DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 14: AN LẠC HẠNH An lạc hạnh là công hạnh tu hành đúng như lời Phật dạy để việc tự lợi lợi tha được an vui không có chướng nạn. V́ ở trước các hàng Bồ-tát phát nguyện sau khi Phật Niết-bàn, các Ngài sẽ đem kinh Pháp Hoa giáo hóa cho người sau, dù có gặp khó khăn chướng ngại cũng không thối chuyển, các Ngài xả thân v́ đạo Vô thượng Bồ-đề. 1. CHÁNH VĂN : * Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi đại Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! các vị Bồ-tát này rất là ít có, v́ kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: “Ở nơi đời ác sau, hộ tŕ đọc nói kinh Pháp Hoa này.” Thế Tôn ! Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này ?” Phật bảo ngài Văn-thù-sư-lợi: “Nếu vị đại Bồ-tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an trụ trong bốn pháp.” GIẢNG : Bồ-tát Văn-thù tán thán những vị Bồ-tát thuận theo Phật, nguyện ở đời ác sau hộ tŕ giảng nói kinh Pháp Hoa. Kế đó, Ngài nêu lên câu hỏi: Các vị đại Bồ-tát ở đời ác sau, làm thế nào có thể nói kinh Pháp Hoa ? Phật dạy ở đời ác sau muốn nói kinh này phải trụ trong bốn pháp. 2. CHÁNH VĂN : * Một, an trụ nơi “Hành xứ” và nơi “Thân cận xứ” của Bồ-tát, thời có thể v́ chúng sanh mà diễn nói kinh này. Văn-thù-sư-lợi ! Thế nào gọi là chỗ “Hành xứ” của đại Bồ-tát ? Nếu vị đại Bồ-tát an trụ trong nhẫn nhục ḥa dịu khéo thuận mà không vụt chạc, ḷng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp cũng chẳng vin theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ “Hành xứ” của Bồ-tát. Thế nào gọi là chỗ “Thân cận” của đại Bồ-tát ? Vị đại Bồ-tát chẳng gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại đạo Phạm chí, Ni-kiền-tử v.v... và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại đạo cùng với phái “Lộ-già-da-đà” phái “Nghịch Lộ-già-da-đà”, cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau và bọn Na-la v.v... bày các cuộc chơi biến luận. Lại chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ-tát v́ nói pháp không có ḷng mong cầu. Lại chẳng gần gũi những Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di hạng người cầu quả Thanh văn, cũng chẳng thăm hỏi hoặc ở trong pḥng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ-tát theo cơ nghi nói pháp không ḷng mong cầu. Văn-thù-sư-lợi ! Lại vị đại Bồ-tát chẳng nên ở nơi thân người nữ có niệm tưởng hay sanh dục nhiễm và v́ nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa v.v... chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam để làm thân hậu. Chẳng riêng ḿnh vào nhà người, nếu lúc có nhân duyên cần riêng ḿnh vào thời chuyên một ḷng niệm Phật. Nếu v́ người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến v́ pháp mà c̣n chẳng thân hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm ḿnh. Văn-thù-sư-lợi ! Đó gọi là “chỗ thân cận ban đầu”. GIẢNG : Bốn pháp Phật dạy Bồ-tát ở đời sau phải an trụ để nói kinh Pháp Hoa là: Một là an trụ nơi “Hành xứ” và “Thân cận xứ”. An trụ nơi Hành xứ là nhẫn nhục ḥa dịu, khéo thuận mà không vụt chạc, ḷng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp, chẳng vin theo chẳng phân biệt. Trước, tôi nói về hạnh nhẫn nhục ḥa dịu không nóng nảy, không kinh sợ. Thí dụ như: Tối, đến giờ chỉ tịnh, thầy hương đăng sửa soạn đóng cửa chùa. Có người đến ngăn cản, nói những câu trái ư nghịch ḷng, làm cho thầy hương đăng bậc bội, thầy lộ ra cử chỉ thô tháo, đóng cửa mạnh tay, gây tiếng động rầm rầm. Đó là thiếu nhẫn nhục, thiếu ḥa dịu, vụt chạc. Khi thầy hương đăng có thái độ vụt chạc không ḥa dịu là do tự tâm thầy đă bất an phiền năo, nên mới phát lộ ra làm phiền ḷng người đối diện và mọi người chung quanh. Khi thấy một sự việc xảy ra, hay nghe một câu nói bất b́nh, tâm khởi niệm bậc bội liền tỉnh giác buông ngay, không tiếp tục nghĩ suy nữa, tâm liền được an ổn. Và tự tâm ḿnh đă an ổn th́ mọi người trong cộng đồng sống chung với ḿnh cũng được an vui. V́ vậy muốn được an lạc th́ phải tu hạnh nhẫn nhục nhu ḥa. Kế đó là phải có ḷng can đảm không sợ sệt. V́ trong đời sau Phật Niết-bàn, người ác nhiều, người hiền ít. Khi nói đạo lư th́ người hiền nghe, người ác lại ghét, nên họ hăm dọa phá phách. Nếu v́ sự hăm dọa phá phách của họ, mà ḿnh không dám giảng nói th́ ḿnh không thực hành được hạnh Bồ-tát. V́ vậy, vừa nhẫn nhục nhu ḥa lại vừa can đảm, chớ không phải nhẫn nhục ḥa nhu, rồi việc ǵ cũng vâng dạ tuân theo lệnh của bạo lực, th́ không thể xiển dương được chánh pháp. Nhớ là nhẫn mà không nhu nhược. Thứ đến là ở nơi các pháp không phân biệt, không vin theo, mà quán tướng như thật của các pháp. Đối cảnh tâm không khởi cái này đẹp cái kia xấu, cái này hơn cái kia thua... đó là ở nơi các pháp không phân biệt. Đúng ra, quán tướng như thật của các pháp trước, rồi mới không khởi phân biệt sau. Hàng Nhị thừa thấy tuớng như thật của các pháp là ngay nơi con người, hiện đang trẻ trung cường tráng, thấy rơ thân năm uẩn đang bị luật vô thường làm cho biến hoại, dần đưa đến bệnh hoạn già nua rồi chết mất, đó là khổ và không. C̣n với hàng Bồ-tát th́ ngay nơi thân năm uẩn này, thấy rơ nó do duyên hợp tạm có, không có thực thể cố định. Duyên hợp có h́nh hài con người th́ nói là sanh, duyên ly tán h́nh hài con người ră tan th́ nói là tử. Thành hoại hay sanh tử là do duyên tụ hay tán, rơ ràng nó không thật có. Như vậy th́ có ǵ mà phân biệt tốt xấu hơn thua ? Nghe nói vậy quí vị đừng tưởng ḿnh ở ngoài cái tụ tán đó, thực ra ḿnh không ở ngoài cũng không ở trong. Tụ tán là tứ đại tụ tán, mà tứ đại là vô tri, c̣n ḿnh là hữu tri, “cái biết” đâu có tụ tán. Tứ đại tụ lại, có thân bằng xương bằng thịt này gọi là sanh, tứ đại ly tán, thân bằng xương bằng thịt này ră tan gọi là tử. Chớ “cái biết” đâu có sanh tử. Nên tôi nói “Gá thân mộng”. Thân này là mộng “cái biết” gá vào thân, thân tứ đại không phải là ḿnh. V́ “cái biết” gá vào thân nên có sinh hoạt hằng ngày gọi đó là cuộc sống tạm. Như vậy, nếu nh́n trên thực tướng th́ thấy thân này là một khối tứ đại đất, nước, gió, lửa hợp thành, sinh là tứ đại hợp, tử là tứ đại tan. Tỉ dụ chúng ta hít vô bao nhiêu không khí, khi thở ra cũng bấy nhiêu không khí, mượn vô bao nhiêu gió th́ trả ra bấy nhiêu, đất (thức ăn), nước mượn vô bao nhiêu rồi cũng phải trả ra bấy nhiêu . Và ngay thân tứ đại này là bao nhiêu khi ră tan cũng ră tan bấy nhiêu. Tứ đại tụ tán chớ Tri kiến Phật đâu có tụ tán hay sanh tử. Từ người rồi nh́n ra sự vật cũng vậy, duyên tụ th́ sự vật thành, duyên tán th́ sự vật hoại. Các pháp thành hoại là do duyên tụ tán, không có pháp nào là chân thật chắc bền, nên không vin theo không phân biệt. Đó là chỗ hành xứ của Bồ-tát. Sở dĩ vin theo các pháp để phân biệt là v́ thấy các pháp thật đẹp thật quí... nên ưa pháp này chán pháp kia. Nếu thấy các pháp do duyên hợp tạm có, nó không có thực thể cố định th́ vin vào đâu mà đeo đuổi dính mắc ? Vậy hành xứ của Bồ-tát là tâm nhu ḥa nhẫn nhục và thấy các pháp đúng như thật. Thường th́ chúng ta dễ mắc kẹt trên giả tướng giả danh, một vị Tỳ-kheo tu khoảng vài chục năm được gọi là Thượng tọa. Nếu có ai không biết gọi là Đại đức, th́ khó chịu không vui, đó là do chấp ngă quá nặng, tu càng lâu ngă càng lớn, động tới là nổi sân, đó là do không thấy các pháp đúng như thật, nên ngă chấp càng lớn phiền năo thêm dày. Tất cả chỉ là giả danh giả tướng mà người ta không thấy cứ vin vào đó mà chấp, rồi thành bệnh. Thế nào là chỗ thân cận của đại Bồ-tát ? Một là Bồ-tát không gần gũi với những người có thế lực như quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng. Hai là không gần gũi với ngoại đạo. Ba là không gần gũi với những người viết sách thế tục. Bốn là không gần gũi hạng người ca hát. Năm là không gần gũi với người sống bằng những nghề ác. Nếu những hạng người đó có đến mong cầu nghe pháp th́ Bồ-tát v́ họ nói pháp với tâm không mong cầu. Thường t́nh, th́ người nói pháp hay có bệnh mong cầu lợi dưỡng muốn cho người cúng dường, thậm chí tụng kinh chẳng những mong cầu cúng dường mà c̣n ra giá trước nữa. Phật dạy người tu chúng ta phải có một đời sống cao thượng, nếu đối với năm hạng người đó nói pháp th́ tùy cơ mà nói, ḷng không mong cầu họ thù đáp bất cứ một thứ ǵ. Như thế mới là người nói pháp chân chính. Phật lại dạy Bồ-tát không nên thân cận với Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cầu quả Thanh văn. Nếu những người này cầu pháp th́ v́ họ nói pháp, tâm không khởi niệm mong cầu bất cứ điều ǵ. Đến đây, Phật dạy rất tỉ mỉ, nếu hạng người nữ cầu pháp th́ không nên nh́n trên thân họ mà sanh tâm dục nhiễm, chỉ một bề nói pháp giáo hóa họ. Chẳng v́ hàng gái tơ gái nhỏ mà nói chuyện, cũng chẳng thân cận với người bán nam bán nữ, v́ những người này có nhiều chướng tật, gần họ th́ lôi thôi lắm. Không nên một ḿnh vào nhà người, đây là lời Phật dạy chớ không phải qui chế của Thiền viện tự đặt ra. Nếu có duyên sự đặc biệt mà vào nhà người th́ phải niệm Phật. Niệm Phật là nhớ đến công hạnh Phật mà không khởi niệm ác, chớ không phải ngồi lâm râm niệm Nam-mô A-di-đà Phật. Phật c̣n dạy khi nói pháp cho người nữ, chớ cười hở răng hoặc để lộ hông ngực. V́ quấn y theo tu sĩ Nam tông Ấn Độ nếu bất cẩn th́ để lộ thân ra coi kỳ, nên phải dè dặt tối đa, tránh được những cái đó th́ sẽ không có chướng nạn, việc nói pháp mới tốt. Phật lại c̣n cẩn thận dạy không nên nuôi đệ tử Sa-di ít tuổi, và không cùng chúng đồng thầy. Tại sao giáo hóa mà hạn cuộc như vậy ? Theo tinh thần thừa kế, tức là nối tiếp ngọn đèn chánh pháp, nếu không nuôi dưỡng người trẻ nhỏ th́ lấy ai mà kế thừa Phật pháp ? Các chú nhỏ th́ khờ dại chưa biết tu hành, ham ăn, ham ngủ, ham chơi, ngỗ nghịch. Nếu nuôi là phải dạy dỗ, mà dạy dỗ th́ phải rầy la răn phạt, nếu răn phạt nhiều lần mà nó không nghe th́ sanh bậc bội, mà bậc bội là chướng đạo, ở đây Phật dạy không nên nuôi Sa-di ít tuổi. Và tại sao Phật dạy không cùng với chúng đồng thầy ? Thông thường những người tu có cái t́nh chấp là người cùng thầy người tu sau gọi người tu trước là Sư huynh. Giả sử như tôi đă nhận những đệ tử bốn năm mươi tuổi, tu cũng mấy mươi năm chẳng hạn như Đắc Pháp, bây giờ tôi nhận chú tiểu chừng mười hai tuổi làm đệ tử. Bấy giờ chú gọi Đắc Pháp là sư huynh có được không, trong khi Đắc Pháp đă có đệ tử ngoài ba mươi tuổi ? Nếu gọi Đắc Pháp là sư huynh th́ gọi đệ tử Đắc Pháp là ǵ ? Chẳng lẽ đệ tử Đắc Pháp ngoài ba mươi tuổi gọi chú tiểu mười hai tuổi bằng Sư chú ! Sư chú ǵ mà Phật pháp chưa thông, giới hạnh chưa nghiêm túc c̣n đùa giỡn nghịch ngợm ? Như thế chỉ làm rối loạn trong đạo. Theo tôi, người thọ cụ túc giới th́ gọi bằng thầy, c̣n là Sa-di th́ gọi bằng chú, chứ sư thúc sư bá sư huynh sư đệ... không khéo sẽ bị kẹt vào t́nh chấp chướng đạo ! Trước Phật dạy những chỗ cần phải xa lánh. Kế, Phật bảo thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm. Chỗ này có nhiều nhà phê b́nh kinh Pháp Hoa là kinh Đại thừa, chỉ thẳng chỗ cứu kính, mà cũng vẫn c̣n mang tinh thần Tiểu thừa. Nếu quan niệm như thế là sai lầm. V́ người đem kinh Pháp Hoa ra giáo hóa tức là đem mạng mạch Phật pháp trao lại cho đời, đó là trách nhiệm rất lớn. Nếu người đem trách nhiệm lớn lao trao cho người khác, mà không đủ tác phong uy tín để cho người tin, th́ người không quí, không quí th́ không thực hành theo. V́ vậy muốn làm được việc lớn khó làm, th́ trước hết phải tự tu chỉnh tâm ḿnh cho thanh tịnh, giới tướng cho nghiêm minh, điều ḿnh giảng dạy mới có giá trị, người đời mới kính tin và chấp nhận mà tiến tu dễ dàng. Nếu người giảng nói chưa đủ uy tín, th́ dù là của báu đem cho, họ cũng không nhận, chỉ làm chuyện vô ích. Tuy là h́nh tướng bên ngoài nhưng cũng là điều cần thiết để giáo hóa người. Hiện tại có một số Tăng Ni trẻ mang tinh thần Đại thừa quá sớm, cho những tu sĩ ǵn giữ giới luật là Tiểu thừa, cố chấp, không hiểu nam nữ b́nh đẳng, Phật tánh đồng nhất..., kẻ đó là bệnh. Tuy đứng về tánh mà nói Tri kiến Phật không có nam nữ, không có lớn nhỏ sai biệt. Nhưng chúng sanh nh́n người hướng đạo là nh́n theo nghiệp tướng hay nh́n theo thể tánh ? Đứng trên mặt giáo hóa lợi tha, chúng sanh phàm phu đa số là nh́n người hướng đạo theo nghiệp tướng, nếu làm trái với cái thấy biết của họ là họ không tin, họ không tin th́ làm sao hướng dẫn họ tu ? V́ vậy người giáo hóa lợi tha chẳng những có được tâm hồn cao thượng thanh tịnh, mà c̣n phải khéo giữ giới tướng cho nghiêm minh th́ việc lợi tha mới hữu hiệu. Đối với chúng sanh, chỉ vài hành động sơ suất cũng đủ đánh mất ḷng kính tin của họ, th́ những điều cao quí ḿnh không đem ra chỉ dạy được. Nên phẩm An Lạc Hạnh, Phật dạy chúng ta muốn làm được việc dễ dàng vui vẻ, th́ phần giới tướng đừng để cho người phàm tục nghi ngờ, cho đến giữ ǵn hành vi nhỏ nhiệm để dễ dàng chỉ bày lư cao tột cứu kính cho người tin nhận. Đức Phật rất cẩn thận, sự không rời lư, lư không bỏ sự, lư sự viên dung. Chúng ta thường th́ chấp lư bỏ sự, cứ nói làm gàn bướng, khiến cho người khinh chê phỉ báng Tam bảo, rốt rồi chẳng giáo hóa được ai. Chỗ này phải hiểu cho thật kỹ kẻo lầm ư Phật dạy, cho rằng Phật dạy hàng Thanh văn không phải dạy cho Bồ-tát. 3. CHÁNH VĂN : * Lại nữa, vị đại Bồ-tát quán sát “Nhứt thiết pháp không như thiệt tướng” chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thiệt không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế, đó gọi là “chỗ thân cận” thứ hai của vị đại Bồ-tát. Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: * Nếu có vị Bồ-tát Ở trong đời ác sau Ḷng không hề sợ sệt Muốn nói kinh pháp này Nên trụ vào “Hành xứ”. Và trụ “Thân cận xứ”. Thường xa rời quốc vương Và con của quốc vương Quan đại thần, quan lớn Kẻ chơi việc hung hiểm Cùng bọn chiên-đà-la Hàng ngoại đạo Phạm chí Cũng chẳng ưa gần gũi Hạng người tăng thượng mạn Hàng học giả tham chấp Kinh, Luật, Luận Tiểu thừa Những Tỳ-kheo phá giới Danh tự A-la-hán Và những Tỳ-kheo ni Ưa thích chơi giỡn cười Các vị Ưu-bà-di Tham mê năm món dục Cầu hiện tại diệt độ Đều chớ có gần gũi. Nếu những hạng người đó Dùng tâm tốt mà đến Tại chỗ của Bồ-tát Để v́ nghe Phật đạo Bồ-tát thời nên dùng Ḷng không chút sợ sệt Chẳng có niệm mong cầu Mà v́ chúng nói pháp. Những gái góa, gái trinh Và các kẻ bất nam Đều chớ có gần gũi Để cùng làm thân hậu. Cũng chớ nên gần gũi Kẻ đồ tể cắt thái Săn bắn và chài lưới V́ lợi mà giết hại Bán thịt để tự sống Buôn bán sắc gái đẹp Những người như thế đó Đều chớ có gần gũi. Các cuộc chơi giỡn dữ Hung hiểm đâm đánh nhau Và những dâm nữ thảy Trọn chớ có gần gũi. Chớ nên riêng chỗ khuất V́ người nữ nói pháp Nếu lúc v́ nói pháp Chẳng được chơi giỡn cười Khi vào xóm khất thực Phải dắt một Tỳ-kheo Nếu không có Tỳ-kheo Phải một ḷng niệm Phật Đây thời gọi tên là “Hành xứ”, “Thân cận xứ”. Dùng hai xứ trên đây Có thể an lạc nói. Lại cũng chẳng vin theo Pháp thượng, trung và hạ Hữu vi hay vô vi Thiệt cùng pháp chẳng thiệt Cũng chẳng có phân biệt Là nam là nữ thảy Lại chẳng được các pháp Chẳng biết cũng chẳng thấy Đây thời gọi tên là “Hành xứ” của Bồ-tát. Tất cả các món pháp Đều không, chẳng chỗ có Không có chút thường trụ Vẫn cũng không khởi diệt Đây gọi là “Thân cận” Chỗ người trí hằng nương. Chớ đảo điên phân biệt Các pháp có hoặc không Là thật, chẳng phải thật Là sanh chẳng phải sanh. Ở an nơi vắng vẻ Sửa trau nhiếp tâm ḿnh An trụ chẳng lay động Như thể núi Tu-di. Quán sát tất cả pháp Thảy đều không thật có Dường như khoảng hư không Không có chút bền chắc. Chẳng sanh cũng chẳng xuất Chẳng động cũng chẳng thối Thường trụ một tướng thể Đó gọi là “Cận xứ”. Nếu có vị Tỳ-kheo Sau khi ta diệt độ Vào được “Hành xứ” này Và “Thân cận xứ” đó Thời lúc nói kinh này Không có ḷng e sợ Vị Bồ-tát có lúc Vào nơi nhà tịnh thất Ḷng nghĩ nhớ chân chánh Theo đúng nghĩa quán pháp. Từ trong thiền định dậy V́ các bậc quốc vương Vương tử và quan, dân Hàng Bà-la-môn thảy Mà khai hóa diễn bày Rộng nói kinh điển này Tâm vị đó an ổn Không có chút khiếp nhược. Văn-thù-sư-lợi này ! Đó gọi là Bồ-tát An trụ trong sơ pháp Có thể ở đời sau Diễn nói kinh Pháp Hoa. GIẢNG : Trên là Phật nêu lên sự tướng mà người nói kinh Pháp Hoa cần phải có, để khi giáo hóa chúng sanh không bị chướng ngại. Tới đây là phần lư, người nói kinh Pháp Hoa phải đạt được, tức là thấy các pháp không có tướng cố định do duyên hợp tạm có, nên tâm không điên đảo, không động, không thối chuyển, như hư không, không có thật tánh. Tất cả lời nói đều không thật, không sanh, không diệt v.v... Tất cả các pháp đều từ nhân duyên mà sanh, do điên đảo mà có. Tại sao nói pháp do điên đảo mà có ? Thí dụ đêm tối có người cầm cây nhang cháy quay thật nhanh, người ngoài nh́n thấy một ṿng lửa tṛn. Ṿng lửa tṛn ấy không thật có, chẳng qua do tay quay cây nhang nhanh, mắt nh́n không kịp, nên thấy một ṿng lửa. Thấy không tới lẽ thật, nên nói điên đảo như thế. Chúng ta có thân này là do duyên hợp tạm có không thật. Nếu nó c̣n th́ mừng, nó hoại th́ sợ. Bởi sợ nó mất nên khởi niệm điên đảo t́m gá thân khác. Từ niệm điên đảo đó mà tiếp nối thân sau đi măi trong ba cơi, nên nói điên đảo sanh. Chúng ta nh́n cho thật kỹ th́ tất cả các pháp ở thế gian này, có pháp nào là thật ? Như con người, ai cũng nhận thân này là ta là ḿnh, thế mà mỗi ngày đưa vô một số thức ăn, nước, không khí vào trong thân, bao tử, ruột, phổi, tim... nó biến hóa, nó làm ǵ, chúng ta hoàn toàn không biết, không hề ra lịnh cho nó làm thế này hay thế kia, mặc t́nh nó làm ǵ th́ làm, nó biến hóa ra sao tùy nó. Nó biến hóa tốt th́ thân khỏe mạnh, biến hóa không tốt th́ thân đau bệnh. Chúng ta hoàn toàn không biết ǵ về hoạt động bên trong của thân. Tim đập nhanh, chậm, hay ngừøng nghỉ tùy nó; bao tử ruột tiêu hóa tốt hay xấu cũng tùy nó, chúng ta không điều khiển được. Vậy mà nhận nó là ta, chấp chặt nó là ḿnh thật, đó là cái tưởng điên đảo, không đúng sự thật. Với cái nh́n của trí tuệ Bát-nhă thấy sự vật là một ḍng chuyển biến trôi chảy, đủ duyên th́ tụ, hết duyên th́ tan, luôn luôn chuyển động không dừng. Vạn vật luôn luôn biến dịch mà mắt phàm phu của chúng sanh không thấy không biết. Nh́n sự vật như cái bàn, với mắt người thường th́ thấy nó là một cố thể, nhưng với mắt khoa học phân tích từ thô đến tế th́ cái bàn do nhiều miếng gỗ ráp lại bởi những cây đinh, công thợ... và rồi phân tích đến chỗ vi tế th́ thấy cái bàn h́nh thành bởi những nguyên tử nó đang quay vùn vụt ở trong mỗi vật. Ngay thân con người th́ thấy vô số tế bào đang hoạt động, ngay nơi vật th́ thấy vô số nguyên tử đang quay, tất cả đều di động không dừng. V́ vậy Phật nói tất cả pháp không có một pháp nào có thực thể cố định, tụ tán biến chuyển không dừng. Đă là pháp chuyển biến, mà chấp bám chặt muốn nó dừng một chỗ là khờ dại ngu si. Càng bám giữ cái không bao giờ dừng đứng là càng khổ đau. Nên nói chấp là gốc của khổ, điều đó cụ thể vô cùng. Với mắt Trí tuệ Bát-nhă thấy tất cả người vật là một ḍng trôi chảy không dừng. Con người th́ sanh, già, bệnh, chết tuần tự đuổi nhau, vật th́ thành, trụ, hoại, không. Nếu biết chuyện sẽ đến đương nhiên phải đến, lo sợ cũng không khỏi, nên nh́n và cười nó đến đi một cách b́nh thản, người như thế có phải là người trí không ? Chư Tổ xưa kia trí tuệ tṛn đầy, các Ngài nói thân này c̣n cũng tốt mà hoại cũng vui không có ǵ sợ sệt. Người trí thấy đúng như thật là thấy các pháp là một ḍng chuyển biến, đă chuyển biến th́ chấp nhận nó đổi thay. Đó là nói các pháp có h́nh tướng. C̣n tâm niệm con người cũng vậy, chợt khởi chợt mất, giây phút trước nghĩ chuyện này, giây phút sau nghĩ chuyện khác, tiếp nối nhau nghĩ tưởng không có được một phút giây dừng lặng. Nó cũng là một ḍng trôi chảy biến dịch, ngày nay nghĩ như vậy, ngày mai chưa chắc cũng nghĩ như vậy v́ vọng niệm vô thường đổi thay! Nên đừng chấp lời nói ư nghĩ người đó trước sau như một, nó cứ biến chuyển đổi thay hoài. V́ vậy người tu chúng ta cũng phải thay đổi, chuyển từ nghiệp bất thiện sang nghiệp thiện, chuyển từ mê sang tỉnh. Thí dụ như khi chưa tu th́ tham, sân, si có đủ một trăm phần trăm khi biết tu chuyển tham, sân, si giảm dần c̣n chín mươi, tám mươi, bảy mươi phần trăm cho đến khi hết tham, sân, si. Tóm lại, Phật dạy Bồ-tát nói kinh Pháp Hoa giáo hóa chúng sanh, trên mặt sự phải đủ giới tướng, trên mặt lư phải quán thông các pháp, th́ khi hành Bồ-tát đạo, ḿnh được an vui, chúng sanh được lợi ích. Nếu chấp sự mà không thông lư, th́ chỉ có được h́nh tướng để cho người mến, cũng chẳng giáo hóa chúng sanh được thăng tiến lợi ích. C̣n nếu thông lư mà bỏ sự, khiến cho người hoang mang không kính tin, cũng không giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh được. V́ vậy lư sự phải viên dung th́ việc tự giác giác tha mới viên măn. 4. CHÁNH VĂN : * Lại Văn-thù-sư-lợi ! Sau khi đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh An lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó. Lại cũng chẳng sanh ḷng oán hiềm, v́ khéo tu ḷng an lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ư. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa mà v́ đó giải nói làm cho được bậc “Nhứt thiết chủng trí”. GIẢNG : Hai là Phật dạy người nói kinh Pháp Hoa mà được an vui th́ đừng có nói lỗi người và lỗi kinh, đừng có khinh Pháp sư khác, không nên nói việc hay dở tốt xấu của người. Đối với hàng Thanh văn không khen và cũng không chê. Đa số chúng ta thời nay tụng kinh Pháp Hoa sợ đổ nghiệp, v́ vừa ra khỏi đạo tràng th́, khen người này chê người kia, tạo điều kiện cho phiền năo dấy động làm mờ trí tuệ Phật, trái với lời Phật dạy th́ làm sao được an lạc ? Trong Pháp Bảo Đàn Kinh, Lục tổ đánh Sa-di Thần Hội ở chỗ thấy lỗi người. Lục tổ dạy chỉ thấy lỗi ḿnh mà không nên thấy lỗi người, v́ thấy lỗi người th́ lỗi ḿnh đă đến một bên rồi, đó là điều chướng đạo. Tại sao ? V́ thấy lỗi người th́ bậc bội không thể thương người được, bậc bội không thương th́ không giáo hóa, không chướng đạo là ǵ? Thế nên không thấy lỗi người, mà hằng thấy tâm niệm ḿnh đang an ổn hay đang bị vọng tưởng dấy động phiền năo phủ che, để điều phục cho được yên. Trên Phật dạy nơi miệng không nói lỗi người không khen chê người. Tới đây Phật dạy nơi tâm không sanh ḷng oán hiềm, nếu có người hỏi th́ không dùng pháp Tiểu thừa để đáp, chỉ dùng pháp Đại thừa giải nói làm cho họ được Nhứt thiết chủng trí. Người nói kinh mà tâm c̣n oán thù người này, hiềm hận người kia, th́ tự ḿnh đă chướng đạo, không có ḷng từ bủa rộng đâu làm lợi ích cho người được. Và nếu chỉ đem pháp Tiểu thừa ra giảng nói, mà không nói pháp Đại thừa th́ không đưa người đến chỗ rốt ráo thành Phật cũng là chướng đạo, chưa đủ tư cách nói kinh Pháp Hoa. 5. CHÁNH VĂN : Khi ấy, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: * Vị Bồ-tát thường ưa An ổn nói kinh pháp Ở nơi chỗ thanh tịnh Mà sắp đặt sàng ṭa Dùng hương dầu xoa thân Tắm gội các bụi dơ Mặc y mới sạch sẽ Trong ngoài đều sạch thơm Ngồi an nơi pháp ṭa Theo chỗ hỏi v́ nói. Nếu có vị Tỳ-kheo Cùng với Tỳ-kheo ni Các hàng Ưu-bà-tắc Và hàng Ưu-bà-di Quốc vương và vương tử Các quan cùng sĩ dân Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu Vui vẻ v́ họ nói Nếu có người gạn hỏi Theo đúng nghĩa mà đáp Nhân duyên hoặc thí dụ Giải bày phân biệt nói Dùng trí phương tiện này Đều khiến kia phát tâm Lần lần thêm đông nhiều Vào ở trong Phật đạo. Trừ ḷng lười biếng trễ Cùng với tưởng giải đăi Xa rời các ưu năo Tâm từ lành nói pháp. Ngày đêm thường tuyên nói Giáo pháp Vô thượng đạo Dùng các việc nhân duyên Vô lượng món thí dụ Mở bày dạy chúng sanh Đều khiến chúng vui mừng Y phục cùng đồ nằm Đồ ăn uống thuốc thang Mà ở nơi trong đó Không có chỗ mong cầu Chỉ chuyên một ḷng nhớ Nhân duyên nói kinh pháp Nguyện ta thành Phật đạo Khiến mọi người cũng vậy Đó là lợi lành lớn. Là an vui cúng dường. Sau khi ta diệt độ Nếu có vị Tỳ-kheo Có thể diễn nói được Kinh Diệu Pháp Hoa này Ḷng không chút ganh hờn Không các năo chướng ngại Cũng lại không ưu sầu Và cùng mắng nhiếc thảy Lại cũng không sợ sệt Không dao gậy đánh đập Cũng không xua đuổi ra V́ an trụ nhẫn vậy. Người trí khéo tu tập Tâm ḿnh được dường ấy Thời nay trụ an lạc Như ta nói ở trên Công đức của người đó Trong ngh́n muôn ức kiếp Tính kể hay thí dụ Nói chẳng thể hết được. GIẢNG : Phật trùng tụng và lặp lại ư trên, tuy nhiên có thêm vài chi tiết. Phật dạy phải ăn mặc sạch sẽ trang nghiêm để nói đạo. Kế đến nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, vua, quan... tới hỏi đạo, th́ với sắc diện ḥa nhă vui vẻ mà đáp, chớ có thái độ bậc dọc cau có. Khi đáp th́ phải đáp cho đúng với nghĩa lư Phật dạy, dùng mọi cách dẫn giải thí dụ, để cho họ hiểu lần lần được vào đạo. 6. CHÁNH VĂN : * Lại Văn-thù-sư-lợi ! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thọ tŕ, đọc tụng kinh điển này, chớ ôm ḷng ganh ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch t́m chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, hoặc cầu Thanh văn hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ-tát đạo đều không được làm năo đó, khiến cho kia sanh ḷng nghi hối mà nói với người đó rằng: “Các người cách đạo rất xa trọn không thể được bậc Nhứt thiết chủng trí. V́ sao ? V́ các người là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo vậy.” Lại cũng chẳng nên hí luận các pháp có chỗ giành căi. Phải ở nơi tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với các đức Như Lai sanh tưởng như cha lành, đối với các Bồ-tát, tưởng là bậc Đại sư; đối với các đại Bồ-tát ở mười phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều b́nh đẳng nói pháp. V́ thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp cũng chẳng v́ nói nhiều. Văn-thù-sư-lợi ! Vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh An lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể năo loạn, được bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng được đại chúng thường đến nghe thọ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng dường kinh quyển cung kính tôn trọng ngợi khen. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: * Nếu muốn nói kinh này Phải bỏ ḷng ganh hờn Ngạo dua dối tà ngụy Thường tu hạnh chất trực Chẳng nên khinh miệt người Cũng chẳng hí luận pháp Chẳng khiến kia nghi hối Rằng người chẳng thành Phật, Phật tử đó nói pháp Thường nhu ḥa hay nhẫn Từ bi với tất cả Chẳng sanh ḷng biếng trễ, Bồ-tát lớn mười phương Thương chúng nên hành đạo Phải sanh ḷng cung kính Đó là Đại sư ta, Với các Phật Thế Tôn Tưởng là cha Vô thượng Phá nơi ḷng kiêu mạn Nói pháp không chướng ngại Pháp thứ ba như thế Người trí phải giữ ǵn Một ḷng An lạc hạnh Vô lượng chúng cung kính. GIẢNG : Pháp thứ ba Phật dạy người nói kinh Pháp Hoa được an lạc, là chớ có ôm ḷng ganh ghét dua dối, chớ có khinh mắng người học đạo tối dốt. Đối với người cầu Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát tuy căn cơ họ có chậm lụt, nhưng cũng không được nói làm cho họ xúc năo thối Bồ-đề tâm, mất ḷng tin, đó là việc làm trái đạo lư. V́ ai cũng có sẵn Tri kiến Phật. Người giảng nói kinh có bổn phận phải khơi dậy niềm tin nơi mọi người, để họ phấn khởi tu tiến. Nếu khinh chê làm xúc năo họ, chẳng khác nào ḿnh phủ nhận hạt giống Bồ-đề nơi họ. Đó là bệnh là tội lỗi, chúng ta phải dè dặt, phải chừa. Nếu chúng ta không làm cho người đủ niềm tin phấn khởi tu hành, chớ có làm cho họ thối Bồ-đề tâm. Phật dạy người nói kinh phải có ḷng từ đối với chúng sanh, kính thờ Phật coi như cha, Bồ-tát coi như bậc Đại sư. Đồng thời Phật c̣n dạy người nói kinh chớ có hí luận, tức là dùng pháp này công kích pháp kia, đứng bên này công kích bên kia, đứng bên kia công kích bên này, gây nên sự chia rẽ tranh chấp lẫn nhau, đó là bệnh. Và, đây là cái bệnh của người giảng đạo nữa, nếu người nghe mà chăm chú, tiếp thu nhanh, ưa nghe pháp ḿnh nói, th́ nói say mê không chán, quên ngày quên giờ, nếu người nghe lơ đễnh, tiếp thu chậm, th́ nói qua loa vài ba câu thôi, không nói nữa. Ở đây, Phật dạy phải điều ḥa đừng nói quá nhiều cũng đừng nói quá ít. Nếu nói nhiều quá th́ dư, khiến người nghe sinh ḷng khinh thường nhàm chán không tu được. C̣n nói ít quá th́ phụ ḷng kính ngưỡng khát vọng của người nghe, và người nghe cũng không hiểu để mà tu tiến. Điều này tuy nhỏ nhưng quan trọng, v́ vậy mà phải cố gắng điều ḥa đừng để thiên lệch, chớ nói dư mà cũng đừng nói thiếu. Đó là hạnh An lạc thứ ba. 7. CHÁNH VĂN : * Lại Văn-thù-sư-lợi ! Các vị đại Bồ-tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt, có vị nào tŕ kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh ḷng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ-tát sanh ḷng bi lớn, phải nghĩ thế này: Những người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí tuệ dẫn dắt đó khiến được trụ trong pháp này. Văn-thù-sư-lợi ! Vị đại Bồ-tát đó ở sau lúc Như Lai diệt độ nếu thành tựu được pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà- di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà-la-môn, cư sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư thiên ở trên hư không v́ nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường v́ pháp mà vệ hộ đó, có thể khiến người nghe đều được vui mừng. V́ sao ? V́ kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại, giữ ǵn vậy. Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cơi nước, nhẫn đến danh tự c̣n chẳng được nghe, hà huống là được thấy, thọ tŕ, đọc tụng. Văn-thù-sư-lợi ! Thí như vua Chuyển Luân Thánh vương sức lực mạnh mẽ muốn dùng oai thế hàng phục các nước, mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lịnh, bấy giờ Chuyển Luân Thánh vương đem các đạo binh qua đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm, làng, thành, ấp, hoặc ban cho đồ y phục trang nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, voi, ngựa, xe cộ, tôi tớ, nhân dân, chỉ viên minh châu trong búi tóc chẳng đem cho đó. V́ sao ? V́ riêng trên đảnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ. Văn-thù-sư-lợi ! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí huệ được cơi nước pháp, giáo hóa trong ba cơi mà ma vương chẳng khứng thuận phục, các tướng Hiền Thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công ḷng cũng vui mừng, ở trong hàng chúng v́ nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thiền định, giải thoát, vô lậu, căn lực. Và lại ban cho thành Niết-bàn, bảo rằng được diệt độ để dẫn dắt ḷng chúng làm cho đều được vui mừng, mà chẳng v́ đó nói kinh Pháp Hoa này. Văn-thù-sư-lợi ! Như vua Chuyển Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, ḷng rất hoan hỷ đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong búi tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó. Đức Như Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp vương trong ba cơi, đem pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh. Thấy quân Hiền Thánh cùng ma ngũ ấm, ma phiền năo, ma chết, đánh nhau có công lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cơi, phá lưới ma. Lúc ấy Như Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bậc “Nhứt thiết trí” là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó. Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhứt của Như Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu ǵn viên minh châu mà nay mới cho đó. Văn-thù-sư-lợi ! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các đức Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ ǵn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó. Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: * Thường tu hành nhẫn nhục Thương xót tất cả chúng Mới có thể diễn nói Kinh của Phật khen ngợi. Đời mạt thế về sau Người thọ tŕ kinh này Với tại gia, xuất gia Và chẳng phải Bồ-tát Nên sanh ḷng từ bi Những người đó chẳng nghe Chẳng tin kinh pháp này Thời là mất lợi lớn Khi ta chứng Phật đạo Dùng các sức phương tiện V́ nói kinh pháp này Làm cho trụ trong đó. Thí như vua Chuyển Luân Thánh vương có sức mạnh Binh tướng đánh có công Thưởng ban những đồ vật Voi, ngựa và xe cộ Đồ trang nghiêm nơi thân Và những ruộng cùng nhà Xóm làng, thành ấp thảy Hoặc ban cho y phục Các món trân báu lạ Tôi tớ cùng của cải Đều vui mừng ban cho, Nếu có người mạnh mẽ Hay làm được việc khó Vua mới mở búi tóc Lấy minh châu cho đó. Đức Như Lai cũng thế Là vua trong các pháp Nhẫn nhục sức rất lớn Tạng báu trí huệ sáng Dùng ḷng từ bi lớn Đúng như pháp độ đời Thấy tất cả mọi người Chịu các điều khổ năo Muốn cầu được giải thoát Cùng các ma đánh nhau, Phật v́ chúng sanh đó Nói các món kinh pháp Dùng sức phương tiện lớn Nói các kinh điển đó, Đă biết loài chúng sanh Được sức mạnh kia rồi Rốt sau mới v́ chúng Nói kinh Pháp Hoa này Như vua Thánh mở tóc Lấy minh châu cho đó. Kinh này là bậc tôn Trên hết trong các kinh Ta thường giữ ǵn luôn Chẳng vọng v́ mở bày Nay chính đă phải lúc V́ các ông mà nói. Sau khi ta diệt độ Người mong cầu Phật đạo Muốn được trụ an ổn Diễn nói kinh pháp này Phải nên thường gần gũi Bốn pháp trên như thế. Người đọc tụng kinh này Thường không bị ưu năo Lại không có bệnh đau Nhan sắc được trắng sạch Chẳng sanh nhà bần cùng Ḍng ti tiện xấu xa Chúng sanh thường ưa thấy. Như ham mộ Hiền Thánh Các đồng tử cơi trời Dùng làm kẻ sai khiến Dao gậy chẳng đến được Độc dữ chẳng hại được Nếu người muốn mắng nhiếc Miệng thời liền ngậm bít Dạo đi không sợ sệt Dường như sư tử vương Trí huệ rất sáng suốt Như mặt trời chói sáng. Nếu ở trong chiêm bao Chỉ thấy những việc tốt Thấy các đức Như Lai Ngồi trên ṭa sư tử Các hàng chúng Tỳ-kheo Vây quanh nghe nói pháp Lại thấy các Long thần Cùng a-tu-la thảy Số như cát sông Hằng Đều cung kính chấp tay Tự ngó thấy thân ḿnh Mà v́ chúng nói pháp. Lại thấy các đức Phật Thân tướng thuần sắc vàng Phóng vô lượng hào quang Soi khắp đến tất cả Dùng giọng tiếng Phạm âm Mà diễn nói các pháp Phật v́ hàng tứ chúng Nói kinh pháp Vô thượng Thấy thân ḿnh ở trong Chấp tay khen ngợi Phật Nghe pháp ḷng vui mừng Mà v́ cúng dường Phật Được pháp Đà-la-ni Chứng bậc bất thối trí, Phật biết tâm người đó Đă sâu vào Phật đạo Liền v́ thọ kư cho Sẽ thành tối Chánh giác. Thiện nam tử người này ! Sẽ ở đời vị lai Chứng được Vô lượng trí Nên đạo lớn của Phật, Cơi nước rất nghiêm tịnh Rộng lớn không đâu bằng Cũng có hàng tứ chúng Chấp tay nghe nói pháp Lại thấy thân của ḿnh Ở trong rừng núi vắng Tu tập các pháp lành Chứng thiệt tướng các pháp Sâu vào trong thiền định Thấy các Phật mười phương Các Phật thân sắc vàng Trăm phước tướng trang nghiêm Nghe pháp v́ người nói Thường có mộng tốt đó. Lại mộng làm quốc vương Bỏ cung điện quyến thuộc Và ngũ dục thượng diệu Đi đến nơi đạo tràng Ở dưới cội bồ-đề Mà ngồi ṭa sư tử Cầu đạo quả bảy ngày Được trí của các Phật Thành đạo Vô thượng rồi Dậy mà chuyển pháp luân V́ bốn chúng nói pháp Trải ngh́n muôn ức kiếp Nói pháp mầu vô lậu Độ vô lượng chúng sanh Sau sẽ vào Niết-bàn Như khói hết đèn tắt. Nếu trong đời ác sau Nói pháp bậc nhứt này Người đó được lợi lớn Các công đức như trên. GIẢNG : Pháp thứ tư mà người nói kinh Pháp Hoa cần phải có để được an lạc là khởi tâm từ bi lớn. Tại sao đối với hàng tại gia xuất gia th́ khởi ḷng từ, c̣n đối với người chẳng phải Bồ-tát th́ khởi ḷng bi ? V́ hàng tại gia xuất gia là những người đang tiến tu, nên Bồ-tát làm lợi lạc khiến cho họ được thăng tiến an vui nên nói là khởi ḷng từ; c̣n đối với hàng chúng sanh chưa tu theo giáo pháp của Phật, ḷng tràn đầy khổ đau, v́ vậy mà Bồ-tát thương xót dùng mọi phương tiện để cứu khổ khiến cho họ được an vui. Nên nói đối với hàng chúng sanh, Phật nói pháp mà không nghe không hiểu không tin... th́ Bồ-tát phải phát tâm đại bi, nguyện rằng: Khi ḿnh được thành Phật th́ những người đó ở đâu cũng dùng phương tiện dẫn dắt cho họ tu. Phàm phu có cái bệnh nếu biết điều nào hay có lợi ích th́ khuyến khích khuyên bảo cho người làm, mà họ không làm th́ bậc bội, không nói nữa để khổ cho đáng kiếp, không thèm cứu. Tâm Bồ-tát th́ không phải vậy, vẫn trải ḷng từ bi mà cứu độ khi họ khổ. Phật nói kinh Pháp Hoa rất quí, được chư Phật ba đời hộ tŕ. Có vô lượng cơi nước không được thấy nghe kinh Pháp Hoa huống là được thọ tŕ đọc tụng. Điều này làm cho chúng ta có chút nghi vấn. Kinh Pháp Hoa được in ấn và phát hành rất nhiều, tại sao Phật lại nói không được nghe đến tên kinh và thấy kinh để thọ tŕ ? Chúng ta nhớ kinh Pháp Hoa là chỉ cho Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi người, nếu không được gặp thiện hữu tri thức khai thị, th́ làm sao mà tin hiểu, nên nói khó thấy nghe huống là thọ tŕ. Chớ không phải quyển kinh Pháp Hoa được in bằng giấy mực mà chúng ta đọc tụng hằng ngày. Tuy nhiên, nhờ đọc tụng kinh Pháp Hoa bằng giấy mực mà chúng ta khéo nhận ra quyển Kinh không lời không chữ mà Phật đă chỉ. Vậy ở đây, quí vị đă từng đọc tụng hằng chục hằng trăm bộ, có nhận ra quyển Kinh không lời chưa ? Dưới đây Phật dùng ví dụ nói lên cái quí của kinh Pháp Hoa để cho chúng ta thấy, ở vào từng trường hợp đặc biệt nào Phật mới chỉ cho. Phật thí dụ Chuyển Luân Thánh vương muốn hàng phục các nước nhỏ, mà các nước nhỏ không tuân mạng lịnh, nên vua đem binh đánh dẹp. Quan quân đánh giặc có công, vua tùy theo công mà thưởng ban cho ngọc ngà châu báu hay thành ấp... Đối với vị tướng lănh có công lớn nhất th́ vua lấy hạt minh châu trong búi tóc mà thưởng. Khi vua thưởng hạt minh châu cho vị tướng lănh có công lớn, th́ tất cả quyến thuộc rất kinh ngạc. V́ hạt minh châu là vật quí nhất, mà vua lấy đem ra ban thưởng, thật là chuyện hiếm có, Chuyển Luân Thánh vương là dụ cho đức Phật, binh tướng là dụ cho Hiền Thánh tăng đệ tử Phật, giặc phải dẹp là ma ngũ ấm, ma phiền năo, ma chết... Vậy chư Tăng Ni có mặt ở đây đă đánh trận nào với ma chưa và đánh như thế nào ? Ma ngũ ấm là kiến chấp thân năm ấm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức là thật ngă. Do chấp thân năm ấm là thật ngă, nên không nhận ra Tri kiến Phật sẵn có nơi ḿnh. Bây giờ phải dùng kiếm trí tuệ Bát-nhă đâm thủng con ma ngũ ấm, th́ t́nh chấp thân tâm là thật ngă không c̣n nữa. Tri kiến Phật hiện tiền. Mỗi tối chúng ta lên chùa hăm he “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, sắc không thật, thọ không thật, tưởng không thật, hành, thức cũng không thật... Tôi xin hỏi, có phải quí vị là binh tướng của Phật đang tuyên chiến với quân ma không ? Tuy tuyên chiến với ma mà gặp ma không nỡ giết vẫn c̣n thương ma, nên cũng thấy “ngũ uẩn giai hữu”, v́ vậy bị thua ma dài dài. Ma phiền năo th́ rất nhiều, nào là tham, sân, si, nào là mạn, nghi, ác kiến... Với ma tham, quí vị có tuyên chiến với nó chưa ? thắng nó hay là bại ? Ma sân coi bộ hung dữ quá, thắng nó được mấy trận rồi ? hay là bất như ư là bậc tức hiện ra mặt, ra lời, ra tay chân, xong rồi hối hận ? Như vậy là thua ma, làm tôi mọi cho nó đó ! Nên, khi ma tham ma sân dấy lên, liền biết nó không thật, không có cứ điểm, không có nơi chốn, th́ nó tự lặn mất, như vậy là thắng ma. Ma chết là con người khi chết chưa siêu quanh quẩn phá phách người sống. Và sự chết làm mất thân mạng không c̣n đủ duyên để tiến tu cũng gọi là ma. Khi thân này bệnh, điều trị không khỏi, cái chết sẽ đến nên rất lo sợ hoặc ở chỗ vắng vẻ có những hiện tướng bất tường hiện ra, chúng ta run sợ đó là sợ ma chết. Tất cả những thứ ma chết chúng ta đều sợ, hễ sợ là chướng đạo, thế nên phải chiến thắng nó. Phá sạch ma ngũ ấm, ma phiền năo, ma chết, mới thoát khỏi luân hồi sinh tử trong ba cơi, không c̣n bị trói buộc trong lưới ma nữa. Việc làm này đối với Phật là một công trận lớn nhất, nên Phật rất vui mừng đem kinh Pháp Hoa giảng nói khiến cho được Nhứt thiết chủng trí, tức là khiến cho thành Phật để thưởng người công đầu. Trong cuộc chiến với ma quân tùy theo công trận lớn nhỏ, mà Phật có những pháp để thưởng công, nào là thiền định, giải thoát, nào là vô lậu, căn lực, thành Niết-bàn, hễ chiến đấu có công là được thưởng. Chỉ đặc biệt người có công lớn nhất là được thưởng kinh Pháp Hoa. Xét lại xem, chúng ta có được Phật thưởng công không ? Chắc vô phần ! Nếu không được thưởng công tức là chưa chiến thắng ma quân. Chúng ta chưa được phần thưởng nào, huống là được thưởng kinh Pháp Hoa ! Nhưng tại sao hôm nay chúng ta lại được học kinh Pháp Hoa ? Như vậy có trái ngược không ? Ở đây chúng ta học kinh Pháp Hoa là học văn tự nghĩa lư, chứ kinh Pháp Hoa vô tự, tức Tri kiến Phật có sẵn nơi mỗi người, chỉ có bậc Thánh tăng phá tan quân ma vượt khỏi lưới ma Phật mới hiện tiền, nói theo phẩm này th́ mới được Phật ban thưởng. C̣n chúng ta chưa được dự phần, v́ chưa phá được quân ma cũng như chưa ra khỏi lưới ma ! “Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các đức Phật Như Lai” là sao? V́ kinh Pháp Hoa là chỉ Tri kiến Phật, chính thái tử Tất-đạt-đa đă ngộ, nên thành Phật. Muốn chỉ cho người th́ rất khó, v́ nó không có tướng mạo, vượt ngoài ngôn ngữ, suy tư, làm sao chỉ được! Nó hằng hiện hữu nơi mỗi người mà chỉ không được, nên gọi là tạng bí mật của Như Lai. Khi căn lành tṛn đủ, sạch hết các ma chướng lúc đó mới thấy được tạng bí mật này. Sở dĩ từ lâu Phật không nói kinh Pháp Hoa là tại sao ? V́ tất cả chư Phật nhân kinh này mà được thành, song khó tin khó nhận. Đối với người căn cơ thấp kém họ không tin nên Phật không nói. Khi nào phiền năo sạch, trí tuệ sáng, Phật chỉ, liền nhận ra tức thành Phật. Đó là dụ kế châu tức hạt châu trong búi tóc. Như vậy, trong bộ kinh Pháp Hoa có tất cả 7 dụ: dụ Nhà lửa với ba cỗ xe, dụ Cùng tử, dụ Dược thảo, dụ Hóa thành, dụ Hệ châu, dụ Tạc tỉnh, dụ Kế châu. Phẩm An Lạc Hạnh là phẩm dạy cho chúng ta thực hành nên rất quan trọng. Người muốn nói kinh Pháp Hoa phải cần có đủ bốn điều kiện để được an lạc không bị chướng ngại, đó là: 1.- Nhẫn nhục nhu ḥa, không kinh sợ, quán tướng như thật của các pháp... 2.- Không thân cận người có quyền thế, ngoại đạo, kẻ xướng ca, kẻ hung ác... 3.- Không nói lỗi người, không oán hờn người, không dùng pháp Tiểu thừa để giáo hóa mà chỉ dùng pháp Đại thừa giảng giải, khiến được Nhứt thiết chủng trí, không ganh ghét dua dối, không khinh mắng người học đạo... 4.- Phải có đầy đủ ḷng từ bi lớn đối với mọi chúng sanh, dắt dẫn họ an trụ trong pháp Phật... Phẩm Tŕ ở trước là Phật giao phó kinh Pháp Hoa cho người sau, đến phẩm này Phật dạy bốn hạnh cần phải có, để đem kinh Pháp Hoa truyền bá được an lạc không bị chướng ngại. Trong bộ kinh, phẩm trước có liên hệ với phẩm sau. Như vậy tŕ kinh và đem kinh ra giáo hóa đó là phần Thị và Ngộ Phật tri kiến theo tinh thần của thiền sư Minh Chánh. Nếu không thấy (thị) làm sao mà nguyện tŕ và không ngộ làm sao giáo hóa ? ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]