghe học th́ không thể đến được Tri kiến Phật. Đó là những tâm bệnh của chúng sanh nên không thể tin nhận chỗ Phật dạy ở kinh Pháp Hoa này. Nhưng Phật thấy thời tiết đến, ḷng chấp của chúng sanh ṃn mỏng, Ngài không ngại, không sợ, sẽ v́ hàng Bồ-tát nói thẳng chỗ cứu kính là Phật thừa, khiến cho hết ḷng nghi sẽ chứng quả Phật. Bởi lâu lắm mới có Phật ra đời; tuy Phật ra đời là khó, nhưng chưa khó bằng nói thẳng Tri kiến Phật, đó là cái khó thứ nhứt; người nghe được pháp này cũng khó, là cái khó thứ hai; nếu nghe rồi mà khéo lănh hội lại càng khó hơn, là cái khó thứ ba. Như vậy, pháp khó nói mà Phật đă nói, pháp khó nghe mà chúng ta được nghe và nghe rồi khéo lănh hội là tùy ở mỗi người chúng ta. Những cái khó đó nếu chúng ta vượt qua được, giống như hoa Ưu-đàm cả trăm năm mới nở một lần. Vậy nên phải khéo nghe và thấy rằng nghe được pháp này là việc hi hữu không phải là chuyện thông thường. Đó là lời khuyến khích của Phật để cho tất cả thính chúng quí pháp và lắng nghe pháp. 41. CHÁNH VĂN : *Người nghe pháp mừng khen Nhẫn đến nói một lời Thời là đă cúng dường Tất cả Phật ba đời Người đó rất ít có Hơn cả hoa ưu-đàm Các ông chớ có nghi Ta là vua các pháp Khắp bảo các đại chúng Chỉ dùng đạo Nhứt thừa Dạy bảo các Bồ-tát Không Thanh văn đệ tử. GIẢNG : Phật nói rằng người nghe pháp này mà vui mừng, khen ngợi, cho đến nói một lời tán thán thôi là người đó đă cúng dường tất cả Phật trong ba đời, và người đó có mặt trên nhân gian này quí hơn là hoa Ưu-đàm. Bởi vậy mà Phật khuyên mọi người đừng có nghi, v́ Phật là ông vua Pháp, tức là vị đă biết tột được tâm bệnh của chúng sanh, nói pháp đúng thời đúng bệnh, hướng dẫn chúng sanh từ thấp lên cao đến chỗ rốt ráo. Chúng sanh chớ có nghi ngờ, nghe rồi phải tin hiểu. Ngài kết thúc, việc Ngài nói pháp độ cho Thanh văn đó chỉ là phương tiện tùy cơ, chớ chỗ nhắm của Phật là dạy cho hàng Bồ-tát tu để thành Phật. 42. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất các ông ! Thanh văn và Bồ-tát Phải biết pháp mầu này Bí yếu của các Phật Bởi đời ác năm trược Chỉ tham ưa các dục Những chúng sanh như thế Trọn không cầu Phật đạo Người ác đời sẽ tới Nghe Phật nói Nhứt thừa Mê lầm không tin nhận Phá pháp đọa đường dữ Người tàm quí trong sạch Quyết chí cầu Phật đạo Nên v́ bọn người ấy Rộng khen đạo Nhứt thừa Xá-lợi-phất nên biết ! Pháp các Phật như thế Dùng muôn ức phương tiện Tùy thời nghi nói pháp Người chẳng học tập tu Không hiểu được pháp này Các ông đă biết rơ Phật là thầy trong đời Việc phương tiện tùy nghi Không c̣n lại nghi lầm Ḷng sanh rất vui mừng Tự biết sẽ thành Phật. GIẢNG : Phật nói rằng hàng Thanh văn, Duyên giác hay Bồ-tát nên biết diệu pháp mà Phật dạy là bí yếu của chư Phật, tất cả chư Phật ra đời cốt để truyền dạy cái bí yếu đó. Trong đời ác ngũ trược sau này, chúng sanh tham ưa đắm mê dục lạc, không hề cầu Phật đạo, nghe Phật nói Nhứt thừa, họ mê chấp không thể tin nhận, rồi sẽ phá Chánh pháp đọa vào đường dữ. C̣n nếu ai biết hổ thẹn, ǵn giữ giới luật trong sạch, có chí cầu Phật đạo th́ nên v́ những người đó nói đạo Nhứt thừa tức là nói kinh Pháp Hoa. Pháp của Phật là như thế ! Ngài dùng muôn ức phương tiện tùy cơ mà nói, nếu người không chịu học th́ không thể hiểu, Phật là bậc thầy khéo dùng mọi phương tiện hướng dẫn, chúng ta chớ có nghi ngờ. Nếu nghe rồi hoan hỉ tin nhận tu hành th́ chắc chắn sẽ được thành Phật. ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]