DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 3: THÍ DỤ (tt) 16. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Đức Phật thấy việc này rồi bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí tuệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi. Xá-lợi-phất ! Đức Như Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí tuệ bỏ chước phương tiện, mà v́ chúng sanh khen ngợi các món Tri kiến, Trí lực, Vô sở úy của Như Lai, ắt chúng sanh chẳng có thể do đó mà đặng độ thoát. V́ sao ? V́ các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật. GIẢNG : Con người mê lầm ngay trong đời hiện tại, khi c̣n khỏe mạnh th́ chạy theo tài sắc, danh lợi... đến khi già chết th́ lại lo di chúc cho con cháu chọn đất tốt để chôn, xây mộ cho kiên cố... Chết là thân tứ đại trả về cho tứ đại, thân này vô thường không giữ được, thế mà muốn tạo cái mộ để đời, tất cả đều là tướng vô thường làm sao giữ được ? Lớp mê lầm này chồng chất lên lớp mê lầm kia, khổ này chồng lên khổ khác, bao giờ mới ra khỏi ? Đức Phật nói Ngài có đủ sức thần thông và trí lực v́ chúng sanh nói thẳng kinh Pháp Hoa, nhưng Ngài không áp dụng. V́ sức chúng sanh chưa kham tin nhận, nên phải bày những phương tiện như Tam thừa, hay cơi Cực lạc... Nhờ những phương tiện này chúng sanh ứng dụng tu hành, tự thấy rơ ở trong tam giới là khổ, ham thích quả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát là chỗ an vui, để tự cố gắng thoát ra khỏi nhà lửa tam giới. Phật ra vào trong tam giới tự do không ngại, tại sao Ngài không dùng thần thông hay trí lực đưa chúng sanh ra khỏi luân hồi sanh tử mà phải dùng phương tiện dẫn dụ ? V́ muốn ra khỏi luân hồi sanh tử vĩnh viễn, th́ mỗi người phải tự ư thức luân hồi sanh tử là khổ đau và t́m lối thoát ra. Đó là mỗi người tự tạo nhân rồi thọ quả, chớ Phật không thế được. Ví dụ một học giả thông minh tài giỏi đỗ Tiến sĩ, có những đứa con lười biếng học, ông biết học dốt th́ thua sút bạn bè, ra đời khó sống. Ông thương, muốn chúng nó học giỏi như ông, mà chúng cứ lười biếng ỷ lại cha ḿnh là người thông minh tài giỏi nên không chịu học hành. Ông tuy thương con, nhưng không thể đem cái thông minh học giỏi của ḿnh cho con được, nên mới dụ các con hăy ráng học ông sẽ cho đồ chơi, để cho các con ham mà lo học thành người tài giỏi. Cũng giống như Phật dẫn dụ chúng sanh thực hành theo lời Ngài dạy để được hết khổ... Hiện tại chúng ta tu cứ cầu Phật cho ḿnh thế này cho ḿnh thế khác. Rơ ràng, nếu cho được cứu được th́ Phật đă dùng thần thông trí lực khiến cho chúng sanh không già, không bệnh, không chết, cũng như hết tham, hết sân, hết si. Thế mà, chính thân tứ đại của Ngài cũng già cũng chết; tham, sân, si cũng do Ngài tu mới hết và mới thành Phật. Đây là một lẽ thực mà tất cả mọi người tu Phật phải biết và cố gắng thực hành lời Phật dạy để thoát khỏi khổ đau, chớ không phải do lễ lạy van vái mà Phật ban vui cứu khổ cho chúng ta được. 17. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Như ông Trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu các con thoát nạn nhà lửa, vậy sau đều cho xe trân báu lớn. Đức Như Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí tuệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, v́ chúng sanh nói ba thừa Thanh văn, Duyên giác cùng Phật thừa, mà bảo rằng: “Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thinh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham, mê ắt sanh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt, các ngươi mau ra khỏi ba cơi sẽ đặng chứng ba thừa: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. Nay ta v́ các ngươi mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy. Các ngươi chỉ nên siêng năng tinh tấn tu hành.” Đức Như Lai dùng phương tiện ấy để dụ dẫn chúng sanh thẳng đến, lại bảo: “Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc, không c̣n phải nương gá t́m cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác chi, thánh đạo, thiền định vô lậu, cùng giải thoát tam-muội v.v... để tự vui sướng, đặng vô lượng sự an ổn khoái lạc.” GIẢNG : Thích ưa sắc, thinh, hương, vị, xúc là cái vui tạm bợ thô hèn. Nếu c̣n kẹt trong ngũ dục là c̣n có ái nhiễm, có ái nhiễm là bị lửa tham dục thiêu đốt. Muốn ra khỏi ba cơi th́ đừng đuổi theo ngũ dục lạc. Nếu dứt được ngũ dục lạc th́ sẽ được ba thừa, và khi được ba thừa th́ sẽ được an lạc, tức là đă ra khỏi nhà lửa tam giới. 18. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Nếu có chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cơi tự cầu chứng Niết-bàn, gọi đó là Thanh văn thừa, như các người con kia v́ cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên, ưa thích riêng lẻ vắng lặng, sâu rơ nhân duyên của các pháp, gọi đó là Duyên giác thừa, như các người con kia v́ cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa. Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh tấn, cầu Nhứt thiết trí, Phật trí, Tự nhiên trí, Vô sư trí, các món Tri kiến lực, Vô úy của Như Lai, có ḷng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích trời, người, độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại thừa, Bồ-tát v́ cầu đặng thừa này thời gọi là Ma-ha-tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa. GIẢNG : Trở lại ví dụ nhà lửa với ba xe. Nếu người nghe Phật nói pháp Tứ đế tinh tấn tu hành chứng Niết-bàn gọi là Thanh văn thừa, dụ như những người con cầu xe dê. Người nghe Phật nói Mười hai nhân duyên, ở chỗ vắng vẻ quán sát lư duyên sanh của các pháp gọi là Duyên giác thừa, dụ như những người con cầu xe hươu. Người nghe pháp tin nhận, tinh tấn tu hành cầu Nhứt thiết trí, Phật trí, có ḷng từ bi vô lượng làm lợi ích cho chúng sanh gọi là Đại thừa, dụ như những người con cầu xe trâu. 19. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Như ông Trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô úy, ông tự nghĩ, ta của giàu vô lượng, nên b́nh đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Đức Như Lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có vô lượng ngh́n ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cơi đặng sự vui Niết-bàn. Bấy giờ đứùc Như Lai bèn nghĩ: “Ta có vô lượng vô biên trí huệ, lực vô úy v.v... tạng pháp của các đức Phật, các chúng sanh này đều là con của ta đồng ban cho pháp Đại thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ. Những chúng sanh đă thoát khỏi ba cơi đó, Phật đều cho món vui thiền định giải thoát v.v... của các đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng Thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhứt.” *Xá-lợi-phất ! Như ông Trưởng giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn, vật báu trang nghiêm an ổn thứ nhất, song ông Trưởng giả kia không có lỗi hư dối. Đức Như Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng Đại thừa mà độ giải thoát đó. V́ sao ? Như Lai có vô lượng tạng pháp trí huệ lực, vô sở úy, có thể ban pháp Đại thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ v́ chúng sanh không thọ được hết. Xá-lợi-phất ! V́ nhân duyên đó nên phải biết các đức Như Lai dùng sức phương tiện ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. GIẢNG : Phật hỏi lại ngài Xá-lợi-phất một lần nữa. Khi các con ra khỏi nhà lửa được an ổn, ông Trưởng giả b́nh đẳng cho các con một thứ xe là xe trâu trắng. Cũng như đức Phật tuy có phương tiện nói ba thừa, nhưng khi chúng sanh đủ khả năng kham nhận, Phật nói ba thừa là không thật, chỉ thẳng Tri kiến Phật là chỗ cứu kính mà chư Phật hằng khen ngợi hằng hộ niệm, như vậy Ngài có mắc lỗi nói dối hay không ? Ngài Xá-lợi-phất trả lời rằng: “Phật không có lỗi nói dối, v́ Phật từ bi, phương tiện và b́nh đẳng độ cho chúng sanh thoát khỏi khổ đau.” Đức Phật kết thúc chỗ cứu kính chỉ có một Phật thừa, nhưng v́ phương tiện nên nói thành ba thừa: Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. 20. CHÁNH VĂN : Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: *Thí như ông Trưởng giả Có một nhà rất lớn Nhà đó đă lâu cũ Mà lại rất xấu xa Pḥng nhà vừa cao nguy Gốc cột lại găy mục Trính xuyên đều xiêu vẹo Nền móng đă nát ră Vách phên đều sụp đổ Đất bủn rơi rớt xuống Tranh lợp sa tán loạn Kèo, đ̣n sai rời khớp Bốn bề đều cong vạy Khắp đầy những tạp nhơ Có đến năm trăm người Ở đỗ nơi trong đó Chim xi, hiêu, điêu, thứu Quạ, chim thước, cưu, cáp Loài ngươn xà, phúc yết Giống ngô công, do-diên Loài thủ công, bá túc Dứu, ly cùng hề thử Các giống độc trùng dữ Ngang dọc xen ruổi chạy Chỗ phân giải hôi thúi Đồ bất tịnh chảy tràn Các loài trùng khương lương Bu nhóm ở trên đó Cáo, sói cùng dă can Liếm nhai và dày đạp Cắn xé những thây chết Xương thịt bừa băi ra Do đây mà bầy chó Đua nhau đến ngoạm lấy Ốm đói và sợ sệt Nơi nơi t́m món ăn Giành giựt cấu xé nhau Gầm gừ gào sủa rân Nhà đó sự đáng sợ Những biến trạng dường ấy Khắp chỗ đều có những Quỉ, ly, mị, vọng, lượng Quỉ dạ-xoa, quỉ dữ Nuốt ăn cả thịt người Các loại trùng độc dữ Những cầm thú hung ác Ấp, cho bú sản sanh Đều tự giấu ǵn giữ Quỉ dạ-xoa đua đến Giành bắt mà ăn đó Ăn đó no nê rồi Ḷng hung dữ thêm hăng Tiếng chúng đánh căi nhau Thật rất đáng lo sợ Những quỉ cưu-bàn-trà Ngồi xổm trên đống đất Hoặc có lúc hỏng đất Một thước hay hai thước Qua rồi lại dạo đi Buông lung chơi cùng giỡn Nắm hai chân của chó Đánh cho la thất thanh Lấy chân đạp trên cổ Khủng bố chó để vui Lại có các giống quỉ Thân nó rất cao lớn Trần truồng thân đen xấu Thường ở luôn trong đó Rền tiếng hung ác lớn Kêu la t́m món ăn Lại có các giống quỉ Cổ nó nhỏ bằng kim Lại có các giống quỉ Đầu nó như đầu trâu Hoặc là ăn thịt người Hoặc lại ăn thịt chó Đầu tóc rối tung lên Rất ác lại hung hiểm Bị đói khát bức ngặt Kêu la vừa rong chạy Da-xoa cùng quỉ đói Các chim muông ác độc Đói gấp rảo bốn bề Ŕnh xem nơi cửa sổ Các nạn dường thế đấy Vô lượng việc ghê sợ. GIẢNG : Nhà đă hư mục xiêu vẹo, bị lửa lớn đốt cháy, trong nhà có những cảnh khổ đang diễn ra như: các loài thú dữ, các loài ma quỉ độc ác... luôn luôn t́m cách đe dọa và chực cắn nuốt lẫn nhau. Những chúng sanh trong cơi tam giới cũng thế. Ở cơi Dục, ngoài cái khổ sanh, già, bệnh, chết bức ngặt bản thân; ngoài cái khổ do tham, sân, si, mạn, nghi, đố kỵ... ở nội tâm dày ṿ, giằng co, c̣n bị những cái khổ bên ngoài như nghèo thiếu, đấu tranh, chúng sanh với chúng sanh gây họa hại cho nhau, chém giết lẫn nhau... không sao kể xiết. Ở đây đức Phật diễn tả bằng những h́nh ảnh cọp sói giành giựt mồi cắn xé lẫn nhau, yêu quỉ, hung thần ŕnh rập ăn nuốt thịt người, ăn nuốt thịt thú... Những chúng sanh ở cơi Sắc và Vô sắc tuy có sung sướng thỏa măn khoái lạc, không c̣n bị khổ xác thân nhưng vẫn c̣n bị sự biến dịch của tâm hồn, vẫn c̣n bị luật vô thường chi phối, hết phước cũng bị đọa lạc nên vẫn c̣n khổ. 21. CHÁNH VĂN : *Nhà cũ mục trên đó Thuộc ở nơi một người Người ấy vừa mới ra Thời gian chưa bao lâu Rồi sau nhà cửa đó Bỗng nhiên lửa cháy đỏ Đồng một lúc bốn bề Ngọn lửa đều hừng hực Rường cột và trính xuyên Tiếng tách nổ vang động Nát găy rơi rớt xuống Vách phên đều lở ngă, Các loại quỉ thần thảy Đồng cất tiếng kêu to, Các giống chim, điêu, thứu Quỉ cưu-bàn-trà thảy Kinh sợ chạy sảng sốt Vẫn không tự ra đặng Thú dữ loài trùng độc Chui núp trong lỗ hang, Các quỉ tỳ-xá-xà Cũng ở trong hang đó V́ phước đứùc kém vậy Bị lửa đến đốt bức Lại tàn hại lẫn nhau Uống máu ăn thịt nhau. Những loại thú dă can Thời đều đă chết trước Các giống thú dữ lớn Giành đua đến ăn nuốt Khói tanh bay phùn phụt Phủ khắp bít bốn bề Loài ngô công, do diên Cùng với rắn hung độc Bị lửa ḷn đốt cháy Tranh nhau chạy khỏi hang Quỉ bàn-trà ŕnh chờ Liền bắt lấy mà ăn Lại có các ngạ quỉ Trên đầu lửa bậc cháy Đói khát rất nóng khổ Sảng sốt chạy quàng lên Nhà lửa đó dường ấy Rất đáng nên ghê sợ Độc hại cùng tai lửa Các nạn chẳng phải một. GIẢNG : Đoạn này đức Phật diễn tả lại cảnh khổ của các người con trong nhà lửa, nào là các loài quỉ dữ, các giống thú dữ, các loài trùng độc đang làm hại lẫn nhau... Ông Trưởng giả là người đă ra khỏi nhà lửa, là vị chủ nhân của căn nhà này. Thấy lửa đang cháy, các con đang bị lửa thiêu đốt vô cùng khốn khổ, ông thương và lo cho những người c̣n ở trong nhà này. 22. CHÁNH VĂN : *Lúc bấy giờ chủ nhà Đứng ở nơi ngoài cửa Nghe có người mách rằng: Các người con của ông Trước đây v́ dạo chơi Mà đến vào nhà này Thơ bé không hiểu biết Chỉ vui ham ưa đắm. Trưởng giả vừa nghe xong Kinh sợ vào nhà lửa T́m phương nghi cứu tế Cho con khỏi thiêu hại Mà dụ bảo các con Nói rơ các hoạn nạn: Nào ác quỉ độc trùng Hỏa tai lan tràn cháy Các sự khổ thứ lớp Nối luôn không hề dứt Loài độc xà, nguơn phúc Và các quỉ dạ-xoa Cùng quỉ cưu-bàn-trà Những dă can, chồn, chó Chim điêu, thứu, xi, hiêu Lại giống bá túc thảy Đều đói khát khổ gấp Rất đáng phải ghê sợ Chỗ khổ nạn như thế Huống lại là lửa lớn Các con nhỏ không hiểu Dầu có nghe cha dạy Cứ vẫn c̣n ham ưa Vui chơi măi không thôi. GIẢNG : Ông Trưởng giả ra khỏi nhà lửa, biết đàn con ḿnh đang bị lửa thiêu đốt mà không hay, cứ say mê chơi giỡn, thích ưa đồ chơi không có giá trị, không biết lối ra, mắc phải nạn lửa thiêu đốt. 23. CHÁNH VĂN : *Bấy giờ Trưởng giả kia Mới bèn nghĩ thế này: Các con như thế đó Làm ta thêm sầu năo. Nay trong nhà lửa này Không một việc đáng vui Mà các con ngây dại Vẫn ham mê vui chơi Chẳng chịu nghe lời ta Toan sẽ bị lửa hại Ông bèn lại suy nghĩ Nên bày các phương tiện Bảo với các con rằng: Cha có rất nhiều thứ Các đồ chơi trân kỳ Những xe báu tốt đẹp Nào xe dê, xe hươu Cùng với xe trâu lớn Hiện để ở ngoài cửa Các con mau ra đây Cha chính v́ các con Mà sắm những xe này Tùy ư các con thích Có thể để dạo chơi Các con nghe cha nói Các thứ xe như vậy Tức thời cùng giành đua Rảo chạy ra khỏi nhà Đến nơi khoảng đất trống Rời những sự khổ nạn. Trưởng giả thấy các con Được ra khỏi nhà lửa Ở nơi ngả tư đường Đều ngồi ṭa sư tử Ông bèn tự mừng rằng Ta nay rất mừng vui Những đứa con ta đây Đẻ nuôi rất khó lắm Chúng nhỏ dại không hiểu Mới lầm vào nhà hiểm Có nhiều loài trùng độc Quỉ ly mị đáng sợ Lửa lớn cháy hừng hực Bốn phía đều phực lên Mà các trẻ con này Lại ham ưa vui chơi Nay ta đă cứu chúng Khiến đều được thoát nạn V́ thế các người ơi ! Ta nay rất vui mừng. Khi ấy các người con Biết cha đă ngồi an Đều đến bên chỗ cha Mà thưa cùng cha rằng: Xin cha cho chúng con Ba thứ xe báu lạ Như vừa rồi cha hứa Các con mau ra đây Sẽ cho ba thứ xe Tùy ư các con muốn Bây giờ chính phải lúc Xin cha thương cấp cho. GIẢNG : Ông Trưởng giả khi biết đàn con đang say mê chơi giỡn trong nhà lửa, ông lấy làm lo ngại, muốn cho chúng ra khỏi nhà lửa, phải dùng phương tiện dụ dỗ cho các thứ đồ chơi quí báu như xe dê, xe hươu, xe trâu tùy theo ư thích, nếu chạy ra th́ sẽ được cho. Những người con nghe nói thế, đua nhau chạy ra khỏi nhà. Khi các con ra khỏi nhà lửa th́ ông Trưởng giả rất vui mừng và đàn con bu quanh xin ông cho đồ chơi báu đẹp. Những người con trong nhà lửa này khi ra khỏi nhà lửa là đă thoát nạn mà không nghĩ ḿnh đă thoát nạn, vẫn c̣n mang ḷng tham, mong cầu đồ chơi quí đẹp. Cũng vậy, chúng ta tu cứ nghĩ tới chứng đắc quả vị này quả vị khác, chớ không biết rằng chủ yếu của sự tu hành là xả ly mọi cố chấp mọi loạn tưởng; hết chấp hết loạn tưởng th́ tự nhiên được an vui giải thoát. Hiểu như vậy mới thấy được lư đạo. Phần nhiều chúng ta tu bị kẹt trên phương tiện, hết kẹt phương tiệân này đến phương tiện khác, đó là do bệnh si mê, nói lẽ thực không chịu tin nhận, cứ tham lam ham chứng đắc nên măi ch́m trong luân hồi sanh tử. 24. CHÁNH VĂN : *Trưởng giả giàu có lớn Kho đụn rất nhiều đầy Vàng bạc cùng lưu ly Xa cừ ngọc mă năo Dùng những món vật báu Tạo thành các xe lớn Chưng dọn trang nghiêm đẹp Khắp ṿng có bao lơn Bốn mặt đều treo linh Dây vàng xen thắt tụi Lưới mành kết chân châu Giăng bày phủ phía trên Hoa vàng các chuỗi ngọc Ḷng tḥng rũ khắp chỗ Các màu trang sức đẹp Khắp ṿng xây quanh xe Dùng nhiễu hàng mềm mại Để làm nệm lót ngồi Vải quí mịn rất tốt Giá trị đến ngh́n muôn Bóng láng trắng sạch sẽ Dùng trải trùm trên nệm Có trâu trắng to lớn Mập khỏe nhiều sức mạnh Thân h́nh rất tươi tốt Để kéo xe báu đó Đông những tôi và tớ Mà chực hầu giữ ǵn Đem xe đẹp như thế Đồng ban cho các con Các con lúc bấy giờ Rất vui mừng hớn hở Ngồi trên xe báu đó Dạo đi khắp bốn phương Vui chơi nhiều khoái lạc Tự tại không ngăn ngại. GIẢNG : Khi các con ra khỏi nhà lửa, đến vây quanh ông Trưởng giả xin đồ chơi. Với tâm b́nh đẳng, ông cho các con toàn xe trâu trắng trang hoàng bằng những vật báu ngoài sức tưởng tượng, ngoài sự mong ước của các con. 25. CHÁNH VĂN : *Bảo Xá-lợi-phất này Đức Phật cũng như vậy Tôn cả trong hàng Thánh Cha lành của trong đời Tất cả các chúng sanh Đều là con của ta Say mê theo thế lạc Không có chút huệ tâm. Ba cơi hiểm không an Dường như nhà lửa cháy Các nạn khổ dẫy đầy Rất đáng nên ghê sợ Thường có những sanh, già Bịnh, chết và rầu lo Các thứ lửa như thế. Cháy hừng chẳng tắt dứt. Đức Như Lai đă ĺa Nhà lửa ba cơi đó Vắng lặng ở thong thả An ổn trong rừng nội Hiện nay ba cơi này Đều là của ta cả Những chúng sanh trong đó Cũng là con của ta. Mà nay trong ba cơi Có nhiều thứ hoạn nạn Chỉ riêng một ḿnh ta Có thể cứu hộ chúng Dầu lại đă dạy bảo Mà vẫn không tin nhận V́ nơi các dục nhiễm Rất sanh ḷng tham mê Bởi thế nên phương tiện V́ chúng nói ba thừa Khiến cho các chúng sanh Rơ ba cơi là khổ Mở bày cùng diễn nói Những đạo pháp xuất thế Các người con đó thảy Nếu nơi tâm quyết định Đầy đủ ba món minh Và sáu món thần thông Có người được Duyên giác Hoặc bất thối Bồ-tát. Xá-lợi-phất phải biết Ta v́ các chúng sanh Dùng món thí dụ này Để nói một Phật thừa Các ông nếu có thể Tin nhận lời nói đây Tất cả người đều sẽ Chứng thành quả Phật đạo. GIẢNG : Ṭa nhà xiêu vẹo hư mục đang bốc cháy, dụ như ở trong ba cơi, chính bản thân của chúng sanh đang bị lửa vô thường thiêu đốt, không thân nào, cảnh nào là không bị lửa tàn phá. Ở trong nhà lửa có đủ thứ h́nh tướng ghê tởm, đủ thứ hung hiểm ác độc đe dọa sát hại lẫn nhau, đó là dụ cho tham sân si biến ra thiên h́nh vạn trạng làm khổ con người mà không ai biết. V́ vậy Phật phương tiện dẫn dụ Niết-bàn Thanh văn, Niết-bàn Duyên giác, Niết-bàn Bồ-tát để cho chúng sanh thích, tu hành thoát khỏi phiền năo khổ đau. Sau cùng Phật chỉ thẳng Tri kiến Phật là chỗ cứu kính viên măn. Nếu người đến được chỗ rốt ráo này th́ an vui tự tại vô ngại. 26. CHÁNH VĂN : *Phật thừa đây vi diệu Rất thanh tịnh thứ nhứt Ở trong các thế gian Không c̣n pháp nào trên Của các Phật vui ưa Tất cả hàng chúng sanh Đều phải nên khen ngợi Và cúng dường lễ bái Đủ vô lượng ngh́n ức Các trí lực, giải thoát Thiền định và trí huệ Cùng pháp khác của Phật Chứng đặng thừa như thế Khắp cho các con thảy, Ngày đêm cùng kiếp số Thường đặng ngồi dạo chơi Cho các hàng Bồ-tát Cùng với chúng Thanh văn Nương nơi thừa báu này Mà thẳng đến đạo tràng V́ bởi nhân duyên đó T́m kỹ khắp mười phương Lại không thừa nào khác Trừ Phật dùng phương tiện Bảo với Xá-lợi-phất Bọn ông các người thảy Đều là con của ta Ta thời là cha lành. Các ông trải nhiều kiếp Bị các sự khổ đốt Ta đều đă cứu vớt Cho ra khỏi ba cơi Ta dầu ngày trước nói Các ông được diệt độ Nhưng chỉ hết sanh tử Mà thiệt thời chẳng diệt Nay việc nên phải làm Chỉ có trí huệ Phật Nếu có Bồ-tát nào Ở trong hàng chúng này Có thể một ḷng nghe Pháp thật của các Phật Các đức Phật Thế Tôn Dầu dùng chước phương tiện Mà chúng sanh được độ Đều là Bồ-tát cả. GIẢNG : Phật thừa là pháp vi diệu thanh tịnh bậc nhất, trong thế gian này không có pháp nào hơn được, nên phải khen ngợi. Nếu người nào ưa vui tin nhận được pháp này th́ chắc chắn những người đó sẽ thành Phật. 27. CHÁNH VĂN : *Nếu có người trí nhỏ Quá mê nơi ái dục Phật bèn v́ bọn này Mà nói lư khổ đế Chúng sanh nghe ḷng mừng Đặng điều chưa từng có Đức Phật nói Khổ đế Chân thật không sai khác Nếu lại có chúng sanh Không rơ biết gốc khổ Quá say nơi khổ nhân Chẳng tạm rời bỏ được Phật v́ hạng người này Dùng phương tiện nói dạy Nguyên nhân có các khổ Tham dục là cội gốc Nếu dứt được tham dục Khổ không chỗ nương đỗ Dứt hết hẳn các khổ Gọi là đế thứ ba. V́ chứng diệt đế vậy Mà tu hành đạo đế Ĺa hết các khổ phược Gọi đó là giải thoát Người đó nơi pháp ǵ Mà nói đặng giải thoát ? Chỉ xa rời hư vọng Gọi đó là giải thoát Kỳ thiệt chưa phải được Giải thoát hẳn tất cả Đức Phật nói người đó Chưa phải thiệt diệt độ V́ người đó chưa được Đạo quả Vô thượng vậy Ư của ta không muốn Cho đó đến diệt độ Ta là đấng Pháp vương Tự tại nơi các pháp V́ an ổn chúng sanh Nên hiện ra nơi đời Xá-lợi-phất phải biết Pháp ấn của ta đây V́ muốn làm lợi ích Cho thế gian nên nói Tại chỗ ông đi qua Chớ có vọng tuyên truyền Nếu có người nghe đến Tùy hỷ kính nhận lấy Phải biết rằng người ấy Là bậc bất thối chuyển Nếu có người tin nhận Kinh pháp Vô thượng này Thời người đó đă từng Thấy các Phật quá khứ Cung kính và cúng dường Cũng được nghe pháp này Nếu người nào có thể Tin chịu lời ông nói Thời chính là thấy Ta Cũng là thấy nơi ông Cùng các chúng Tỳ-kheo Và các hàng Bồ-tát. GIẢNG : Đối với những người tâm ư nhỏ hẹp không nhận được pháp lớn, nên Phật phương tiện nói Khổ đế, rồi từ Khổ đế Ngài chỉ nguyên nhân gây ra khổ là Tập đế. Khi đă biết Khổ đế, Tập đế, Ngài mới nói Diệt đế tức là Niết-bàn, muốn đến Niết-bàn là phải biết đường lối tu hành tức là Đạo đế. Nếu người y cứ pháp Tứ đế tu hành th́ sẽ chứng được quả A-la-hán. Nhưng quả A-la-hán chưa thật là diệt độ, chưa thật là Niết-bàn. Tại sao ? V́ các vị tu pháp Tứ đế thấy thân tâm này bị vô thường chi phối nên mới khổ đau. Gốc của khổ đau là tham, sân, si mà tham, sân, si lại là hư vọng. Những thứ hư vọng đó sạch hết tức là dứt được cái nhân luân hồi sanh tử gọi là Diệt đế. Thanh văn chỉ dẹp được phiền năo hư vọng chưa nhận được Tri kiến Phật nơi ḿnh nên đây Phật nói: “Chỉ xa rời hư vọng gọi đó là giải thoát.” C̣n hàng Bồ-tát hay Phật thừa th́ nhận ra nơi ḿnh có Tri kiến Phật. Nhận ra nơi ḿnh có Tri kiến Phật rồi th́ buông hết những cái hư vọng không thật. Ví dụ cái áo bị dính những vết nhơ, khi tẩy hết những vết nhơ th́ nói cái áo đă sạch, kỳ thật chỉ hết những vết nhơ chớ chưa thật sạch. Muốn sạch, sau khi tẩy các vết nhơ rồi phải đem cả cái áo ra giặt giũ, chừng đó mới thật sạch. Những vết nhơ sạch là cái sạch tương đối, cái áo sạch toàn diện mới là cái sạch tuyệt đối. Cũng vậy, khi dứt được tham, sân, si, phiền năo hư vọng th́ tâm lặng lẽ gọi là Niết-bàn giải thoát. Niết-bàn này chỉ là Niết-bàn tiêu cực, chưa có diệu dụng tích cực, nên có nhiều vị A-la-hán chứng Niết-bàn an trụ trong vắng lặng, rồi diệt độ luôn không làm lợi ích chúng sanh. C̣n hàng Bồ-tát nhận ra Tri kiến Phật, đoạn dứt nhân luân hồi sanh tử có đủ diệu dụng như: Thập lực, Tứ vô sở úy... ra giáo hóa làm lợi ích chúng sanh. Đó là tinh thần tiêu cực và tích cực của Thanh văn và Bồ-tát. 28. CHÁNH VĂN : *Phật v́ người trí sâu Nói kinh Pháp Hoa này Kẻ thức cạn nghe đến Mê lầm không hiểu được Tất cả hàng Thanh văn Cùng với Bích-chi Phật Ở trong kinh pháp này Sức kia không hiểu được. Chính ông Xá-lợi-phất Hăy c̣n nơi kinh này Dùng ḷng tin đặng vào Huống là Thanh văn khác Bao nhiêu Thanh văn khác Do tin theo lời Phật Mà tùy thuận kinh này Chẳng phải trí của ḿnh. GIẢNG : Phật v́ người trí sâu nói kinh Pháp Hoa, bởi hạng người này mới có đủù khả năng tin nhận. C̣n hạng trí cạn hẹp như Thanh văn, Duyên giác th́ không thể hiểu. Chính ngài Xá-lợi-phất đối với kinh Pháp Hoa phải do ḷng tin mà vào, huống là những hàng Thanh văn khác. 29. CHÁNH VĂN : *Lại nầy Xá-lợi-phất ! Kẻ kiêu mạn biếng lười Vọng so chấp lấy ngă Chớ v́ nói kinh này Hạng phàm phu biết cạn Quá mê năm món dục Nghe pháp không hiểu được Cũng chẳng nên v́ nói Nếu có người không tin Khinh hủy chê kinh này Thời là dứt tất cả Giống Phật ở thế gian. Nếu có người xịu mặt Mà cưu ḷng nghi hoặc Ông nên lóng nghe nói Tội báo của người đó Hoặc Phật c̣n tại thế Hoặc sau khi diệt độ Nếu có người chê bai Kinh điển như thế nầy Thấy có người đọc tụng Biên chép, thọ tŕ kinh Rồi khinh tiện ghét ganh Mà cưu ḷng kết hờn Tội báo của người đó Ông nay lại lóng nghe Người đó khi mạng chung Sa vào ngục A-tỳ Đầy đủ một kiếp chẵn Kiếp măn hết lại sanh Cứ xoay vần như thế Nhẫn đến vô số kiếp Từ trong địa ngục ra Sẽ đọa vào súc sanh, Hoặc làm chó, dă can Thân thể nó ốm gầy Đen điu thêm ghẻ lác Bị người thường chọc ghẹo Lại c̣n phải bị người Gớm nhờm và ghét rẻ Thường ngày đói khát khổ Xương thịt đều khô khan Lúc sống chịu khổ sở Chết bị ném ngói đá V́ đoạn mất giống Phật Nên thọ tội báo đó Hoặc sanh làm lạc đà Hoặc sanh vào loài lừa Thân thường mang kéo nặng Lại thêm bị đánh đập Chỉ nhớ tưởng: nước, cỏ Ngoài ra không biết ǵ V́ khinh chê kinh này Mà mắc tội như vậy. Có khi làm dă can Đi vào trong xóm làng Thân thể đầy ghẻ lác Lại chột hết một mắt Bị bọn trẻ nhỏ vây Theo đánh đập liệng ném Chịu nhiều các đau khổ Hoặc có lúc phải chết Ở đây vừa chết rồi Liền lại thọ thân rắn Thân thể nó dài lớn Đến năm trăm do-tuần Điếc ngây và không chưn Lăn lóc đi bằng bụng Bị các loài trùng nhỏ Cắn rút ăn thịt máu Bị khổ cả ngày đêm Không tạm có ngừng nghỉ V́ khinh chê kinh này Mà mắc tội như vậy Nếu được sanh làm người Các căn đều ám độn Lùn xấu lại lệt què Đui điếc thêm lưng gù Có nói ra lời ǵ Mọi người không tin nhận Hơi miệng thường hôi thúi Bị quỉ mỵ dựa nhập Nghèo cùng rất hèn hạ Bị người sai khiến luôn Nhiều bịnh, thân ốm gầy Không có chỗ cậy nhờ Dầu nương gần với người Mà người chẳng để ư Nếu có đặng điều chi Thời liền lại quên mất Nếu học qua nghề thuốc Theo đúng phép trị bịnh Mà bịnh người nặng thêm Hoặc có khi đến chết, Nếu tự ḿnh có bệnh Không người chữa lành đặng Dầu có uống thuốc hay Mà bịnh càng thêm nặng Hoặc người khác phản nghịch Cướp giựt trộm lấy của Các tội dường thế đó Lại tự mang vạ lây Những người tội như đây Trọn không thấy được Phật Là vua trong hàng Thánh Thường nói pháp giáo hóa Những người tội như đây Thường sanh chỗ hoạn nạn Tâm cuồng loạn, tai điếc Trọn không nghe pháp được Trải qua vô số kiếp Như số cát sông Hằng Sanh ra liền điếc câm Các căn chẳng đầy đủ Thường ở trong địa ngục Như dạo chơi vườn nhà Ở tại ác đạo khác Như ở nhà cửa ḿnh Lạc đà, lừa, heo, chó Là chỗ kia thường đi V́ khinh chê kinh này Mắc tội dường thế đó Nếu đặng sanh làm người Điếc, đui, lại câm, ngọng Nghèo cùng các tướng suy Dùng đó tự trang nghiêm Sưng bủng bịnh khô khát Ghẻ, lác cùng ung thư Các bịnh như trên đó Dùng làm y phục mặc Thân thể thường hôi hám Nhơ nhớp không hề sạch Ḷng chấp ngă sâu chặt Thêm nhiều tánh giận hờn T́nh dâm dục hẩy hừng Đến chẳng chừa cầm thú V́ khinh chê kinh này Mắc tội dường thế đó. GIẢNG : Người chấp ngă đắm mê dục lạc thế gian, nghe kinh Pháp Hoa họ không tin lại c̣n khinh chê làm khuất mờ hạt giống Phật nơi ḿnh, lại c̣n nói cho người khác không tin làm mờ khuất hạt giống Phật nơi người. Đó là làm đoạn mất hạt giống Phật ở thế gian nên mù mịt mê mờ, mặc t́nh tạo tội rồi mắc quả báo ở địa ngục. Khi hết quả báo địa ngục c̣n dư báo làm súc sanh, làm người th́ thân thể tàn tật, đau bịnh, nghèo đói... Tất cả mọi khổ đau đều do không tin và khinh chê kinh Pháp Hoa, nên mất ánh sáng trí tuệ mà tạo nghiệp ác thọ quả khổ. 30. CHÁNH VĂN : *Bảo cho Xá-lợi-phất ! Người khinh chê kinh này Nếu kể nói tội kia Cùng kiếp cũng chẳng hết V́ bởi nhân duyên đó Ta vẫn bảo các ông Trong nhóm người vô trí Chớ nên nói kinh này Nếu có người lợi căn Sức trí huệ sáng láng Học rộng và nhớ dai Ḷng mong cầu Phật đạo Những hạng người như thế Mới nên v́ đó nói Nếu có người đă từng Thấy trăm ngh́n ức Phật Trồng các cội đức lành Thâm tâm rất bền vững Hạng người được như thế Mới nên v́ đó nói Nếu có người tinh tấn Thường tu tập ḷng từ Chẳng hề tiếc thân mạng Mới nên v́ đó nói Nếu có người cung kính Không có sanh ḷng khác Ĺa xa các phàm ngu Ở riêng trong núi chầm Những hạng người như thế Mới nên v́ đó nói Lại Xá-lợi-phất này ! Nếu thấy có người nào Rời bỏ ác tri thức Gần gũi bạn hiền lành Người được như thế ấy Mới nên v́ đó nói. Nếu thấy hàng Phật tử Giữ giới hạnh trong sạch Như minh châu sáng sạch Ham cầu kinh Đại thừa Những người được như thế Mới nên v́ đó nói. Nếu người không ḷng giận Chắc thiệt ư dịu ḥa Thường thương xót mọi loài Cung kính các đức Phật Hạng người tốt như thế Mới nên v́ đó nói. Lại có hàng Phật tử Ở tại trong đại chúng Thuần dùng ḷng thanh tịnh Các món nhân cùng duyên Thí dụ và lời lẽ Nói pháp không chướng ngại Những người như thế ấy Mới nên v́ đó nói. Nếu có vị Tỳ-kheo V́ cầu Nhứt thiết trí Khắp bốn phương cầu pháp Chắp tay cung kính thọ Chỉ ưa muốn thọ tŕ Kinh điển về Đại thừa Nhẫn đến không hề thọ Một bài kệ kinh khác Hạng người được như thế Mới nên v́ đó nói. Như có người chí tâm Cầu xá-lợi của Phật Cầu kinh cũng như thế Đặng rồi đảnh lễ thọ Người đó chẳng c̣n lại Có ḷng cầu kinh khác Cũng chưa từng nghĩ tưởng Đến sách vở ngoại đạo Người được như thế ấy Mới nên v́ đó nói. Bảo cùng Xá-lợi-phất ! Ta nói các sự tướng Của người cầu Phật đạo Cùng kiếp cũng chẳng hết Những người như thế đó Thời có thể tin hiểu Ông nên v́ họ nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. GIẢNG : Ở trước, Phật dạy những người khinh mạn lười biếng, trí kém... th́ không nên v́ họ mà nói kinh Pháp Hoa, e họ không đủ sức tin, khinh chê rồi tạo tội mắc quả khổ. Tới đây, Phật dạy đối với những người lợi căn trí sáng, người đă từng gặp Phật có căn lành với Phật, người tinh tấn thường tu tập ḷng từ, người cung kính nghe lời Phật dạy không chán nhàm luôn ở chỗ vắng vẻ tu hành, người xa bạn ác gần gũi bạn lành, người giữ giới thanh tịnh cầu pháp Đại thừa, người ít giận tâm dịu ḥa, kính Phật, thương chúng sanh, người có tâm thuần tịnh hay dùng phương tiện giảng nói kinh pháp, người thọ tŕ kinh điển Đại thừa, Tỳ-kheo cầu Nhứt thiết trí, người nghe kinh điển thành tâm kính lễ tu tập, không ưa thích sách vở ngoại đạo; nên v́ những người đó mà nói kinh Pháp Hoa, v́ những hạng người này có khả năng tin thọ. Chủ yếu của phẩm Thí Dụ là Phật chỉ cho tất cả hàng đệ tử tu theo Thanh văn thừa, Duyên giác thừa, Bồ-tát thừa biết rơ ba thừa đó, Phật tùy căn cơ của chúng sanh mà phương tiện tạm lặp, nên không có thật. Chỗ chân thật cứu kính mà Phật muốn chỉ là Phật thừa. Ngoài điểm chủ yếu đă nói, trong phẩm Thí Dụ đức Phật c̣n nêu lên những cảnh tượng khổ đau đang bức bách con người trong nhà lửa, để cho người tu Phật thấy rơ lẽ thực là người vật đang bị lửa vô thường, lửa tam độc thiêu đốt thân tâm. Thấy được lẽ thực là tỉnh giác, do tỉnh giác mà tiến tu để thoát khỏi lửa thiêu đốt. Đó là người trí mạnh do tỉnh giác mà được giải thoát. C̣n người trí yếu, nhờ nghe lời Phật dạy, tuy chưa đủ sức tỉnh giác, nhưng tin lời Phật nói là đúng, y theo đó mà tiến tu, nhờ tiến tu nên cũng được giải thoát. Dụ như trường hợp các con của ông Trưởng giả tin cha cho ba xe, nên cố gắng chạy ra khỏi nhà lửa. Không bị lửa vô thường, lửa tam độc chi phối là giải thoát, c̣n bị lửa vô thường, lửa tam độc bức bách th́ c̣n trầm luân trong luân hồi sanh tử. Thông thường giáo lư Phật nói tu đến chỗ viên măn th́ không c̣n chấp ngă chấp pháp, nghĩa là không c̣n thấy thân tâm này là ngă, không c̣n thấy có pháp để tu để chứng. Lúc không c̣n thấy ngă pháp là lúc an trụ Niết-bàn tịch diệt. Không c̣n ngă là không c̣n ḿnh, vậy ai an trụ Niết-bàn? Không c̣n pháp là không có Niết-bàn, vậy tu đến chỗ tịch diệt, chỗ tịch diệt đó có phải là hư không chăng, v́ không người không vật? Nếu tu để trở thành hư không vô tri th́ không nên tu, tu vô ích ! Đó là một vấn đề mà người tu ít ai để ư, cứ tin Niết-bàn là tịch diệt vắng lặng, không c̣n ǵ hết, hiểu như vậy là họa cho người học Phật. H́nh ảnh ông Trưởng giả kêu các con và khi các con ra khỏi nhà lửa, được ông cho xe trâu trắng mập, đẹp, trang hoàng bằng bảy báu ngoài sức tưởng tượng, ngoài sự ước mơ của các con. Cũng vậy, tu đến chỗ không c̣n bị lửa vô thường, lửa tham sân si thiêu đốt, đâu phải ngang đó là hết, mà c̣n cái chân thật không h́nh tướng, không sanh diệt, thanh tịnh sáng suốt mầu nhiệm, vượt khỏi tầm hiểu biết suy lường của con người, nên đức Phật không nói. V́ Phật không nói nên chúng sanh không biết không tin. Khi xả được kiến chấp về giả ngă và buông được kiến chấp về giả pháp, mà Phật đă tùy căn cơ của chúng sanh giả lặp th́ cái chân thật hiện bày đầy đủ diệu dụng bất khả tư ngh́. Nhiều người học Phật, nghĩ Niết-bàn vắng lặng chắc buồn lắm v́ trống vắng. C̣n ngă c̣n pháp th́ ḿnh có cái này được cái kia, khi tới Niết-bàn th́ vô ngă, không có một pháp th́ hưởng cái ǵ ? vui cái ǵ ? Họ đâu ngờ chính khi hết vô minh phiền năo, thoát khỏi luân hồi sanh tử trong tam giới th́ được tự tại vô ngại, đầy đủ diệu dụng lợi ích chúng sanh. Ví dụ nhà lửa làm sáng tỏ ư nghĩa này. Phẩm Thí Dụ c̣n nói lên rằng: Người đến với đạo Phật mà không tin ḿnh có Tri kiến Phật, đó là tự hủy hoại tự đoạn dứt căn lành của người, làm mất hạt giống Phật ở thế gian. Nên biết rơ Tri kiến Phật không rời thân năm uẩn sinh diệt giả tạm này mà riêng có. V́ vậy, việc tin nhận Tri kiến Phật ở chính ḿnh là việc rất thực tế, không phải là chuyện mơ hồ viễn vông. Tin nhận Tri kiến Phật ngay nơi ḿnh th́ mới thấy rơ thân năm uẩn giả hợp này là huyễn hóa không thật, nếu ai mê chấp nó là thật th́ trầm luân đau khổ. Thế nên nói tin kinh này th́ được vô lượng trí tuệ công đức; nếu không tin th́ mê muội tạo vô số tội ác, chịu quả khổ cùng cực. Tin là tin ḿnh có giống Phật, nếu tu sẽ được thành Phật, chứ không phải tin trên ngôn thuyết chữ nghĩa suông. Lư này đến phẩm Thường Bất Khinh Bồ-tát sẽ thấy rơ hơn. Qua phẩm Thí Dụ, chúng ta thấy ḷng từ của Phật đối với chúng sanh vô lượng vô biên không ngằn mé. Ngài dùng mọi phương tiện để dẫn dụ giáo hóa cho chúng sanh mau thoát khỏi nhà lửa Tam giới, được đầy đủ diệu dụng, tiến đến quả Phật như Ngài mới thôi. ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]