[Trang chu] [Kinh sach]

DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI

[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]

[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]


PHẨM 8: NGŨ BÁ ĐỆ TỬ THỌ KƯ 

Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Kư là 500 vị đệ tử được Phật thọ kư sau sẽ thành Phật. Ở phẩm Thí Dụ Phật đă thọ kư cho ngài Xá-lợi-phất ở phẩm Thọ Kư, Phật thọ kư cho ngài Huệ Mạng Tu-bồ-đề, Đại Ca-chiên- diên, Đại Ca-diếp, Đại Mục-kiền-liên và tới đây Phật lại thọ kư cho 500 vị đệ tử như Phú-lâu-na, Kiều-trần-như... sau sẽ thành Phật, v́ ḷng tin các Ngài đă thuần thục.

1. CHÁNH VĂN :

* Lúc bấy giờ, ngài Măn Từ Tử từ nơi đức Phật nghe trí huệ phương tiện tùy cơ nghi nói pháp như thế, lại nghe thọ kư cho các vị đệ tử lớn sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại nghe việc nhân duyên đời trước, lại nghe các đức Phật có sức tự tại thần thông lớn, được điều chưa từng có, ḷng thanh tịnh hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đứng qua một bên chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mắt không tạm rời, mà nghĩ thế nầy:

“Thế Tôn rất riêng lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tánh ở trong đời, dùng sức phương tiện tri kiến mà v́ đó nói pháp, cứu vớt chúng sanh ra khỏi các chỗ tham trước, chúng con ở nơi công đức của Phật không thể dùng lời nói mà tuyên bày được, chỉ có đức Phật Thế Tôn hay biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con.”

GIẢNG :

Tôn giả Măn Từ Tử nghe Phật thọ kư cho các bậc huynh trưởng, ḷng Tôn giả đă thanh tịnh, vui mừng đến đảnh lễ Phật và nghĩ rằng việc làm của Phật rất ít có, Phật biết chủng tánh của chúng sanh, mà v́ họ phương tiện nói pháp theo chỗ họ mong muốn. Hôm nay trong hội nầy, nếu Phật theo bổn nguyện của Tôn giả mà thọ kư cho th́ thật là sung sướng, là điều mà Tôn giả trông mong chờ đợi đă lâu. Đó là tâm khao khát được thọ kư của tôn giả Măn Từ Tử.

2. CHÁNH VĂN :

* Bấy giờ, Phật bảo các Tỳ-kheo: “Các ông thấy Măn Từ Tử đây chăng ? Ta thường khen ông là bậc nhất trong hàng người nói pháp, cũng thường khen các món công đức của ông, ṛng rặt siêng năng hộ tŕ giúp tuyên bày pháp của ta, có thể chỉ dạy lợi mừng cho hàng bốn chúng giải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật, mà làm nhiều lợi ích cho những người cùng đồng hạnh thanh tịnh. Ngoài đức Như Lai, không ai có thể cùng tận chỗ biện bác ngôn luận của ông. Các ông chớ tưởng Măn Từ Tử chỉ hay hộ tŕ trợ tuyên pháp của ta thôi, ông cũng đă ở nơi chín mươi ức đức Phật thuở quá khứ mà hộ tŕ trợ tuyên chánh pháp của Phật, ở trong nhóm người nói pháp thuở đó cũng là bậc nhất.

Ông lại ở pháp không của chư Phật nói, thông suốt rành rẽ, được bốn món trí vô ngại, thường hay suy gẫm chắc chắn nói pháp thanh tịnh không có nghi lầm, đầy đủ sức thần thông của Bồ-tát tùy số thọ mạng mà thường tu hạnh thanh tịnh.

Người đờiø thuở đức Phật kia đều gọi ông thiệt là Thanh văn. Nhưng ông Măn Từ Tử dùng phương tiện đó làm lợi ích cho vô lượng trăm ngh́n chúng sanh, lại giáo hóa vô lượng vô số người khiến đứng nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ông v́ muốn tịnh cơi Phật mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.

Các Tỳ-kheo ! Ông Măn Từ Tử cũng được bậc nhất ở trong hàng người nói pháp thuở bảy đức Phật, nay ở nơi chỗ ta trong hàng người nói pháp cũng là bậc nhất.

Trong hàng người nói pháp thuở các đức Phật trong Hiền kiếp về đương lai cũng lại là bậc nhất, mà đều hộ tŕ giúp tuyên bày pháp của Phật. Ông cũng sẽ ở trong đời vị lai hộ tŕ trợ tuyên chánh pháp của vô lượng vô biên các đức Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, khiến an lập nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, v́ tịnh cơi Phật mà thường siêng năng tinh tấn giáo hóa chúng sanh, lần lần đầy đủ đạo Bồ-tát.

Qua vô lượng vô số kiếp sau, ông sẽ ở nơi cơi nầy thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiệu là: Pháp Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Đức Phật đó lấy số thế giới tam thiên đại thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm thành một cơi Phật. Đất bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay, không có núi g̣, khe suối, rạch ng̣i. Nhà, đài bằng bảy thứ báu đầy dẫy trong đó, cung điện của các trời ở gần trên hư không, người cùng trời giao tiếp nhau, hai bên đều thấy được nhau, không có đường dữ cũng không có người nữ.

Tất cả chúng sanh đều do biến hóa sanh, không có dâm dục, được pháp thần thông lớn, thân chói ánh sáng, bay đi tự tại, chí niệm bền chắc, có đức tinh tấn trí huệ, tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt để tự trang nghiêm.

Nhân dân nước đó thường dùng hai thức ăn: một là Pháp hỉ thực, hai là Thiền duyệt thực. Có vô lượng vô số ngh́n muôn ức na-do-tha các chúng Bồ-tát được sức thần thông lớn, bốn trí vô ngại, khéo hay giáo hóa loài chúng sanh. Chúng Thanh văn trong nước đó tính kể số đếm đều không thể biết được, đều được đầy đủ ba món minh, sáu pháp thần thông và tám món giải thoát.

Cơi nước của đức Phật đó có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu như thế, kiếp tên Bửu Minh, nước tên Thiện Tịnh. Phật đó sống lâu vô lượng vô số kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ, dựng tháp bằng bảy thứ báu khắp cả nước đó.

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                        * Các Tỳ-kheo lóng nghe

                        Đạo của Phật tử làm

                        V́ khéo học phương tiện

                        Chẳng thể nghĩ bàn được

                        Biết chúng ưa pháp nhỏ

                        Mà sợ nơi trí lớn

                        Cho nên các Bồ-tát

                        Làm Thanh văn, Duyên giác

                        Dùng vô số phương tiện

                        Độ các loài chúng sanh,

                        Tự nói là Thanh văn

                        Cách Phật đạo rất xa

                        Độ thoát vô lượng chúng

                        Thảy đều được thành tựu

                        Dầu ưa nhỏ, biếng lười

                        Sẽ khiến lần thành Phật.

                        Trong ẩn hạnh Bồ-tát

                        Ngoài hiện là Thanh văn

                        Ít muốn, nhàm sanh tử

                        Thiệt tự tịnh cơi Phật

                        Bày ba độc cho người

                        Lại hiện tướng tà kiến,

                        Đệ tử ta như vậy

                        Phương tiện độ chúng sanh

                        Nếu ta nói đủ cả

                        Các món việc hiện hóa

                        Chúng sanh nghe đó rồi

                        Thời ḷng sanh nghi lầm.

                        * Nay Phú-lâu-na đây

                        Ở xưa ngh́n ức Phật

                        Siêng tu đạo ḿnh làm

                        Tuyên hộ các Phật pháp

                        V́ cầu huệ Vô thượng

                        Mà ở chỗ chư Phật

                        Hiện ở trên đệ tử

                        Học rộng có trí huệ

                        Nói pháp không sợ sệt

                        Hay khiến chúng vui mừng

                        Chưa từng có mỏi mệt

                        Để giúp nên việc Phật.

                        Đă được thần thông lớn

                        Đủ bốn trí vô ngại

                        Biết các căn lợi độn

                        Thường nói pháp thanh tịnh

                        Diễn xướng nghĩa như thế

                        Để dạy ngh́n ức chúng

                        Khiến trụ pháp Đại thừa

                        Mà tự tịnh cơi Phật.

                        Đời sau cũng cúng dường

                        Vô lượng vô số Phật

                        Hộ trợ tuyên chánh pháp

                        Cũng tự tịnh cơi Phật

                        Thường dùng các phương tiện

                        Nói pháp không e sợ

                        Độ chúng không kể được

                        Đều thành Nhất thiết trí

                        Cúng dường các Như Lai

                        Hộ tŕ tạng Pháp bảo.

                        Sau đó được thành Phật

                        Hiệu gọi là Pháp Minh

                        Nước đó tên Thiện Tịnh

                        Bảy thứ báu hiệp thành

                        Kiếp tên là Bửu Minh

                        Chúng Bồ-tát rất đông

                        Số nhiều vô lượng ức

                        Đều được thần thông lớn

                        Sức oai đức đầy đủ

                        Khắp đầy cả nước đó

                        Thanh văn cũng vô số

                        Ba minh tám giải thoát

                        Được bốn trí vô ngại

                        Dùng hạng nầy làm tăng,

                        Chúng sanh trong cơi đó

                        Dâm dục đều đă dứt

                        Thuần một biến hóa sanh

                        Thân trang nghiêm đủ tướng

                        Pháp hỉ, Thiền duyệt thực

                        Không tưởng món ăn khác.

                        Không có hàng nữ nhân

                        Cũng không các đường dữ

                        Phú-lâu-na Tỳ-kheo

                        Khi công đức trọn đầy

                        Sẽ được tịnh độ nầy

                        Chúng Hiền Thánh rất đông

                        Vô lượng việc như thế

                        Nay ta chỉ nói lược.

GIẢNG :

Phật tán dương công đức thuyết pháp của tôn giả Măn Từ Tử trong hội chúng của Phật, ngoài Phật ra th́ tôn giả Măn Từ Tử là người thuyết pháp bậc nhất trong hàng đệ tử Phật. Phật nói chẳng những trong đời nầy tôn giả Măn Từ Tử rộng nói pháp Phật mà thuở quá khứ, ở nơi chín mươi ức đức Phật, Tôn giả cũng đă từng nói pháp bậc nhất và trong những kiếp tương lai Tôn giả cũng sẽ nói pháp bậc nhất, giáo hóa chúng sanh làm thanh tịnh cơi Phật. Đó là do duyên phước nhiều đời, Tôn giả mới làm được việc đó. Cũng vậy, trong đời hiện tại chúng ta có năng khiếu ǵ tốt, là do nhiều đời chúng ta đă gieo trồng giống đó, chớ không phải chỉ trong một đời mà được.

Phật nói thuở đó tôn giả Măn Từ Tử căn cứ vào “Pháp không” của chư Phật mà nói, nên thông suốt, được bốn trí vô ngại, nói pháp thanh tịnh không nghi lầm, đủ sức thần thông của Bồ-tát, thường tu hạnh thanh tịnh. Pháp không ở đây là chỉ cho pháp Bát-nhă. Do đạt được trí tuệ Bát-nhă nên Tôn giả thuyết pháp không chướng ngại, chỉ dạy cho mọi người đều được pháp thanh tịnh. Người thuở đó gọi tôn giả Măn Từ Tử là Thanh văn, nhưng với Phật th́ tôn giả Măn Từ Tử là Bồ-tát, bên ngoài hiện tướng Thanh văn giáo hóa làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh khiến trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ vậy, nên sau khi nhắc đến Tri kiến Phật, Tôn giả liền lănh hội và được Phật thọ kư cho sau nầy sẽ thành Phật. Do Tôn giả chuyên tu hạnh tuyên dương chánh pháp khai thông trí tuệ cho người, nhờ nhiều đời nhiều kiếp tích lũy phước đức đó nên khi thành Phật hiệu là Pháp Minh.

Cơi nước th́ lấy số thế giới tam thiên đại thiên nhiều như số cát sông Hằng mà trang nghiêm, cơi nầy gần cung điện của chư thiên, nên hai bên giao tiếp nhau rất dễ. Nhân dân ở cơi nầy do tu đầy đủ hạnh thanh tịnh, nhờ nguyện lực mà được hóa sanh, nên không có tướng nam tướng nữ. Nhân dân ở cơi nầy dùng hai món ăn là pháp hỉ và thiền duyệt chớ không dùng thức ăn bằng phạn thực như chúng sanh ở cơi Ta-bà, nên có đủ ba món minh, sáu pháp thần thông, tám món giải thoát. Khi đói th́ nghe pháp, tâm hoan hỷ liền được no. Hoặc đói th́ tọa thiền, tâm hoan hỉ liền được no. V́ nhân dân ở cơi nầy chỉ cần chánh pháp và thiền định chớ không cần cơm gạo thô phù như ở cơi ta-bà. Chúng đệ tử toàn là hàng Thanh văn, Bồ-tát nhiều vô số không thể tính đếm, tuổi thọ th́ dài vô kể.

2. CHÁNH VĂN :

* Bấy giờ, một ngh́n hai trăm vị A-la-hán, bậc tâm tự tại, nghĩ như vầy: “Chúng ta vui mừng được điều chưa từng có, nếu đức Thế Tôn đều thọ kư cho như các đệ tử khác thời sung sướng lắm.”

Đức Phật biết tâm niệm của các vị đó nên nói với ngài Đại Ca-diếp: “Một ngh́n hai trăm vị A-la-hán đó, nay ta sẽ hiện tiền thứ tự mà thọ kư đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Trong chúng đó, đệ tử lớn của ta là Kiều-trần-như Tỳ-kheo sẽ cúng dường sáu muôn hai ngh́n ức đức Phật, vậy sau được thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Năm trăm vị A-la-hán: ông Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, ông Dà-gia Ca-diếp, ông Na-đề Ca-diếp, ông Ca-lưu-đà-di, ông Ưu-đà-di, ông A-nậu-lâu-đà, ông Ly-bà-đa, ông Kiếp-tân-na, ông Bạc-câu-la, ông Châu-đà-tá, ông Dà-đà v.v... đều sẽ được đạo Vô thượng Chánh Đẳng Chánh giác, đều đồng một hiệu là Phổ Minh.”

Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                        * Kiều-trần-như Tỳ-kheo

                        Sẽ gặp vô lượng Phật

                        Qua vô số kiếp sau

                        Mới được thành Chánh giác

                        Thường phóng quang minh lớn

                        Đầy đủ các thần thông

                        Danh đồn khắp mười phương

                        Tất cả đều tôn kính

                        Thường nói pháp Vô thượng

                        Nên hiệu là Phổ Minh

                        Cơi nước đó thanh tịnh

                        Bồ-tát đều dơng mănh

                        Đều lên lầu gác đẹp

                        Dạo các nước mười phương

                        Đem đồ cúng vô thượng

                        Hiến dưng các đức Phật,

                        Làm việc cúng đó xong

                        Sanh ḷng rất vui mừng

                        Giây lát về bổn quốc

                        Có sức thần như thế.

                        Phật thọ sáu muôn kiếp

                        Chánh pháp trụ bội thọ

                        Tượng pháp lại hơn chánh

                        Pháp diệt trời người lo.

                        * Năm trăm Tỳ-kheo kia

                        Thứ tự sẽ là Phật

                        Đồng hiệu là Phổ Minh

                        Theo thứ thọ kư nhau:

                        Sau khi ta diệt độ

                        Ông đó sẽ làm Phật

                        Thế gian của ông độ

                        Cũng như ta ngày nay

                        Cơi nước đó nghiêm sạch

                        Và các sức thần thông

                        Chúng Thanh văn, Bồ-tát

                        Chánh pháp cùng tượng pháp

                        Thọ mạng kiếp nhiều ít

                        Đều như trên đă nói.

                        Ca-diếp ! Ôâng đă biết

                        Năm trăm vị tự tại

                        Các chúng Thanh văn khác

                        Cũng sẽ làm như thế

                        Vị nào vắng mặt đây

                        Ông nên v́ tuyên nói.

GIẢNG :

Bấy giờ, chư vị A-la-hán là huynh đệ đồng đẳng với tôn giả Măn Từ Tử, khi thấy Tôn giả được thọ kư rồi, các Ngài mong rằng các Ngài sẽ được Phật thọ kư cho ḿnh. Phật biết tâm niệm ấy của các Ngài liền thứ tự thọ kư cho các Ngài được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong đó đệ tử lớn của Phật là ngài A-nhă Kiều-trần-như do công đức cúng dường sáu muôn hai ngh́n ức đức Phật, sau sẽ thành Phật hiệu là Phổ Minh. Kế đến năm trăm vị A-la-hán như Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Nan-đề Ca-diếp, Ca-lưu-đà-di, Ưu-đà-di, A-nậu-lâu-đà... đều sẽ được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đồng hiệu là Phổ Minh.

Tại sao chư vị A-la-hán thấy tôn giả Măn Từ Tử được thọ kư, các Ngài đều vui mừng và mong được Phật thọ kư cho ḿnh thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, c̣n chúng ta nghe các Ngài được thọ kư chúng ta tự thấy ḿnh là kẻ vô phần nên không vui mừng ? Tôi ví dụ, các anh em cùng học chung một lớp, đến giờ trả bài, anh A trả bài thuộc được tám điểm thầy khen giỏi, anh B trả bài thuộc được tám điểm cũng được thầy khen giỏi. Ḿnh lúc đó cũng thuộc bài chưa được gọi lên trả bài trong ḷng cũng mong được thầy gọi lên trả bài. Nếu hôm đó ḿnh không thuộc bài th́ không dám mong được trả bài. Qua ví dụ nầy chúng ta thấy sở dĩ các Ngài mong được Phật thọ kư, là v́ các Ngài cũng có sở ngộ như những người bạn đồng đẳng mà chưa được Phật xác chứng, nên mong chờ. Nếu các Ngài chưa ngộ chắc không dám mong, do thấy được tâm mong chờ đó Phật liền thọ kư cho. Đó là ư nghĩa vui mừng chờ thọ kư là như vậy.

3. CHÁNH VĂN :

* Bấy giơ,ø năm trăm vị A-la-hán ở trước Phật được thọ kư xong, vui mừng hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật, ăn năn lỗi của ḿnh mà tự trách: Thế Tôn, chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho ḿnh đă được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là như người vô trí. V́ sao ? Chúng con đáng được trí huệ Như Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.

Thế Tôn ! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột trong áo của gă say, cho đó rồi đi. Gă đó say nằm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, v́ việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu t́m rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ.

Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gă bèn bảo rằng: “Lạ thay ! Anh nầy, sao lại v́ ăn mặc mà đến nỗi nầy. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ thọ năm món dục, ở ngày tháng năm đó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh, nay vẫn c̣n đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thật là khờ lắm, nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thời thường được vừa ư không chỗ thiếu thốn.

Đức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ-tát giáo hóa chúng con khiến phát ḷng cầu Nhất thiết trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Đă được đạo A-la-hán tự nói là diệt độ, khổ nhọc nuôi sống được chút ít cho là đủ, tất cả trí nguyện vẫn c̣n chẳng mất. Ngày nay đức Thế Tôn giác ngộ chúng con mà nói rằng: “Các Tỳ-kheo ! Đạo của các ông không phải rốt ráo diệt. Ta từ lâu đă khiến các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương tiện chỉ tướng Niết-bàn mà các ông cho là thiệt được diệt độ.”

Thế Tôn ! Chúng con nay mới biết ḿnh thiệt là Bồ-tát được thọ kư sẽ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. V́ nhân duyên đó ḷng rất vui mừng được điều chưa từng có.

Bấy giờ, ông A-nhă Kiều-trần-như muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:

                        * Chúng con nghe Vô thượng

                        Tiếng thọ kư an ổn

                        Vui mừng chưa từng có

                        Lạy Phật trí vô lượng.

                        Nay ở trước Thế Tôn

                        Tự hối các lỗi quấy

                        Trong Phật báu vô lượng

                        Được chút phần Niết-bàn

                        Như người ngu vô trí

                        Bèn tự cho là đủ.

                        Thí như người nghèo cùng

                        Qua đến nhà thân hữu

                        Nhà đó rất giàu lớn

                        Bày đủ các tiệc ngon

                        Đem châu báu vô giá

                        Cột dính trong vạt áo

                        Thầm cho rồi bỏ đi

                        Gă say nằm không hay.

                        Sau khi gă đă dậy

                        Dạo đi đến nước khác

                        Cầu ăn mặc tự sống

                        Nuôi sống rất khốn khổ

                        Được ít cho là đủ

                        Chẳng lại muốn đồ tốt

                        Chẳng biết trong vạt áo

                        Có châu báu vô giá.               

                        Người thân hữu cho châu

                        Sau gặp gă nghèo nầy

                        Khổ thiết trách gă rồi

                        Chỉ cho châu trong áo.

                        Gă nghèo thấy châu đó

                        Ḷng gă rất vui mừng

                        Giàu có các của cải

                        Tha hồ hưởng ngũ dục.

                        Chúng con cũng như vậy

                        Thế Tôn từ lâu xưa

                        Thường thường giáo hóa cho

                        Khiến gieo nguyện Vô thượng.

                        Chúng con v́ vô trí

                        Chẳng hay cũng chẳng biết

                        Được chút phần Niết-bàn

                        Cho đủ chẳng cầu nữa

                        Nay Phật giác ngộ con

                        Nói chẳng phải thiệt diệt

                        Được Phật huệ Vô thượng

                        Đó mới là thiệt diệt.

                        Con nay từ Phật nghe

                        Thọ kư việc trang nghiêm

                        Cùng tuần tự thọ kư

                        Thân tâm khắp mừng vui.

GIẢNG :

Năm trăm vị A-la-hán được thọ kư vui mừng hớn hở, ăn năn lỗi ḿnh và tự trách: Ḿnh cũng có khả năng thành Phật và cũng được Phật thọ kư, vậy mà từ lâu chứng quả A-la-hán tự cho là đủ, nay mới biết ḿnh là kẻ vô trí, chỉ biết lấy trí nhỏ cho là đủ. Nên các Ngài mới dùng ví dụ hạt châu cột trong chéo áo của chàng say rượu. Tại sao các Ngài dùng ví dụ nầy ? V́ ở phẩm Hóa Thành Dụ, Phật có nói thuở Ngài c̣n tu hạnh Sa-di Bồ-tát đă từng nói kinh Pháp Hoa giáo hóa đồ đệ, nay Ngài thành Phật những đồ đệ nầy cũng có duyên theo Ngài là hàng hữu học vô học chứng A-la-hán ở trong hội nầy. Những vị nầy nghe Phật nhắc lại, liền nhớ ḿnh đă được gieo trồng hạt giống Tri kiến Phật hồi xa xưa, nay lại quên, cứ theo phương tiện Phật dạy hiện thời tu theo hạnh Thanh văn. Nay Phật nhắc lại liền tin nhận, được an vui tự tại và được Phật thọ kư. Các Ngài dùng h́nh ảnh anh chàng nghèo say rượu tới thăm người bạn thân, được bạn đăi cơm thịnh soạn và tặng cho một hạt châu cột trong chéo áo. Do uống rượu say nên quên không nhớ ḿnh có hạt châu quí giá, cứ đi lang thang cầu thực một cách khổ sở. Sau bạn cũ bất thần gặp lại, th́ ra anh bạn nghèo say nay vẫn c̣n nghèo, mới trách: Xưa tôi có cho anh một hạt châu cột trong chéo áo sao không lấy ra dùng ? Từ đó anh bạn nghèo mới lấy hạt châu ra xài và trở thành người giàu có sang trọng. Người cho châu là dụ cho đức Phật, từ thuở xa xưa, Ngài đă từng nói kinh Pháp Hoa giáo hóa cho đồ đệ rồi. Kẻ nghèo say rượu chỉ cho hàng đệ tử đă được Phật nói kinh Pháp Hoa rồi mà quên đi. Bấy giờ được Phật nhắc lại mới nhớ, nhận ra Tri kiến Phật nơi ḿnh và được Phật thọ kư sẽ thành Phật. Qua ví dụ nầy, chúng ta thấy tâm hạnh của hàng Thanh văn c̣n hạn cuộc chưa viên măn, được chút ít cho là đủ. Chỗ mà hàng Thanh văn lấy làm sở chứng sở đắc đó không phải là bản hoài của Phật; Phật muốn ai tu rồi cũng thành Phật như Ngài, chớ không bằng ḷng cho chúng ta an trú ở quả vị Thanh văn, Duyên giác.

Vậy kinh Pháp Hoa dạy chúng ta phát tâm tu phải rộng lớn, là tự ḿnh tu được giác ngộ thành Phật và giáo hóa cho người tu cũng được giác ngộ thành Phật như ḿnh. Muốn được thế th́ phải trải qua thời gian công phu tu tập lâu dài, công hạnh mới viên măn.

]


[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]

[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]

[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]

[Trang chu] [Kinh sach]