DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 7: HÓA THÀNH DỤ (tt) 7. CHÁNH VĂN : *Lúc bấy giờ, đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các Phạm thiên vương và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen chuyển pháp luân mười hai hành hoặc là Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc là trời, ma, Phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển được, nói: đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ. Và rộng nói pháp Mười hai nhân duyên: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lăo, tử, ưu bi, khổ năo. Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt thời lăo, tử, ưu bi, khổ năo diệt. Đức Phật ở trong đại chúng trời, người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na-do-tha người do v́ không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều được thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát. Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba, lần thứ tư, có ngh́n muôn ức Hằng hà sa na-do-tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu tâm được giải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúng Thanh văn nhiều vô lượng vô biên, không thể tính kể được. GIẢNG : Đức Phật Đại Thông Trí Thắng ở thời xa xưa khi bắt đầu giáo hóa cũng dùng phương tiện nói pháp Tứ đế gọi là “tam chuyển pháp luân, thập nhị hành”. Tam chuyển pháp luân là Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển. Thị chuyển là Phật chỉ rơ bốn lẽ thật có tánh cách khách quan: đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ. Khuyến chuyển là Phật khuyên năm vị Tỳ-kheo xưa chưa từng nghe, nay cần phải biết hăy chánh tư duy để phát sanh trí tuệ: đây là khổ các ông phải biết, đây là tập các ông phải đoạn, đây là diệt các ông phải chứng, đây là đạo các ông phải tu. Chứng chuyển, Phật nói đối với pháp Tứ đế Ngài đă biết, đă tu, đă đoạn và đă chứng. Đây là khổ ta đă biết, đây là khổ tập ta đă đoạn, đây là khổ diệt ta đă chứng, đây là khổ đạo ta đă tu. Phật nói về Tứ đế ba lần là thị chuyển, khuyến chuyển, chứng chuyển mỗi lần đều lặp lại bốn đế, ba lần lặp lại, thành muời hai. Nên nói Thập nhị hành. Lần thứ nhứt chưa hiểu nói cho hiểu, lần thứ hai hiểu rồi phải tu, lần thứ ba tu rồi để chứng. Đức Phật thuyết pháp rất cụ thể, mỗi khi Ngài nói điều ǵ th́ điều đó Ngài đă biết rơ, đă thực hành và được lợi ích, khuyên người nên làm để được lợi ích như Ngài, nên lời Phật dạy rất có giá trị được coi là chân lư. Chúng ta ngày nay nói pháp, chỉ lư thuyết suông thiếu cụ thể, có khi lại mâu thuẫn nữa. V́ vậy tốn công rất nhiều mà kết quả rất ít. Điều ḿnh dạy người mà chính bản thân ḿnh chưa thực hành được th́ làm sao có đủ kinh nghiệm, đủ ḷng tin, để hướng dẫn người ? Trên đây là Phật chuyển pháp luân, chúng ta chớ lầm lối chuyển luân xa của ngoại đạo là dẫn điển chạy từ rún qua xương cùng, rồi theo xương sống chạy lên đầu xuống rún trở lại, dẫn điện chạy ṿng ṿng trong người gọi là chuyển luân xa. Hiện tại có nhiều người mang h́nh thức tu sĩ Phật giáo đầu tṛn áo vuông vẫn tin và tu theo, thực là một việc đáng tiếc! Danh từ Phật giáo bị ngoại đạo lợi dụng, thế mà người tu Phật không biết lại thực hành theo! Kế đến là Phật nói pháp mười hai nhân duyên là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập... cho tới sanh duyên lăo tử, ưu bi khổ năo, đó là chiều lưu chuyển. C̣n chiều hoàn diệt là vô minh diệt th́ hành diệt, hành diệt th́ thức diệt... cho tới sanh diệt th́ lăo tử diệt, ưu bi khổ năo không c̣n. Căn cứ vào mười hai pháp nhân duyên th́ đầu mối của luân hồi sanh tử là vô minh. Từ vô minh dẫn tới hành rồi thúc đẩy thức đi thọ sanh, khi có bào thai th́ có danh sắc, có danh sắc th́ có lục nhập... Cứ như vậy tạo nghiệp rồi trở lại sanh, liên miên không cùng tận. Muốn dứt ṿng luân hồi đó là phải diệt vô minh, làm cho trí tuệ bừng sáng th́ hết tạo nghiệp tức là hành diệt, nếu hết tạo nghiệp th́ thức không c̣n đi thọ sanh, nên thức diệt... Nhưng mà vô minh gốc, thuộc về quá khứ không thể diệt, phải đoạn vô minh hiện tại là ái, thủ, hữu, nếu ái, thủ, hữu dứt th́ vô minh gốc cũng không c̣n. Vậy làm thế nào phá vô minh ? Mọi nguời ai cũng thấy thân này là thật, thấy vọng tưởng là thật, thấy cảnh vật là thật. Dùng trí Bát-nhă quán chiếu thấy thân này do duyên hợp tạm có, vọng tưởng cũng là tướng duyên hợp chợt hiện chợt mất, cảnh vật cũng là tướng duyên hợp không thật. Khi thấy thân này không thật, vọng tưởng không thật, cảnh vật không thật th́ ái, thủ, hữu theo đó mà dứt. Như vậy vô minh diệt th́ hành diệt ngay trong đời này. Đó là dùng trí tuệ phá dẹp vô minh để thoát khỏi luân hồi sanh tử. Nhưng từ đâu mà thắp sáng trí tuệ ? Kinh A-hàm Phật có dạy chư Tỳ-kheo: “Các ông hăy tự thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc lên với chánh pháp.” Chánh pháp Phật dạy được kết tập lại thành Tam tạng giáo điển, chúng ta học hiểu và thực hành theo lời Phật dạy bằng cách giữ giới luật, tu thiền quán, trí tuệ bừng sáng, không c̣n thấy biết mê mờ, không tạo nghiệp dẫn đi trong luân hồi sanh tử, đó là tự thắp đuốc lên với chánh pháp để phá vô minh. Đạo Phật chủ trương phát huy trí tuệ để dẹp vô minh, v́ vậy trong tất cả thời khóa tụng niệm ở trong chùa đều có tụng Bát-nhă tâm kinh. Bát-nhă tâm kinh là kinh dạy cho chúng ta dùng trí thấy đúng như thật về thân, về tâm, về pháp. Bất cứ pháp tu nào cũng phải có trí tuệ, để phá vô minh mới dứt luân hồi sanh tử. Trước tự ḿnh tu, sau là giáo hóa cho người tu, hết vô minh thoát ly sanh tử luân hồi. Đó là mồi đuốc chánh pháp, hay nói theo tinh thần Thiền tông là truyền đăng tục diệm. Sau đây Phật lại dạy: “Do không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều được thiền định sâu mầu ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.” Không thọ tất cả các pháp là sao? Kinh Phạm Động trong Trường A-hàm có ghi lại giai đoạn Phật đi du hóa gặp hai người Phạm chí, thầy th́ dùng đủ cách để chê Phật, tṛ cũng dùng đủ cách để khen Phật. Khi về tinh xá Phật dạy các Tỳ-kheo: Nếu gặp người hủy báng Phật, Pháp, Tăng, các ngươi chớ sinh oán giận, hoặc có ác ư với người ta, v́ như vậy sẽ bị hăm nịch. Và khi gặp người khen ngợi tán thán Phật, Pháp, Tăng, các ngươi lấy đó làm vui mừng kiêu hănh cũng bị hăm nịch. V́ khi vui mừng kiêu hănh hay oán giận có ác ư th́ không thấy đúng lẽ thật, mờ tối không có trí tuệ nên bi ưu khổ năo bủa vây. Phật lại nói tiếp, người chỉ căn cứ vào h́nh thức giới tướng như ăn một ngày một bữa, mặc chỉ ba y, đêm thức nhiều ngủ ít, hành hạnh khất thực... Phật nói người khen Ngài như vậy là chưa hiểu Ngài. Chỗ đáng khen của Ngài chỉ có các bậc A-la-hán mới biết để khen là: “Ngài biết tất cả pháp mà không thọ.” Thế nào là không thọ ? Sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, tiếp xúc với sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp không thọ nhận. Mắt thấy cảnh, thấy người biết là cảnh là người, chớ không thấy cảnh đẹp người đẹp th́ ưa thích, thấy cảnh xấu người xấu th́ ghét bỏ, đó là không thọ. Hoặc tai nghe tiếng khen biết là khen, nghe tiếng chê biết là chê, không nhận tiếng khen khởi tâm vui mừng, không nhận tiếng chê sanh tâm buồn giận, đó là không thọ. Nếu thấy cảnh đẹp người đẹp hay nghe tiếng khen mà sanh ḷng ưa thích đó là thọ lạc. Hoặc thấy cảnh xấu người xấu hay tiếng chê mà sanh buồn giận đó là thọ khổ. Tắng ái sở dĩ có là do thọ khổ thọ lạc mà ra. Nếu không có tắng ái làm ǵ có thủ và hữu đời sau ? Nên nói không thọ tất cả là nhân giải thoát. Nhưng làm sao không thọ ? Mắt thấy vật thấy người, biết đẹp biết xấu, tai nghe tiếng khen tiếng chê, biết là khen là chê. Nhưng đẹp xấu khen chê, dùng trí tuệ biết rơ nó là tướng duyên hợp không thật. Đẹp trên tướng giả, xấu trên tướng giả, khen trên tướng giả, chê trên tướng giả. Thấy đúng lẽ thật của các pháp không lầm, không lầm th́ không thọ, không thọ th́ không nhiễm trước do đó mà được vô lậu giải thoát. Chúng ta v́ si mê nên lầm chấp các pháp, chấp các pháp là thọ nên tự trói buộc, sanh vô số phiền năo khổ đau, đi măi trong luân hồi sanh tử. 8. CHÁNH VĂN : *Bấy giờ, mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa-di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đă từng cúng dường trăm ngh́n muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Các vị Đại đức Thanh văn vô lượng ngh́n muôn ức đây đă thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên v́ chúng con nói pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học. Thế Tôn ! Chúng con có chí mong được Tri kiến của Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, đức Phật tự chứng biết cho.” Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia, cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho. Bấy giờ, đức Phật nhận lời thỉnh của Sa-di qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bốn chúng nói kinh Đại thừa tên là: “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. Đức Phật nói kinh đó xong, mười sáu vị Sa-di v́ đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều đồng thọ tŕ đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa-di Bồ-tát thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra ngh́n muôn ức loại chúng sanh đều sanh ḷng nghi lầm. Phật nói kinh đó suốt tám ngh́n kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn ngh́n kiếp. GIẢNG : Mười sáu vị vương tử xuất gia làm Sa-di các căn trí lanh sáng, thiết tha cầu Phật Đại Thông Trí Thắng nói pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác để các Ngài được nghe và được tu chứng thành Phật. Đức Đại Thông Trí Thắng Phật thể theo lời yêu cầu của mười sáu vị Sa-di, Ngài nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nói xong liền trụ trong thiền định suốt 84.000 kiếp. 9. CHÁNH VĂN : *Bấy giờ, mười sáu vị Bồ-tát Sa-di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên pháp ṭa cũng trong tám muôn bốn ngh́n kiếp v́ bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. GIẢNG : Sau khi biết Phật Đại Thông Trí Thắng trụ trong thiền định, muời sáu vị Bồ-tát Sa-di đều lên pháp ṭa v́ tứ chúng mà nói kinh Pháp Hoa, mỗi vị đều độ vô số chúng sanh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị Sa-di chỉ là Bồ-tát thôi, chưa chứng quả Phật mà vẫn ra nói pháp cho tứ chúng nghe. V́ các vị Bồ-tát Sa-di đă tin thọ lời Phật dạy rồi, nên có quyền ra hành Bồ-tát đạo độ chúng sanh cho công hạnh tự giác giác tha được viên măn để thành Phật. Chúng ta thấy rơ tinh thần của đạo Phật, ngoài công việc tự giác ở chính ḿnh, c̣n phải làm lợi ích cho chúng sanh, chớ không phải đợi tu thành Phật rồi mới ra giáo hóa. Như chúng ta đă thấy Phật Thích-ca thường nhắc lại ở kinh Bổn Sanh, trải qua nhiều đời nhiều kiếp Ngài hành Bồ-tát đạo, kiếp sau cùng mới thành Phật dưới cội bồ-đề. Nên nói tự giác giác tha viên măn th́ thành Phật. 10. CHÁNH VĂN : *Đức Đại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn ngh́n kiếp sau từ tam-muội dậy, qua đến pháp ṭa mà ngồi an lành, khắp bảo trong hàng đại chúng: “Mười sáu vị Bồ-tát Sa-di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đă từng cúng dường vô lượng ngh́n muôn ức số đức Phật, ở chỗ các đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ tŕ trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy. V́ sao? Nếu hàng Thanh văn, Duyên giác cùng các Bồ-tát có thể tin kinh pháp của mười sáu vị Bồ-tát Sa-di đó nói mà thọ tŕ không mất, thời người đó sẽ được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trí huệ của Như Lai.” GIẢNG : Pháp mà mười sáu vị Sa-di Bồ-tát nói là kinh Pháp Hoa, tức là Tri kiến Phật. Các Ngài đă tin nhận được Tri kiến Phật rồi thọ tŕ tu hành, sau này chắc chắn sẽ thành Phật không nghi. Đó là trách nhiệm giáo hóa của Đức Phật Đại Thông Trí Thắng đă xong. 11. CHÁNH VĂN : *Phật bảo các Tỳ-kheo: “Mười sáu vị Bồ-tát đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nầy. Sáu trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa chúng sanh của mỗi vị Bồ-tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ-tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ-tát thảy đều tin hiểu. Nhờ nhân duyên đó mà được gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt. Các Tỳ-kheo ! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa-di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hiện đương nói pháp trong cơi nước ở mười phương, có vô lượng trăm ngh́n muôn ức Bồ-tát, Thanh văn để làm quyến thuộc. Hai vị Sa-di làm Phật ở phương Đông: vị thứ nhứt tên là A-súc ở nước Hoan Hỉ, vị thứ hai tên là Tu-di Đảnh. Hai vị làm Phật ở phương Đông Nam: vị thứ nhứt tên là Sư Tử Âm, vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Nam: vị thứ nhứt tên là Hư Không Trụ, vị thứ hai tên là Thường Diệt. Hai vị làm Phật ở phương Tây Nam: vị thứ nhất tên là Đế Tướng, vị thứ hai tên là Phạm Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Tây: vị thứ nhứt tên là A-di-đà, vị thứ hai tên là Độ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Năo. Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: vị thứ nhứt tên là Đa-ma-la-bạt Chiên-đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu-di Tướng. Hai vị làm Phật ở phương Bắc: vị thứ nhứt tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương. Một vị làm Phật ở phương Đông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy. Vị thứ mười sáu, chính ta là Thích-ca Mâu-ni Phật ở cơi nước Ta-bà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các Tỳ-kheo ! Lúc chúng ta làm Sa-di mỗi người giáo hóa vô lượng trăm ngh́n muôn Hằng hà sa chúng sanh, v́ đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác theo ta nghe pháp. Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bậc Thanh văn, ta thường giáo hóa pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo. V́ sao? V́ trí tuệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng Hằng hà sa chúng sanh được hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các Tỳ-kheo, và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thanh văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ-tát, tự ở nơi công đức của ḿnh được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết-bàn. Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh ḷng tưởng là diệt độ nhập Niết- bàn, nhưng ở nơi cơi kia cầu trí huệ Phật được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp. Các Tỳ-kheo ! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết-bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh ḷng tin hiểu bền chắc, rơ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ-tát và chúng Thanh văn mà v́ nói kinh này. Trong đời không có hai thừa mà được diệt độ, chỉ có một Phật thừa được diệt độ thôi. Các Tỳ-kheo nên rơ ! Đức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ, rất ham năm món dục, v́ hạng người này mà nói Niết-bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận. GIẢNG : Những vị Sa-di Bồ-tát do nghe kinh Pháp Hoa và nói kinh Pháp Hoa để giáo hóa chúng sanh, sau này ra đời đều gặp chư vị Bồ-tát, và chư Phật tiếp tục tu hành tiến măi trên đường tu cho đến khi thành Phật. Và sau khi thành Phật th́ cứ hai vị giáo hóa một phương, như phương Đông có Phật A-súc, Phật Tu-di Đảnh, phương Nam có Phật Sư Tử Âm, Sư Tử Tướng... cho tới muời phương, phương nào cũng có các Phật do đức Đại Thông Trí Thắng giáo hóa thành Phật. Và chính đức Thích-ca Mâu-ni cũng do đức Đại Thông Trí Thắng là cha nói kinh Pháp Hoa giáo hóa mà được thành Phật. Như vậy là thế nào ? Kinh Kim Cang có đoạn nói: Kinh này là mẹ của chư Phật ba đời. Kinh điển từ miệng Phật nói ra, tại sao lại nói kinh là mẹ của Phật ? Kinh này là chỉ cho Kim Cang Bát-nhă Ba-la-mật. Chư Phật nếu được thành Phật là phải đầy đủ trí tuệ, nếu không có trí tuệ th́ không thể thành Phật, mà Phật là giác và giác là trí tuệ. Nên nói Kim Cang Bát-nhă Ba-la-mật là mẹ của chư Phật. Cũng vậy, ở đây thay v́ nói Kim Cang Bát-nhă Ba-la-mật là mẹ của chư Phật th́ dùng h́nh ảnh đức Phật Đại Thông Trí Thắng nói kinh Pháp Hoa, con của Ngài nhân nghe kinh Pháp Hoa mà tu hành thành Phật ở khắp mười phương. Như vậy, chư Phật ở mười phương được thành Phật là do đức Đại Thông Trí Thắng là cha nói kinh Pháp Hoa, các Ngài nghe tu hành mà được thành Phật. Đức Đại Thông Trí Thắng là chỉ cho Pháp thân, nếu muốn sống được với Pháp thân th́ không ǵ hơn là từ Tri kiến Phật mà vào, v́ Tri kiến Phật là dụng của Pháp thân. Ví dụ một ngọn đèn đốt ở giữa nhà, nhà có sáu cửa mở rộng, người ở ngoài nhà do thấy ánh sáng từ sáu cửa mà biết có đèn trong nhà, và phải do cửa mà vào nhà mới thấy được ngọn đèn. Ngọn đèn dụ cho Pháp thân Phật, ánh sáng tỏa ra sáu cửa dụ cho Tri kiến Phật. Tri kiến Phật từ Pháp thân tỏa ra gọi là dụng của Pháp thân, muốn sống được với Pháp thân th́ phải từ Tri kiến Phật mà vào, chớ không có con đường nào khác. V́ vậy nên đây mới nói đức Đại Thông Trí Thắng giảng kinh Pháp Hoa cho các Sa-di Bồ-tát tu và được thành Phật. Tóm lại muời phương chư Phật đều từ cửa Tri kiến Phật mà ngộ nhập được Pháp thân Phật, chớ không có cửa nào đường nào khác. V́ vậy nên các Ngài tu trong vô lượng kiếp khi thành Phật rồi mỗi vị phân ở mỗi phương, để nói lên ư nghĩa Pháp thân không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Tới đây Phật nói trí tuệ Phật khó tin khó hiểu. Song, có vô số chúng sanh đă được Phật giáo hóa, tu theo Phật chứng quả Thanh văn rồi đến Bồ-tát. Lại cũng có người sau này nghe pháp Phật có ḷng tin tưởng Phật nhập Niết-bàn là hết không trở lại, không ngờ Phật thị hiện Niết-bàn ở đây rồi giáng sinh ở kia để giáo hóa chúng sanh, chớ không phải ngang đó mà hết. Diệt độ tức là Niết-bàn. Đạo Phật chỉ có một Niết-bàn duy nhất là Niết-bàn Phật. Sở dĩ Phật nói Niết-bàn Thanh văn, Duyên giác chẳng qua là phương tiện dẫn dụ, v́ Ngài biết tâm chúng sanh thích ngũ dục ưa pháp nhỏ, để cho thấy dễ họ ham mà hướng dẫn họ tu lần lần. Nếu nói tu lâu và phải chứng được Phật quả th́ ho ïngán sanh lười mỏi không chịu tu. 12. CHÁNH VĂN : *Thí như đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do-tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường nầy đến chỗ trân bửu, có một vị Đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rơ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhân muốn vượt qua nạn đó. Chúng nhân được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch Đạo sư rằng: “Chúng con mệt nhọc lại thêm sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước c̣n xa nay muốn lui về.” Vị Đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: “Bọn nầy đáng thương, làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về”. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do-tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhân rằng: “Các ngươi chớ sợ, đừng lui về, nay thành lớn nầy có thể dừng ở trong đó tùy ư muốn làm ǵ th́ làm, nếu vào thành nầy sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu đi cũng được.” Bấy giờ, chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Đó rồi chúng nhân thẳng vào hóa thành sanh ḷng tưởng cho rằng đă được độ rất an ổn. Lúc ấy Đạo sư biết chúng nhân đó đă được nghỉ ngơi không c̣n mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhân rằng: “Các ngươi nên đi tới, chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi.” Các Tỳ-kheo ! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay v́ các ông mà làm vị Đại Đạo sư, biết các đường dữ sanh tử phiền năo hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua. Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật, chẳng muốn gần gũi, mà nghĩ thế nầy: “Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể được thành.” Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường v́ để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết-bàn. Nếu chúng sanh trụ nơi hai bậc, đức Như Lai bấy giờ liền bèn v́ nói: “Chỗ tu của các ông chưa xong, bậc của các ông ở gần với huệ của Phật. Phải quan sát suy lường Niết-bàn đă được đó chẳng phải chân thật vậy. Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị Đạo sư kia v́ cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa làm thành lớn, đă biết nghỉ xong mà bảo đó rằng: “Chỗ châu báu ở gần, thành nầy không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi.” Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: * Đại Thông Trí Thắng Phật Mười kiếp ngồi đạo tràng Phật pháp chẳng hiện tiền Chẳng được thành Phật đạo Các trời thần, Long vương, Chúng a-tu-la thảy Thường rưới các hoa trời Để cúng dường Phật đó Chư thiên đánh trống trời Và trỗi các kỹ nhạc Gió thơm thổi hoa héo Lại mưa bông tốt mới Quá mười tiểu kiếp rồi Mới được thành Phật đạo Các trời cùng người đời Ḷng đều sanh hớn hở Mười sáu người con Phật Đều cùng quyến thuộc ḿnh Ngh́n muôn ức vây quanh Cùng đi đến chỗ Phật Đầu mặt lạy chân Phật Thỉnh Phật chuyển pháp luân: “Đấng Thánh sư mưa pháp Lợi con và tất cả Thế Tôn rất khó gặp Lâu xa một lần hiện V́ giác ngộ quần sanh Mà chấn động tất cả.” Các thế giới phương Đông Năm trăm muôn ức cơi Phạm cung điện sáng chói Từ xưa chưa từng có Phạm vương thấy tướng nầy Liền đến chỗ Phật ở Rải hoa để cúng dường Và dưng cung điện lên Thỉnh Phật chuyển pháp luân Nói kệ ngợi khen Phật Phật biết chưa đến giờ Nhận thỉnh yên lặng ngồi Ba phương cùng bốn phía Trên, dưới cũng như thế Rưới hoa, dưng cung điện Thỉnh Phật chuyển pháp luân: “Thế Tôn rất khó gặp Nguyện v́ bổn từ bi Rộng mở cửa cam lồ Chuyển pháp luân vô thượng.” * Thế Tôn huệ vô thượng Nhân chúng nhân kia thỉnh V́ nói các món pháp Bốn đế, mười hai duyên Vô minh đến lăo tử Đều từ sanh duyên hữu Những quá hoạn như thế Các ông phải nên biết. Tuyên nói pháp đó rồi Sáu trăm muôn ức cai (Cai: một trăm triệu. ) Được hết các ngằn khổ Đều thành A-la-hán Thời nói pháp thứ hai Ngh́n muôn Hằng sa chúng Ở các pháp chẳng thọ Cũng được A-la-hán Từ sau đây được đạo Số đông đến vô lượng Muôn ức kiếp tính kể Không thể được ngằn mé. * Bấy giờ mười sáu vị Xuất gia làm Sa-di Đều đồng thỉnh Phật kia Diễn nói pháp Đại thừa: “Chúng con cùng quyến thuộc Đều sẽ thành Phật đạo Nguyện được như Thế Tôn Huệ nhăn sạch thứ nhất.” Phật biết ḷng đồng tử Chỗ làm của đời trước Dùng vô lượng nhân duyên Cùng các món thí dụ Nói sáu Ba-la-mật Và các việc thần thông Phân biệt pháp chân thiệt Đạo của Bồ-tát làm Nói kinh Pháp Hoa nầy Kệ nhiều như Hằng sa. Phật kia nói kinh rồi Vào tịnh thất nhập định Tám muôn bốn ngh́n kiếp Một ḷng ngồi một chỗ. Các vị Sa-di đó Biết Phật chưa xuất thiền V́ vô lượng chúng nói Huệ Vô thượng của Phật Mỗi vị ngồi pháp ṭa Nói kinh Đại thừa nầy Sau khi Phật yên lặng Tuyên bày giúp giáo hóa. Mỗi vị Sa-di thảy Số chúng sanh ḿnh độ Có sáu trăm muôn ức Hằng hà sa các chúng. Sau khi Phật diệt độ Các người nghe pháp đó Ở các nơi cơi Phật Thường cùng thầy sanh chung. Mười sáu Sa-di đó Đầy đủ tu Phật đạo Nay hiện ở mười phương Đều được thành Chánh giác Người nghe pháp thuở đó Đều ở chỗ các Phật Có người trụ Thanh văn Lần dạy cho Phật đạo. Ta ở số mười sáu Cũng từng v́ ngươi nói Cho nên dùng phương tiện Dẫn ngươi đến huệ Phật Do bổn nhân duyên đó Nay nói kinh Pháp Hoa Khiến ngươi vào Phật đạo Dè dặt chớ kinh sợ. * Thí như đường hiểm dữ Xa vắng nhiều thú độc Và lại không cỏ nước Chốn mọi người ghê sợ Vô số ngh́n muôn chúng Muốn qua đường hiểm nầy Đường đó rất xa vời Trải năm trăm do-tuần. Bấy giờ một Đạo sư Nhớ dai có trí huệ Sáng suốt ḷng quyết định Đường hiểm cứu các nạn Mọi người đều mệt mỏi Mà bạch Đạo sư rằng: “Chúng con nay mỏi mệt Nơi đây muốn trở về.” Đạo sư nghĩ thế nầy Bọn nầy rất đáng thương Làm sao muốn lui về Cam mất trân bửu lớn ? Liền lại nghĩ phương tiện Nên bày sức thần thông Hóa làm thành quách lớn Các nhà cửa trang nghiêm Bốn bề có vườn rừng Sông ng̣i và ao tắm Cửa lớn lầu gác cao Trai, gái đều đông vầy. Hóa ra thành đó rồi An ủi chúng: “Chớ sợ Các ngươi vào thành nầy Đều được vừa chỗ muốn.” Mọi người đă vào thành Ḷng đều rất vui mừng Đều sanh tưởng an ổn Tự nói đă được độ. Đạo sư biết nghĩ xong Nhóm chúng mà bảo rằng: “Các ngươi nên đi nữa Đây là hóa thành thôi Thấy các ngươi mỏi mệt Giữa đường muốn lui về Nên dùng sức phương tiện Ta hóa làm thành nầy Các ngươi gắng tinh tấn Nên đồng đến chỗ báu * Ta cũng lại như vậy Đạo sư của tất cả Thấy những người cầu đạo Giữa đường mà lười bỏ Không thể vượt đường dữ Sanh tử đầy phiền năo Nên dùng sức phương tiện V́ nghỉ nói Niết-bàn. Rằng các ngươi khổ dứt Chỗ làm đều đă xong Đă biết đến Niết-bàn Đều chứng A-la-hán Giờ mới nhóm đại chúng V́ nói pháp chân thật Sức phương tiện các Phật Phân biệt nói ba thừa Chỉ có một Phật thừa V́ nghỉ nên nói hai V́ các ngươi nói thiệt Các ngươi chưa phải diệt, V́ Nhất thiết trí Phật Nên phát tinh tấn mạnh Ngươi chứng Nhất thiết trí Mười lực các Phật pháp Đủ băm hai tướng tốt Mới là chân thiệt diệt, Các Phật là Đạo sư V́ nghỉ nói Niết-bàn Đă biết ngơi nghỉ rồi Dẫn vào nơi huệ Phật. GIẢNG : Để cho rơ nghĩa hơn, Phật nói ví dụ: Có một đoàn người đi lấy trân bảo phải đi qua con đường rất dài, hoang vắng không người, nhiều tai nạn nguy hiểm. Đoàn người nầy đi qua được một đoạn đường dài khá mệt nhọc mà chưa tới chỗ trân bảo, nên sanh tâm chán nản muốn thối lui. Khi đó vị hướng đạo là người thông minh tài trí rơ biết đường đi, không muốn cho đoàn người mất lợi ích bèn dụ dẫn đoàn người rằng, ở phía trước có một cái thành rất an ổn, hăy ráng đi chút nữa rồi sẽ vào thành nghỉ ngơi cho khỏe. Nghe vị hướng đạo nói, mọi người rất vui mừng, nỗ lực tiếp tục đi đến thành, vào trong ấy được mọi nhu cầu tiện nghi rất an ổn, nên muốn nghỉ luôn ở đó. Vị hướng đạo thông minh tài trí biết đoàn người nghỉ đă hết mệt, bèn nói với họ rằng thành nầy do ta hóa ra để cho các người nghỉ, chớ không phải là chỗ chứa trân bảo. Hăy ra khỏi thành nầy và đi thêm một đoạn đường nữa sẽ đến chỗ chúng ta muốn đến. Đoàn người hết mệt nhọc nên nên tiếp tục đi đến đích. Đây là tâm bịnh chung của tu sĩ chúng ta, khi mới xuất gia tuổi c̣n trẻ phấn chấn tu hành, nhưng khi tu được năm, mười năm, chưa chứng đạo quả bèn sanh tâm lười mỏi muốn thối lui, v́ thấy quả Phật khó thành. Trên đường tu hay gặp những chướng nạn ma vương như sắc, tài, danh, lợi cám dỗ. Người tu không khéo tỉnh giác th́ mắc bẫy, sa hầm sụp hố. Nên tuổi trẻ đi tu th́ nhiều nhưng giữ được phạm hạnh thanh tịnh cho tới tuổi già th́ rất ít. Số c̣n lại, người th́ tay bồng tay dắt, kẻ th́ lạc ngơ tẽ nầy, kẻ th́ lạc lối quanh nọ... Rốt cuộc rồi tu chẳng tới đâu. Nên người hướng dẫn biết tâm bịnh đó phải khuyến khích, chẳng hạn như tôi nói tu một giờ là tiến một giờ, tu một ngày là tiến một ngày, tu một tháng là tiến một tháng. Vọng tưởng khởi, biết, không theo là giác, vọng tưởng khởi một trăm lần, giác một trăm lần là tiến rồi. Tôi lấy cái nhỏ để khuyến khích họ, chớ bảo tọa thiền nhập định năm, bảy ngày th́ họ không thực hiện nổi, phải tùy theo tŕnh độ mà hướng dẫn, điều phục họ tiến cho xuôi đường thẳng lối, làm thầy khó là khó ở chỗ đó. Đây là phần hợp pháp thí dụ: Vị Đạo sư dẫn đường là dụ cho đức Phật. Đoàn người đi t́m trân bảo dụ cho các bậc Thanh văn, Duyên giác đang tu theo sự hướng dẫn của Phật. Hóa thành là Niết-bàn Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chỗ chứa trân bảo tức quả Phật. Phật biết hàng Tỳ-kheo tu theo hạnh Thanh văn với tâm nguyện nhỏ hẹp, nên trước Ngài nói tu đoạn sạch phiền năo liền chứng Niết-bàn tịch diệt. Niết-bàn đó chỉ là phương tiện, là Niết-bàn tạm thôi, v́ chỉ làm lợi ích cho ḿnh, thiếu phần công đức lợi tha cho người nên chưa được viên măn. V́ vậy muốn được Niết-bàn cứu kính chân thật ngoài phần tự tu cho ḿnh giác ngộ thành Phật, c̣n phải giáo hóa cho người cũng được giác ngộ thành Phật như ḿnh, tới đó mới là viên măn. Như vậy quí vị mới thấy tinh thần Tiểu thừa và Đại thừa dị biệt ở chỗ nào. Thật ra tu mà giữ phạm hạnh, hết phiền năo tâm thanh tịnh, sánh với chúng ta th́ quá quí. Tuy nhiên được phần ḿnh rồi, nh́n lại người c̣n đang mờ tối quờ quạng khổ đau, mà làm ngơ không hóa độ th́ ḷng từ chưa khai mở. Nên ở trước Phật mới ví Niết-bàn Thanh văn giá đáng chừng một bữa ăn là vậy. Phật dùng thí dụ nầy cho hàng Thanh văn thấy rơ thêm các Ngài đă có chủng tử Tri kiến Phật và Niết-bàn các Ngài được chỉ là tạm, chưa phải cứu kính, không nên an trú trong đó. Phải khởi tâm đại bi, ra giáo hóa chúng sanh cho công hạnh tự giác giác tha viên măn thành Phật. V́ thương chúng sanh, v́ thương đệ tử đi chưa tới chỗ cứu kính viên măn, nên Phật dùng mọi phương tiện để giáo hóa, thúc đẩy đi cho tới chỗ rốt ráo như Ngài, Ngài mới toại nguyện. Nên khi Phật nói kinh Pháp Hoa rồi Ngài nhập Niết-bàn rất là hợp lư, v́ đă có người tin nhận chỗ Ngài muốn chỉ. V́ vậy, Phật Niết-bàn rồi mà Phật pháp vẫn c̣n tồn tại ở thế gian không mất. Đây tôi nhắc lại một lần nữa, bản hoài của đức Phật là muốn cho mọi người đều được giác ngộ thành Phật, chớ không bằng ḷng cho bất cứ một ai dừng ở bất cứ chặng đường nào. Nếu chúng ta hài ḷng ở chặng đường nào đều bị Phật quở. Phẩm nầy có thể phân bốn đoạn: 1.- Trí tuệ Phật không bị hạn cuộc ở thời gian, v́ định lực Phật rất thâm sâu nên có thể nhớ vô số kiếp về quá khứ, thấy biết một cách tường tận không sai lầm. Và v́ Trí tuệ Phật là thể sáng suốt thanh tịnh, vượt ngoài ư niệm về ngày tháng năm theo thông lệ của thế gian. 2.- Trí tuệ Phật không bị giới hạn bởi không gian, v́ Phật đă trải qua vô lượng kiếp tu tập Trí tuệ, nên trí tuệ Phật viên măn không giới hạn. Và trí tuệ Phật là thể sáng suốt không h́nh tướng trùm khắp, nên không giới hạn bởi không gian. 3.- Mười sáu vị vương tử từ đức Phật Đại Thông Trí Thắng mà được thành Phật, rồi phân vị mà giáo hóa ở tám phương. Điều nầy cho chúng ta thấy sức hiểu biết của Phật không thể nghĩ bàn, không riêng ở cơi ta-bà mới có Phật như từ lâu chúng ta nghĩ tưởng, mà ở những thế giới khác cũng có Phật giáo hóa. Trí tuệ Phật là thể sáng suốt viên măn trùm khắp tất cả không đâu không có. Và không ai tu mà không từ Trí tuệ Phật khởi tu để được thành Phật. 4.- Dụ hóa thành cho thấy rằng Trí tuệ Phật rộng lớn không ngằn mé. Công hạnh Phật không thể tính kể, với ư chí tầm thường của phàm phu không thể theo nổi, nên Phật tùy căn cơ chúng sanh phương tiện nói Ngũ thừa Phật giáo hướng dẫn từ thấp lần lên cao, cuối cùng đưa chúng sanh đến mục đích cứu kính mà Phật muốn chỉ là Phật thừa. C̣n kết quả được ở Ngũ thừa chỉ là quả an vui tạm bợ không nên an trụ nơi ấy. Muốn đạt được quả Phật th́ phải trải qua nhiều kiếp tu lâu dài cho công hạnh Bồ-tát đầy đủ, trí tuệ Phật viên măn mới thành Phật. ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]