DIEÄU PHAÙP LIEÂN HOA GIAÛNG GIAÛI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 1: TỰA Thông thường ở mỗi bộ kinh, phần đầu là tựa. Phẩm Tựa nói lên ư nghĩa tổng quát toàn bộ kinh. Các kinh mở đầu đều có Lục chủng chứng tín. Đó là sáu điều chứng cứ của ngài A-nan nêu ra, để người nghe có đủ ḷng tin pháp Ngài tụng là do Phật nói. Lục chủng chứng tín giống như một biên bản của thơ kư trong phiên họp ngày nay vậy. 1. CHÁNH VĂN : * Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật, nơi thành Vương Xá cùng chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai ngh́n người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-la-hán, các lậu đă hết, không c̣n phiền năo, việc lợi ḿnh đă xong, dứt sự ràng rịt trong các cơi, tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A-nhă Kiều-trần-như, Ma-ha Ca-diếp, Ưu- lâu-tần-loa Ca-diếp, Dà-gia Ca-diếp, Na-đề Ca-diếp, Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-chiên-diên, A-nậu-lâu-đà, Kiếp-tân-na, Kiều-phạm-ba-đề, Ly-bà-đa, Tất-lăng-già-bà-ta, Bạc-câu-la, Ma-ha Câu-si-la, Nan-đà, Tôn-đà-la Nan-đà, Phú-lâu-na-di-đa-la-ni-tử, Tu-bồ-đề, A-nan, La-hầu-la v.v... đó là những vị đại A-la-hán hàng trí thức của chúng. Lại có bậc hữu học và vô học hai ngh́n người. Bà Tỳ-kheo ni Ma-ha Ba-xà-ba-đề cùng với quyến thuộc sáu ngh́n người câu hội. Mẹ của La- hầu-la là bà Tỳ-kheo ni Gia-thâu-đà-la cũng cùng với quyến thuộc câu hội. * Bậc đại Bồ-tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vôâ thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều chứng được pháp Đà-la-ni nhạo thuyết biện tài, chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm ngh́n chư Phật, ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức. Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí huệ của Phật thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới, có thể độ vô số trăm ngh́n chúng sanh. Tên của các vị đó là: Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, Quán Thế Âm Bồ-tát, Đắc Đại Thế Bồ-tát, Thường Tinh Tấn Bồ-tát, Bất Hưu Tức Bồ-tát, Bửu Chưởng Bồ-tát, Dược Vương Bồ-tát, Dơng Thí Bồ-tát, Bửu Nguyệt Bồ-tát, Nguyệt Quang Bồ-tát, Măn Nguyệt Bồ-tát, Đại Lực Bồ-tát, Vô Lượng Lực Bồ-tát, Việt Tam Giới Bồ-tát, Bạt-đà-bà-la Bồ-tát, Di-lặc Bồ-tát, Bửu Tích Bồ-tát, Đạo Sư Bồ-tát v.v... các vị đại Bồ-tát như thế tám muôn người câu hội. * Lúc bấy giờ, Thích đề-hoàn-nhân cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử câu hội. Lại có Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bửu Quang thiên tử, bốn vị đại Thiên vương cùng với quyến thuộc một muôn thiên tử câu hội. Tự Tại thiên tử, Đại Tự Tại thiên tử, cùng với quyến thuộc ba vạn thiên tử câu hội. Chủ cơi Ta-bà: Phạm Thiên vương, Thi-khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm v.v... cùng với quyến thuộc một muôn hai ngh́n vị thiên tử câu hội. Có tám vị Long vương: Nan-đà Long vương, Bạt-nan-đà Long vương, Ta-dà-la Long vương, Ḥa-tu-kiết Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, A-na-bà-đạt-đa Long vương, Ma-na-tư Long vương, Ưu-bát-la Long vương v.v... đều cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội. Có bốn vị Khẩn-na-la vương: Pháp khẩn-na-la vương, Diệu Pháp khẩn-na-la vương, Đại Pháp khẩn-na-la vương, Tŕ Pháp khẩn-na-la vương đều cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội. Có bốn vị Càn-thát-bà vương: Nhạc càn-thát-bà vương, Nhạc Âm càn-thát-bà vương, Mỹ càn-thát-bà vương, Mỹ Âm càn thát-bà vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội. Có bốn vị A-tu-la vương: Bà-trỉ A-tu-la vương, Khư-la-khiên-đà A-tu-la vương, Tỳ-ma-chất-đa-la A-tu-la vương, La-hầu A-tu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội. Có bốn vị Ca-lầu-la vương: Đại Oai Đức ca-lầu-la vương, Đại Thân ca-lầu-la vương, Đại Măn ca-lầu-la vương, Như Ư ca-lầu-la vương, đều cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội. Vua A-xà-thế, con bà Vi-đề-hi, cùng bao nhiêu trăm ngh́n quyến thuộc câu hội. Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía. GIẢNG : “Tôi nghe”, chỉ cho tôn giả A-nan, người nghe và thuật lại kinh này - Văn thành tựu. “Như thế này”, chỉ pháp mà ngài A-nan nghe Phật nói, đó là kinh Pháp Hoa - Tín thành tựu. “Một thuở nọ”, là thời gian nói kinh. Xưa, thời gian mỗi nơi mỗi khác, không thống nhất, nên chỉ nói một thuở nọ, chớ không nói ngày mấy, tháng mấy, lúc mấy giờ - Thời thành tựu. “Đức Phật”, là vị chủ tọa trong buổi thuyết pháp - Chủ thành tựu. “Núi Kỳ-xà-quật”, nơi thành Vương Xá là chỗ Phật thuyết pháp - Xứ thành tựu. “Chúng đại Tỳ-kheo một muôn hai ngh́n người là bậc A-la-hán, như A-nhă Kiều-trần-như..., hàng Tỳ-kheo hữu học và vô học có trên 2000 người. Các Tỳ-kheo ni như Ma-ha Ba-xà-ba-đề, Gia-thâu-đà-la và quyến thuộc. Hàng Bồ-tát có tới tám muôn như Bồ-tát Văn-thù, Bồ-tát Quán Âm... Thích đề-hoàn nhân và quyến thuộc. Tứ thiên vương và quyến thuộc. Phạm Thiên vương và các vị trời cùng với quyến thuộc. Long vương và quyến thuộc. Khẩn-na-la vương cùng quyến thuộc. Càn-thát-bà vương cùng quyến thuộc. A-tu-la vương cùng quyến thuộc. Ca-lâu-la vương cùng với quyến thuộc. Vua A-xà-thế cùng với quyến thuộc” là những cử tọa đến nghe pháp - Chúng thành tựu. Sáu điều trên đây gọi là Lục chủng chứng tín, nghĩa là sáu điều làm bằng chứng để cho chúng ta tin kinh này không phải ngài A-nan tự ư nói, mà chính Ngài đă cùng nghe với thính chúng và thuật lại. 2. CHÁNH VĂN : Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, hàng tứ chúng vây quanh cúng dường cung kỉnh ngợi khen tôn trọng, v́ các vị Bồ-tát mà nói kinh Đại thừa tên là “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. GIẢNG : Kinh “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm” là bộ kinh có nghĩa lư sâu rộng, không thể nghĩ lường được. Kinh này dạy cho hàng Bồ-tát tu để thành Phật, và chính kinh này là chỗ mà chư Phật hằng hộ niệm. Đoạn này không ghi Phật nói kinh như thế nào, chỉ nói tổng quát là kinh Đại thừa tên “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. 3. CHÁNH VĂN : Nói kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định “Vô lượng nghĩa xứ”, thân và tâm của Phật đều không lay động. GIẢNG : Từ trước, Phật tùy theo căn cơ cao thấp của chúng sanh mà phương tiện nói kinh nghĩa lư hữu lượng, chớ kinh Vô lượng liễu nghĩa th́ chưa từng nói. Nay thấy căn cơ đệ tử đă thuần thục, Phật mới nói kinh Vô Lượng Nghĩa và nhập chánh định tên là Vô Lượng Nghĩa Xứ, để chuẩn bị tư thế nói kinh Pháp Hoa là chân lư tuyệt đối. 4. CHÁNH VĂN : Khi đó trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma-ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, hoa ma-ha mạn-thù-sa, để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng; khắp cơi Phật sáu điệu vang động. Lúc bấy giờ, trong chúng hội, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lầu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân và các vị tiểu vương cùng Chuyển Luân Thánh vương, các đại chúng ấy đều được thấy việc chưa từng có, vui mừng chấp tay một ḷng nh́n Phật. GIẢNG : Khi Phật nói kinh “Vô Lượng Nghĩa” xong, Ngài nhập định th́ chư thiên rải hoa cúng dường, quả đất rúng động, phát ra sáu thứ âm thanh vi diệu. Bấy giờ, thính chúng trong hội thấy việc chưa từng có, nên vui mừng chấp tay một ḷng hướng về đức Phật mắt không tạm rời. 5. CHÁNH VĂN : Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày phát ra luồng hào quang chiếu khắp cả một muôn tám ngh́n cơi nước ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A-tỳ, trên suốt thấu trời Sắc Cứu Cánh. Chúng ở cơi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cơi kia. GIẢNG : Đoạn này dùng h́nh ảnh để hiển bày cái chân thật tuyệt đối, đó là Tri kiến Phật. Sở dĩ không dùng ngôn ngữ để diễn tả, là v́ mọi ngôn ngữ đều ở trong ṿng tương đối, không thể nói lên pháp tuyệt đối. Hai chân mày là hai bên chỉ cho pháp tương đối: Có không, phải quấy, tốt xấu... Lông trắng giữa chặng mày tượng trưng cho lư Trung đạo không kẹt hai bên đối đăi. Hào quang là ánh sáng, tượng trưng cho trí tuệ Phật. Qua h́nh ảnh tượng trưng đó, nếu chúng ta biết xoay lại ḿnh để tu tập như lời dạy của Tổ Bá Trượng, mới thấy được ư nghĩa huyền diệu của kinh Đại thừa. Người không c̣n kẹt hai bên là người hằng sống với lư Trung đạo, th́ được trí tuệ viên măn. Trí tuệ viên măn là trí tuệ Phật thênh thang rộng lớn, nên soi rọi thấu suốt một muôn tám ngh́n cơi ở phương Đông, từ địa ngục cho tới cơi trời Sắc Cứu kính. Nếu nương theo trí tuệ Phật th́ chúng ta sẽ thấy rơ các cơi, biết rơ nhân quả của sáu loài chúng sanh luân hồi trong lục đạo, và cũng thấu suốt được nguyên nhân tu hành cùng quả báo của các vị Tỳ-kheo, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Ở đây có điều khiến cho chúng ta nghi vấn là, tại sao hào quang Phật chỉ soi thấu về phương Đông mà không soi về các phương khác ? Phương Đông là phía mặt trời mọc, ánh sáng của ngày bắt đầu từ phương Đông, chiếu rọi khắp cả. C̣n phương Tây là phía mặt trời lặn, ánh sáng của ngày mờ dần và tắt hẳn. Phật muốn chỉ cho mọi người trí tuệ cứu kính của Phật thấu suốt tất cả pháp, nên Ngài dùng phương Đông là phương mở màn cho ánh sáng ban mai để làm ví dụ. 6. CHÁNH VĂN : Lại thấy các đức Phật hiện tại nơi các cơi kia và nghe kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cơi kia, các hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, những người tu hành đắc đạo. Lại thấy các vị đại Bồ-tát dùng các món nhân duyên, các ḷng tín giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ-tát. Lại thấy đức Phật nhập Niết-bàn, lại thấy sau khi các đức Phật nhập Niết-bàn, đem xá-lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu. GIẢNG : Qua đoạn này, chúng ta thấy cái nh́n của đạo Phật rất rộng răi, chỉ một phương Đông thôi mà thấy có một muôn tám ngh́n cơi. Nếu trông cả mười phương hay cả vũ trụ th́ sẽ thấy vô số cơi nước không thể tính đếm. V́ vậy mà trong kinh nói hằng hà sa số cơi Phật. Điều mà đức Phật nói cách đây trên hai ngàn năm trăm năm th́ hiện nay các nhà khoa học đă chứng minh một cách cụ thể là, trong vũ trụ ngoài quả đất chúng ta đang ở c̣n có vô số hành tinh, gần nhất là mặt trăng, nơi loài người đă từng đặt chân đến đó cách nay không lâu. Bây giờ trong hội chúng nương hào quang Phật, thấy và nghe được các đức Phật ở các cơi ấy nói Pháp. Rồi cũng thấy thính chúng của các đức Phật ở các cơi ấy tu hành đắc đạo. Chẳng những thấy Phật, Bồ-tát, thính chúng ở các cơi khác, mà c̣n thấy Phật nhập Niết-bàn. Lại thấy sau khi Phật nhập Niết-bàn, xá-lợi Phật được dựng tháp bằng bảy báu để cúng dường. 7. CHÁNH VĂN : * Khi ấy, ngài Di-lặc Bồ-tát nghĩ rằng: “Hôm nay đức Thế Tôn hiện thần biến tướng, v́ nhân duyên ǵ mà có điềm lành này ? Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được ?” Ngài lại nghĩ: “Ông Pháp vương tử Văn-thù-sư- lợi này đă từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ, chắc đă thấy tướng hy hữu này, ta nay nên hỏi ông.” Lúc đó, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và các trời, rồng, quỉ, thần v.v... đều nghĩ rằng: “Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai ?” * Bấy giờ, ngài Di-lặc Bồ-tát muốn giải quyết chỗ nghi của ḿnh, Ngài lại xét tâm niệm của bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và của cả chúng hội trời, rồng, quỉ, thần v.v... mà hỏi Văn-thù-sư-lợi rằng: “V́ nhân duyên ǵ mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám ngh́n cơi ở phương Đông, đều thấy cơi nước trang nghiêm của các đức Phật ?” GIẢNG : Theo Duy thức học th́ Bồ-tát Di-lặc tượng trưng cho Thức phân biệt. Bởi Thức phân biệt nên không thể hiểu được những h́nh ảnh biểu trưng Tri kiến Phật (lư trung đạo). V́ Tri kiến Phật vượt khỏi pháp nhị nguyên tương đối của thế gian. Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho Căn bản trí hay Bản giác có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Do gần gũi, bảo hộ, cúng dường, thâm nhập Tri kiến Phật nên Ngài mới hiểu được những điềm lành mà Phật hiện ra; v́ vậy Bồ-tát Di-lặc mới có dự ư thưa hỏi. Đây là những vị Bồ-tát tượng trưng để nói lên ư nghĩa thâm sâu trong việc tu hành của mỗi người chúng ta, chớ không phải là hàng Bồ-tát đi hoằng truyền Chánh pháp giáo hóa chúng sanh trong đời. Đa số kinh Đại thừa, phẩm đầu thường là Bồ-tát Văn-thù thưa hỏi và phẩm kết thúc là hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Như kinh Pháp Hoa, mở đầu là Bồ-tát Văn-thù giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc và bốn chúng, phần cuối cùng nêu lên hạnh nguyện của Bồ-tát Phổ Hiền. Bồ-tát Phổ Hiền tượng trưng cho Trí sai biệt. Trí căn bản là trí đă có sẵn, bởi vô minh vọng tưởng che phủ nên không hiển lộ. Nhờ tu hành lần lầøn sạch hết vô minh phiền năo, Trí căn bản mới hiển hiện tṛn sáng. Lúc đó có đủ diệu dụng, tùy duyên giáo hóa chúng sanh gọi là Trí sai biệt. Chúng sanh căn cơ tŕnh độ không đồng nhau, kẻ th́ đần độn, người th́ lanh lợi; Trí sai biệt của Phật có đủ diệu lực thấu suốt tŕnh độ sai biệt ấy, nên tùy theo căn cơ mà phương tiện nói pháp sai biệt giáo hoá họ. Chính Trí sai biệt làm căn bản cho hàng Bồ-tát làm hạnh lợi tha không lười mỏi, không thối chuyển. V́ chúng ta tu chưa được viên măn, chưa có Trí sai biệt, khi hành hạnh lợi tha mà không biết tŕnh độ căn cơ của chúng sanh, không rơ được cái gốc đau khổ của muôn loài, nói pháp chỉ khế lư mà không khế cơ, nên người nghe không tin không theo tu học; kết quả là giúp người mà người không hết khổ, chán nản, nên thối Bồ-đề tâm. Lỗi đó không phải tại người cứng đầu không chịu nghe, mà tại ḿnh chưa có Trí sai biệt biết rơ căn cơ tŕnh độ của người, để nói pháp hợp thời đúng bệnh. Nếu nói pháp hợp thời đúng bệnh th́ người nghe mới kính tin vâng theo mà tu tập hết khổ đau. Sở dĩ người không nghe là v́ chúng ta nói pháp không đúng bệnh, không hợp thời, khiến người nghe không tin, bất măn, xa lánh. Đó là muốn giúp người được lợi ích mà hóa ra hại người mất tín tâm, lỗi đó là tại ḿnh. V́ vậy, nếu được Trí sai biệt th́ sự giáo hóa chẳng những khiến chúng sanh được lợi ích, mà người giáo hóa cũng không lười mỏi, không chán nản, nên mới gọi là Đại Hạnh Phổ Hiền. Phần Trùng tụng là phần lặp lại ư của văn Trường hàng ở trên, nhưng lặp lại có phần chi tiết. 8. CHÁNH VĂN : Khi đó, ngài Di-lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng: Ngài Văn-thù-sư-lợi ! Đức Đạo sư cớ chi Lông trắng giữa chặng mày Phóng ánh sáng khắp soi Trời mưa hoa Mạn-đà Cùng hoa Mạn-thù-sa Gió thơm mùi chiên-đàn Vui đẹp ḷng đại chúng V́ nhân duyên như vậy Cơi đất đều nghiêm tịnh Mà trong thế giới này Sáu điệu vang động lên Bấy giờ bốn bộ chúng Thảy đều rất vui mừng Thân cùng ư thơ thới Được việc chưa từng có. GIẢNG : Đoạn này lặp lại chỗ nghi vấn của Bồ-tát Di- lặc và hội chúng về h́nh tướng biểu trưng cho cái chân thật tuyệt đối. 9. CHÁNH VĂN : Ánh sáng giữa chặng mày Soi suốt thẳng phương Đông Một muôn tám ngh́n cơi Đều ánh như sắc vàng Từ địa ngục A-tỳ Trên đến trời Hữu Đảnh Trong các thế giới đó Cả sáu đạo chúng sanh Sống chết của kia đến Nghiệp duyên lành cùng dữ Thọ báo có tốt xấu Tại đây đều thấy rơ. GIẢNG : Nương ánh sáng do Phật phóng ra, mà cả hội chúng đều thấy tất cả nhân quả luân hồi của sáu loài chúng sanh, ở một muôn tám ngh́n cơi nước về phương Đông. 10. CHÁNH VĂN : Lại thấy các đức Phật Đấng Thánh chúa Sư tử Diễn nói các kinh điển Nhiệm mầu bậc thứ nhứt. Tiếng của Ngài thanh tịnh Giọng nói ra êm dịu Dạy bảo các Bồ-tát Vô số ức muôn người Tiếng Phạm âm thâm diệu Khiến người đều ưa nghe. Các Phật ở cơi ḿnh Mà giảng nói chánh pháp Dùng nhiều món nhân duyên Cùng vô lượng tỉ dụ Để soi rơ Phật pháp Mà khai ngộ chúng sanh. Nếu có người bị khổ Nhàm ĺa già, bệnh, chết, Phật v́ nói Niết-bàn Để dứt các ngằn khổ. Nếu là người có phước Đă từng cúng dường Phật Chí cầu pháp thù thắng V́ nói hạnh Duyên giác. Nếu lại có Phật tử Tu tập các công hạnh Để cầu huệ Vô thượng Phật v́ nói tịnh đạo. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc cùng bốn chúng thấy các đức Phật đang ở cơi nước của các Ngài với Phạm âm vi diệu, tùy căn cơ dùng phương tiện nói pháp khai ngộ cho hàng Thanh văn, Duyên giác. 11. CHÁNH VĂN : Ngài Văn-thù-sư-lợi ! Tôi ở tại nơi đây Thấy nghe dường ấy đó Và ngh́n ức việc khác Thấy rất nhiều như thế Nay sẽ lược nói ra ! Tôi thấy ở cơi kia Có Hằng sa Bồ-tát Dùng các món nhân duyên Mà cầu chứng Phật đạo. Hoặc có vị bố thí Vàng, bạc, ngọc, san hô, Chân châu, ngọc như ư, Ngọc xa cừ, mă năo, Kim cương các trân bửu Cùng tôi tớ, xe cộ Kiệu, cáng chưng châu báu Vui vẻ đem bố thí Hồi hướng về Phật đạo Nguyện được chứng thừa ấy Bậc nhứt của ba cơi Các Phật hằng khen ngợi. Hoặc có vị Bồ-tát Xe tứ mă, xe báu Bao lơn che tàng đẹp Trau tria dùng bố thí. Lại thấy có Bồ-tát Bố thí cả vợ con Thân thịt cùng tay chân Để cầu Vô thượng đạo. Lại thấy có Bồ-tát Đầu mắt và thân thể Đều ưa vui thí cho Để cầu trí huệ Phật. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc tường tŕnh chỗ thấy nghe của Ngài như: Có vô số Bồ-tát bố thí vàng bạc, châu báu, bố thí xe cộ, bố thí thân mạng, vợ con để cầu Phật đạo. 12. CHÁNH VĂN : Ngài Văn-thù-sư-lợi ! Ta thấy các quốc vương Qua đến chỗ của Phật Thưa hỏi đạo Vô thượng Bèn bỏ nước vui vẻ Cung điện cả thần thiếp Cạo sạch râu lẫn tóc Mà mặc y pháp phục. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc lại thấy các quốc vương thưa hỏi đạo Vô thượng, rồi bèn bỏ nước, bỏ ngôi vua, thần thiếp, cạo bỏ râu tóc xuất gia. 13. CHÁNH VĂN : Hoặc lại thấy Bồ-tát Mà hiện làm Tỳ-kheo Một ḿnh ở vắng vẻ Ưa vui tụng kinh điển. Cũng thấy có Bồ-tát Dơng mănh và tinh tấn Vào ở nơi thâm sơn Suy xét mối Phật đạo. Và thấy bậc ly dục Thường ở chỗ không nhàn Sâu tu các thiền định Được năm món thần thông Và thấy vị Bồ-tát Chấp tay trụ thiền định Dùng ngh́n muôn bài kệ Khen ngợi các Pháp vương. Lại thấy có Bồ-tát Trí sâu chí bền chắc Hay hỏi các đức Phật Nghe rồi đều thọ tŕ Lại thấy hàng Phật tử Định huệ trọn đầy đủ Dùng vô lượng tỉ dụ V́ chúng mà giảng pháp Vui ưa nói các pháp Dạy bảo các Bồ-tát Phá dẹp chúng binh ma Mà đánh rền trống pháp. Cùng thấy vị Bồ-tát Vắng bặt yên lặng ngồi Trời, rồng đều cung kính Chẳng lấy đó làm mừng. Và thấy có Bồ-tát Ở rừng phóng hào quang Cứu khổ chốn địa ngục Khiến đều vào Phật đạo. Lại thấy hàng Phật tử Chưa từng có ngủ nghỉ Kinh hành ở trong rừng Siêng năng cầu Phật đạo Cũng thấy đủ giới đức Oai nghi không thiếu sót Ḷng sạch như bửu châu Để cầu chứng Phật đạo. Và thấy hàng Phật tử Trụ vào sức nhẫn nhục Bị kẻ tăng thượng mạn Mắng rủa cùng đánh đập, Thảy đều hay nhẫn được Để cầu chứng Phật đạo. Lại thấy có Bồ-tát Xa rời sự chơi cười Và quyến thuộc ngu si Ưa gần gũi người trí Chuyên tâm trừ loạn động Nhiếp niệm ở núi rừng Trải ức ngh́n muôn năm Để cầu được Phật đạo. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng thấy các Bồ-tát ở nơi vắng vẻ, mỗi vị dùng mọi phương tiện tu hành khác nhau để cầu Phật đạo. 14. CHÁNH VĂN : Lại thấy vị Bồ-tát Đồ ăn uống ngọt ngon Cùng trăm món thuốc thang Đem cúng Phật và Tăng, Áo tốt đồ thượng phục Giá đáng đến ngh́n muôn Hoặc là vô giá y Đem cúng Phật và Tăng, Dùng ngh́n muôn ức thứ Nhà báu bằng chiên-đàn Các giường nằm tốt đẹp Để cúng Phật cùng Tăng, Rừng vườn rất thanh tịnh Bông trái đều sum sê Suối chảy cùng ao tắm Cúng dường Phật và Tăng, Cúng thí như thế đó Các đồ cúng tốt đẹp Vui vẻ không hề nhàm Để cầu đạo vô thượng. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát ở cơi kia cúng dường tứ sự quí giá cho Phật và Tăng để cầu đạo Vô thượng. 15. CHÁNH VĂN : Lại có vị Bồ-tát Giảng nói pháp tịch diệt Dùng các lời dạy dỗ Dạy vô số chúng sanh Hoặc thấy vị Bồ-tát Quán sát các pháp tánh Đều không có hai tướng Cũng như khoảng hư không. Lại thấy hàng Phật tử Tâm không chỗ mê đắm Dùng món diệu huệ này Mà cầu đạo Vô thượng. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc thấy Bồ-tát các cơi kia, vị th́ dùng pháp tịch diệt giáo hóa chúng sanh, vị th́ quán pháp tánh không hai, vị th́ ly dục dùng trí tuệ nhiệm mầu cầu Phật đạo. 16. CHÁNH VĂN : * Ngài Văn-thù-sư-lợi ! Lại có vị Bồ-tát Sau khi Phật diệt độ Cúng dường xá-lợi Phật. Lại thấy hàng Phật tử Xây dựng các tháp miếu Nhiều vô số Hằng sa Nghiêm sức khắp cơi nước. Bửu tháp rất cao đẹp Đều năm ngh́n do-tuần Bề ngang rộng xứng nhau Đều hai ngh́n do-tuần. Trong mỗi mỗi tháp miếu Đều có ngh́n tràng phan Màn châu xen thả xuống Tiếng linh báu ḥa reo Các vị trời, rồng, thần, Người cùng với phi nhân Hương, hoa cùng kỹ nhạc Thường đem đến cúng dường. Ngài Văn-thù-sư-lợi ! Các hàng Phật tử kia V́ cúng dường xá-lợi Nên trang sức tháp miếu Cơi quốc giới tự nhiên Thù đặc rất tốt đẹp Như cây Thiên thọ vương Bông kia đương x̣e nở. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc thấy Phật ở cơi kia tịch diệt, Bồ-tát xây vô số bửu tháp cao đẹp quí báu, trang hoàng cờ, phướn, màn, linh. Rồi trời, người, rồng, thần dâng hương hoa kỹ nhạc để cúng dường xá-lợi Phật. 17. CHÁNH VĂN : *Phật phóng một luồng sáng Ta cùng cả chúng hội Thấy nơi cơi nước này Các thứ rất tốt đẹp Thần lực của chư Phật Trí huệ đều hy hữu Phóng một luồng tịnh quang Soi khắp vô lượng cơi Chúng ta thấy việc này Được điều chưa từng có. *Xin Phật tử Văn-thù Giải quyết ḷng chúng nghi Bốn chúng đều mong ngóng Nh́n Ngài và nh́n ta Đức Thế Tôn cớ chi Phóng ánh quang minh này ? Phật tử phải thời đáp Quyết nghi cho chúng mừng Có những lợi ích ǵ Đức Phật phóng quang này ? Khi Phật ngồi đạo tràng Chứng được pháp thâm diệu. V́ muốn nói pháp đó Hay là sẽ thọ kư ? Hiện bày các cơi Phật Các báu sạch trang nghiêm Cùng thấy các đức Phật Đây không phải cớ nhỏ Ngài Văn-thù nên biết Bốn chúng và long, thần Nh́n xem xét Ngài đó Mong sẽ nói những ǵ? GIẢNG : V́ Bồ-tát Di-lặc cùng hội chúng nương hào quang của Phật, thấy được những việc chưa từng có ở các cơi nước của chư Phật khác, nên yêu cầu Bồ-tát Văn-thù giải nghi về những điềm lành mà Phật hiện: có phải Phật sắp nói pháp hay sắp thọ kư chăng ? Xin Ngài giải đáp cho, v́ đại chúng đang trông cậy Ngài. 18. CHÁNH VĂN : *Lúc bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi nói với ngài Di-lặc Đại Bồ-tát cùng các vị Đại sĩ: “Các thiện nam tử! Như chỗ ta xét nghĩ thời nay đức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn. Các thiện nam tử ! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ thấy điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên chắc biết rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật v́ muốn cho chúng sanh đều được nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, cho nên hiện điềm lành này. GIẢNG : Bồ-tát Văn-thù trả lời: Sở dĩ Phật hiện những tướng nhiệm mầu đó, là v́ Ngài sắp nói pháp Đại thừa. Và Bồ-tát Văn-thù xác nhận là Ngài đă từng gần gũi các đức Phật đời quá khứ, nên Ngài biết mỗi khi Phật hiện điềm lành là Phật sắp nói pháp Đại thừa nghĩa lư rất sâu xa, người đời không thể tin nổi. Thông thường, với con mắt người phàm chỉ tin những ǵ mắt thấy tai nghe được. C̣n Tri kiến Phật mà Phật sắp nói ở đây là diệu pháp không h́nh không tướng nên khó tin. Bởi pháp khó tin, nên trước khi nói Phật phải hiện những tướng lạ để cho người tin, Ngài mới nói pháp chân thật tuyệt đối, th́ khả dĩ họ mới tin. 19. CHÁNH VĂN : * Các thiện nam tử ! Như vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp về trước. Bấy giờ, có đức Phật hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, diễn nói chánh pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lư rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch. GIẢNG : Bồ-tát Văn-thù nói: Vô lượng vô biên a-tăng- kỳ kiếp về trước, có đức Phật tên là Nhựt Nguyệt Đăng Minh (Nhựt là mặt trời, Nguyệt là mặt trăng, Đăng là đèn, Minh là sáng). Phật có trí tuệ sáng suốt như mặt trời, mặt trăng và đèn. Tất cả ánh sáng thế gian đều phát ra từ mặt trời, mặt trăng và đèn. Nói cách khác là trí tuệ Phật sáng suốt viên măn không khiếm khuyết. V́ vậy, tượng trưng cho trí tuệ viên măn của Phật là Nhựt Nguyệt Đăng. Mười hiệu của Phật hàm ư nghĩa sau: - Như Lai: Như là như như bất động bất biến, chỉ cho tâm thể chân thật có sẵn ở mỗi người, tượng trưng là Bồ-tát Văn-thù. Lai là tùy duyên, tu khi viên măn công hạnh, đầy đủ Trí sai biệt, th́ tùy duyên giáo hóa chúng sanh, tượng trưng là Bồ-tát Phổ Hiền. - Ứng Cúng: Xứng đáng cho người, trời cúng dường. - Chánh Biến Tri: Biết chân chánh khắp giáp tất cả. - Minh Hạnh Túc: Đầy đủ công hạnh, tức là đủ tam minh và lục thông. - Thiện Thệ: Khéo qua biển sanh tử đến Niết-bàn. - Thế Gian Giải: Thấu suốt tất cả các pháp thế gian. - Vô Thượng Sĩ: Kẻ sĩ cao tột không ai hơn. - Điều Ngự Trượng Phu: Bậc trượng phu có khả năng điều phục được tất cả mọi người từ trí đến ngu. - Thiên Nhân Sư: Bậc thầy của trời, người. - Phật Thế Tôn: Bậc giác ngộ mà người đời cung kính, tôn trọng. Người giác ngộ thể nhập được trí tuệ viên măn th́ gọi là Phật. Khi đă thành Phật th́ những lời Phật nói ra rất sâu xa nhiệm mầu, ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều như một không sai trái, giúp cho người tu được thanh tịnh sáng suốt nên được coi là chân lư. Chẳng hạn Phật nói: Các pháp thế gian là vô thường, chúng sanh th́ đau khổ. Xưa, con người sanh ra, lớn lên rồi phải già, bệnh, chết. Ngày nay, con người sanh ra cũng không tránh khỏi lăo, bệnh, tử. Và mai kia, nếu con người có mặt ở cơi đời này cũng chẳng thoát khỏi nỗi khổ của sanh, già, bệnh, chết. Như vậy, điều Phật nói cách nay trên hai ngàn năm trăm năm, trải qua ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai đều như một, không biến dịch, không phải chân lư là ǵ ? Ngày nay, chúng ta v́ chưa được trí tuệ Phật, thấy biết không đúng lẽ thật, nên nói ra điều ǵ mới nghe qua thấy hợp lư, nhưng ít tháng sau hoặc ít năm sau th́ không c̣n đúng nữa, nên không được coi là chân lư. 20. CHÁNH VĂN : Phật, v́ người cầu đạo Thanh văn, nói pháp Tứ đế thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết cứu cánh Niết-bàn. V́ hạng cầu quả Duyên giác, nói pháp Mười hai nhân duyên. V́ hàng Bồ-tát nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho chứng được quả Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác thành bậc Nhứt thiết chủng trí. GIẢNG : V́ Phật có đủ Trí sai biệt, biết rơ hạnh nguyện của người tu, nên tùy duyên ứng hóa làm lợi ích cho tất cả. Nếu người muốn thoát khổ cầu đạo Thanh văn, Phật nói pháp Tứ đế độ cho thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, được cứu kính Niết-bàn. Nếu người trí tuệ khá hơn, cầu quả Duyên giác, Phật sẽ nói pháp Mười hai nhân duyên. Nếu là hàng Bồ-tát, Phật sẽ nói sáu pháp Ba-la-mật làm cho chứng được quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành bậc Nhất thiết chủng trí tức là thành Phật. Tùy theo căn cơ cao thấp mà Phật nói pháp có sai biệt để hết thảy người tu đều đạt được sở nguyện của ḿnh. 21. CHÁNH VĂN : Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Lại có đức Phật cũng hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh, lại cùng đồng một họ, họ Phả-la-đọa. GIẢNG : Tất cả chư Phật có đến hai muôn đều đồng một hiệu là Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Tại sao Phật nhiều như thế mà chỉ cùng một hiệu ? Như trước đă nói, Nhựt Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho trí tuệ sáng suốt viên măn; tất cả chư Phật khi thành Phật đều có trí tuệ sáng suốt viên măn như nhau, v́ vậy mà đồng một hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh. 22. CHÁNH VĂN : Di-lặc nên biết ! Đức Phật trước, đức Phật sau đều đồng một tên, hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra đầu, giữa, sau đều lành. Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất gia có tám vị vương tử: Người thứ nhất tên Hữu Ư, thứ hai tên Thiện Ư, thứ ba tên Vô Lượng Ư, thứ tư tên Bửu Ư, thứ năm tên Tăng Ư, thứ sáu tên Trừ Nghi Ư, thứ bảy tên Hướng Ư, thứ tám tên Pháp Ư. GIẢNG : Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh lúc chưa xuất gia là chỉ cho chúng sanh khi chưa tu. Theo kinh Lăng-già th́ mọi chúng sanh đều có Như Lai tàng, nhưng v́ quên (mê) Như Lai tàng nên biến thành tàng thức. Khi biến thành tàng thức rồi th́ có bảy thức thân theo. Tám vương tử là tượng trưng cho tám thức; c̣n Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh là chỉ cho Như Lai tàng hay là Phật tánh. Chúng sanh có Phật tánh mà quên (mê) Phật tánh nên biến thành thức. Mà thức th́ hay phân biệt nên đây để tên là Ư. Do thức hay phân biệt nên lưu chuyển trong lục đạo, sanh tử luân hồi. 23. CHÁNH VĂN : Tám vị vương tử đó có oai đức tự tại, đều lănh trị bốn châu thiên hạ. Nghe vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều bỏ ngôi vua, cũng xuất gia theo, phát tâm Đại thừa, thường tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc Pháp sư, thuở trước đă từng ở chỗ ngh́n muôn đức Phật vun trồng các cội lành. GIẢNG : Tám vị vương tử có oai đức tự tại cai trị bốn châu thiên hạ, là chỉ cho tám thức có công năng phân biệt khắp tất cả pháp. Mắt th́ nh́n trước, ngó sau, xem phải, thấy trái phân biệt sắc pháp rất tinh tường. Tai th́ nghe âm thanh của bốn phía, phân biệt trầm bổng, hay dở... một cách rành rẽ. Mũi ngửi mùi từ mọi nơi bay tới phân biệt thơm, thúi, tanh, hôi... một cách rơ ràng. Khi nghe vua cha xuất gia, tám vị vương tử liền xuất gia theo; ư nói khi tạng thức chuyển thành Như Lai tàng th́ tám thức cũng chuyển thành Trí, có nghĩa là chúng sanh khi chưa xuất gia (mê) th́ có tám thức phân biệt, rồi tạo nghiệp nên phải luân hồi trong lục đạo. Khi ngộ th́ tám thức qui về với tánh giác, không c̣n phân biệt lăng xăng nữa mà vẫn biết rơ ràng (liễu liễu thường tri) đó là Trí. 24. CHÁNH VĂN : *Đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh lúc đó nói kinh Đại thừa tên “Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. Nói kinh đó rồi, Phật liền ở trong đại chúng ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định “Vô lượng nghĩa xứ”, thân và tâm chẳng động. * Khi ấy trời mưa hoa mạn-đà-la, hoa ma- ha mạn-đà-la, hoa mạn-thù-sa, cùng hoa ma-ha mạn-thù-sa để rải trên đức Phật và hàng đại chúng. Khắp cơi nước Phật sáu điệu vang động. Lúc đó trong hội, hàng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân cùng các vị tiểu vương, các vị Chuyển Luân Thánh vương v.v... các đại chúng đó được điều chưa từng có, mừng rỡ chắp tay một ḷng nh́n Phật. *Bấy giờ, đức Như Lai từ tướng lông trắng giữa chặng mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cùng cả một muôn tám ngh́n cơi nước ở phương Đông như nay đương thấy ở cơi Phật đây. Di-lặc nên biết ! Khi đó trong hội có hai mươi ức Bồ-tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ-tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cơi Phật được điều chưa từng có, đều muốn biết v́ duyên cớ ǵ mà phóng ánh sáng này. Khi ấy có vị Bồ-tát hiệu Diệu Quang có tám trăm người đệ tử. GIẢNG : Đoạn này Bồ-tát Văn-thù lặp lại những hiện tướng lạ sau khi Phật nói kinh “Vô Lượng Nghĩa”. Tuy thời gian khác nhau, nhưng tướng hiện không khác. Song, xưa kia là Bồ-tát Diệu Quang, nay trong hội Linh Sơn là Bồ-tát Văn-thù, Văn-thù chính là tên sau của Bồ-tát Diệu Quang thuở trước (Diệu Quang có nghĩa là ánh sáng nhiệm mầu, tức là Trí căn bản có sẵn nơi mỗi chúng sanh). 25. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ, đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định mà dậy, v́ Diệu Quang Bồ-tát nói kinh Đại thừa tên “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm” trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi. * Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi. GIẢNG : Một tiểu kiếp bằng 16.800.000 năm, sáu chục tiểu kiếp bằng 1.008.000.000 năm. Phật nói pháp trải qua trên một tỷ năm mà Phật cùng với thính chúng thân tâm đều không lay động, không lười mỏi, thấy thời gian như chừng một bữa ăn. Thật là kỳ diệu ! Chúng ta chỉ ngồi nghe pháp liên tục khoảng chừng bốn giờ là đă thấy lười mỏi. Thính chúng ở hội này nghe pháp trên một tỷ năm mà thân tâm không lay động, không lười mỏi ! Điều này, nếu chúng ta hiểu theo nghĩa thông thường th́ không thấy được chân lư, học kinh Đại thừa nếu kẹt trên văn tự th́ không thể hiểu nổi. Ở đây, Phật v́ Bồ-tát Diệu Quang nói kinh “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”, mà kinh Diệu Pháp Liên Hoa là chỉ cho Tri kiến Phật (Phật tánh) có sẵn nơi mỗi chúng sanh. Tri kiến Phật không h́nh, không tướng, không sanh, không diệt, vượt ngoài không gian và thời gian, Phật nói kinh Pháp Hoa để chỉ Tri kiến Phật, th́ thời gian và không gian đối với Tri kiến Phật là vô nghĩa; nên nói tâm bất động, thân không ăn uống, ngồi lâu cũng chẳng lười mỏi. Nhập được Diệu Pháp Liên Hoa là thể nhập Tri kiến Phật của chính ḿnh. Tri kiến Phật vốn không h́nh tướng, không sanh diệt th́ dựa vào đâu để phân biệt thời gian lâu mau, không gian rộng hẹp ? Do đó nói sáu mươi tiểu kiếp thấy như trong khoảng bữa ăn; v́ vậy các thiền sư thường nói “nhứt niệm vạn niên”, một niệm bằng vạn năm hay vạn năm bằng một niệm là để nói lên ư nghĩa dung nhiếp của pháp tánh. 26. CHÁNH VĂN : * Đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói kinh đó rồi, liền ở trong chúng ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, và Trời, Người, A-tu-la, mà tuyên rằng: “Hôm nay vào nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô dư Niết-bàn.” GIẢNG : Tại sao đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh sau khi nói kinh Pháp Hoa xong, liền tuyên bố giữa đêm sẽ vào vô dư Niết-bàn ? Đây tôi ví dụ như chúng ta có một nghề thiện xảo, muốn để lại cho đời. Nhưng người đang học chưa đủ khả năng để được truyền tuyệt kỹ. Khi thấy họ đủ khả năng nhận thọ, mới trao dạy hết nghề. Và khi đă trao dạy tận t́nh rồi th́ coi như hết bổn phận. Bổn phận đă hết ở lại là thừa ! Cũng vậy bản hoài của chư Phật ra đời cốt là làm sao chỉ cho chúng sanh nhận được Tri kiến Phật của chính ḿnh. Mà nhận được Tri kiến Phật đó là cái nhân tu, dẹp sạch vô minh vọng tưởng, Tri kiến Phật thường hiện tiền, đó là quả Phật. Mục đích cứu kính mà Phật muốn đưa chúng sanh đến, đó là thể nhập Tri kiến Phật. Nhưng v́ quá cao, nói ra sợ người nghe không hiểu, hoang mang nên Phật mới nói Tam thừa. V́ Thanh văn nói Tứ đế, v́ Duyên giác nói Thập nhị nhân duyên, v́ Bồ-tát nói pháp Lục độ ba-la-mật. Mục tiêu cuối cùng mà Phật muốn đưa chúng sanh đến, đó là Phật thừa, tức ngộ nhập Tri kiến Phật mà kinh Pháp Hoa chỉ dạy. Sở dĩ từ trước Phật muốn chỉ mà chưa chỉ được, v́ là pháp khó hiểu khó tin; đợi khi căn cơ của chúng sanh thuần thục th́ Ngài nói, và khi nói xong Phật thừa, chúng sanh đă nhận biết được, th́ bản nguyện đă viên măn nên Ngài nhập Niết-bàn. 27. CHÁNH VĂN : Khi đó có vị Bồ-tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh liền thọ kư cho, bảo các Tỳ-kheo rằng: “Ông Đức Tạng Bồ-tát này kế đây sẽ thành Phật, hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng, Chánh đẳng Chánh giác.” Đức Phật thọ kư xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô dư Niết-bàn. GIẢNG : Tại sao Phật nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa với Bồ-tát Diệu Quang mà lại thọ kư cho Bồ-tát Đức Tạng ? Bồ-tát Diệu Quang là Trí căn bản, mà Trí căn bản tức là Phật tánh tṛn sáng đâu cần thọ kư. C̣n Bồ-tát Đức Tạng là chỉ cho kho công đức khi đă tu hành viên măn tức là Sai biệt trí, tương tự như Bồ-tát Phổ Hiền giáo hóa làm lợi ích cho chúng sanh, khi đầy đủ công đức rồi th́ thành Phật. V́ vậy Phật nói pháp là phải nói với Bồ-tát Diệu Quang và khi thọ kư th́ phải thọ kư cho Bồ-tát Đức Tạng. 28. CHÁNH VĂN : * Sau khi đức Phật diệt độ, Diệu Quang Bồ-tát tŕ kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” trải tám mươi tiểu kiếp v́ người mà diễn nói. *Tám người con của Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh đều học với ngài Diệu Quang, ngài Diệu Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị vương tử đó cúng dường vô lượng trăm ngh́n muôn ức đức Phật đều thành Phật đạo. Vị thành Phật rốt sau hết, hiệu là Nhiên Đăng. GIẢNG : Sau khi Phật diệt độ, Bồ-tát Diệu Quang tŕ kinh “Diệu Pháp Liên Hoa” và v́ người diễn nói. Trong số người được Ngài giáo hóa có tám vị vương tử con của Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh. Tám vương tử có đủ ḷng tin đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và đều được thành Phật, vị rốt sau thành Phật hiệu là Nhiên Đăng. Nhiên là đốt, Đăng là đèn. Nhiên Đăng là thắp đèn phát ra ánh sáng; ánh sáng đó phát ra từ Trí căn bản hướng dẫn tám thức, rũ sạch vọng tưởng phân biệt, trở nên trí tuệ tṛn sáng gọi là thành Phật. 29. CHÁNH VĂN : * Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên Cầu Danh, người này tham ưa danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất, nên gọi là Cầu Danh, người này cũng do có trồng các nhân duyên căn lành nên được gặp vô lượng trăm ngàn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính, tôn trọng khen ngợi. *Di-lặc nên biết ! Lúc đó Diệu Quang Bồ-tát đâu phải người nào lạ, chính là ta đấy. C̣n Cầu Danh Bồ-tát là Ngài đấy. Nay thấy điềm lành này, cùng với xưa không khác, cho nên ta xét nghĩ, hôm nay đức Phật Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên “Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm”. GIẢNG : Phần kết thúc khiến cho chúng ta có những nghi vấn: * Bồ-tát Diệu Quang từ trước đă giáo hóa cho bao nhiêu Bồ-tát thành Phật rồi, mà sao bây giờ Ngài vẫn c̣n làm Bồ-tát hiệu là Văn-thù ? * Trong hội Pháp Hoa, Phật thọ kư cho vô số Bồ-tát thành Phật, thậm chí Bồ-tát Cầu Danh tham ưa danh lợi, tu hành lôi thôi mà cũng được thọ kư cho sau này sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc. Tại sao Phật không thọ kư cho Bồ-tát Văn-thù ? Kinh Lăng-già có nêu lên năm pháp là danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như. Nếu c̣n vọng tưởng tức là c̣n thức phân biệt; mà Bồ-tát Di-lặc tượng trưng cho thức phân biệt, phân biệt danh, phân biệt tướng nên không thuộc kinh, được gọi là Cầu Danh. Tuy cầu danh, nhưng nhờ có duyên lành nên gặp Phật và tu hành. Khi tu biết rơ vọng tưởng không thật, đó là chánh trí, đă có chánh trí th́ trở lại như như tức thành Phật. Mặc dầu Bồ-tát Cầu Danh (thức) chạy theo danh tướng bên ngoài, nhưng nếu khéo chuyển th́ sẽ thành Trí, do đó mà được thọ kư thành Phật. C̣n Bồ-tát Văn-thù tượng trưng cho Trí căn bản, mà Trí căn bản là tánh Phật, đă là tánh Phật c̣n thọ kư thành Phật ǵ nữa ? Ư nghĩa tổng quát ở đây nêu bày cho chúng ta thấy rằng tất cả mọi chúng sanh đều có sẵn tánh giác, nhờ khéo tu, chuyển thức thành trí, công hạnh độ sanh viên măn th́ thành Phật. Đó là tượng trưng cho Trí căn bản và Trí sai biệt. Trí sai biệt chỉ khi thành Phật mới có, c̣n Trí căn bản mọi người ai cũng có sẵn. Căn cứ vào đâu mà nói mỗi người ai cũng có Trí căn bản ? Ví dụ có một nắm bổi đang bốc khói, chúng ta biết ngay dưới nắm bổi đó có lửa, hoặc là tàn thuốc hay là cục than. Cũng vậy, nếu chúng ta không có Trí căn bản th́ động cơ nào thúc đẩy chúng ta phát tâm Bồ-đề cầu giác ngộ, xuất gia học đạo ? Phát tâm Bồ-đề là phát tâm giác, mà phát tâm giác là phải có sẵn động cơ giác là Trí căn bản. Cũng như nắm bổi bốc khói là do có lửa sẵn mới phát cháy. Tại sao ai cũng có Trí căn bản mà người được thôi thúc phát Bồ-đề tâm đi tu, người th́ không phát tâm tu hành ? Ví dụ đêm rằm có trăng sáng, nhưng trời chuyển mưa, mây đen kịt, lúc đó trăng vẫn sáng, nhưng v́ mây che nên chúng ta thấy bầu trời tối. Nếu chỗ nào mây thưa th́ thấy được ánh trăng mờ mờ. Cũng vậy, ai cũng có Trí căn bản, nhưng v́ vô minh phiền năo quá dày nên nó thôi thúc không nổi. Với người vô minh phiền năo hơi mỏng, nó liền có công năng hiện ra. Chẳng hạn như những người tu, vô minh có phần mỏng nên Trí căn bản mới thúc đẩy phát tâm cầu giác ngộ giải thoát mà đi tu. Nếu không có động cơ thúc đẩy dễ ǵ kham chịu chay lạt, thức khuya, dậy sớm sống phạm hạnh để tu hành ! Kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập Pháp Giới, người mà thôi thúc khuyến khích Thiện Tài đồng tử đi tham vấn năm mươi ba vị thiện tri thức là Bồ-tát Văn-thù. Khi tham vấn đến vị cuối cùng th́ gặp Bồ-tát Phổ Hiền, và ngay lúc đó Bồ-tát Văn-thù đồng hiện ra nữa. Như vậy, để thấy kinh Pháp Hoa cũng như kinh Hoa Nghiêm có chỗ gặp nhau là Trí căn bản thúc đẩy người phát tâm cầu giác ngộ, đi tu dẹp hết vô minh phiền năo rồi mới thành Phật. Do đó mà nói Bồ-tát Diệu Quang (Trí căn bản) là thầy của chư Phật, dạy các Bồ-tát tu thành Phật hết mà chính Ngài chưa thành. Nếu không thông lư căn bản này th́ không dễ ǵ phá được cái nghi trên và biết phương hướng để tu hành. 30. CHÁNH VĂN : Bấy giờ, ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: * Ta nhớ thuở quá khứ, Vô lượng vô số kiếp Có Phật Nhân Trung Tôn Hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh Đức Thế Tôn nói pháp Độ vô lượng chúng sanh, Vô số ức Bồ-tát Khiến vào Trí huệ Phật. * Khi Phật chưa xuất gia Có sanh tám vương tử Thấy Đại Thánh xuất gia Cũng theo tu phạm hạnh. GIẢNG : Bồ-tát Văn-thù lặp lại lời giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc và hội chúng là, thời quá khứ có Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh nói pháp độ vô số chúng được thành Phật. Và tám vương tử thấy Ngài đi tu cũng xuất gia theo Ngài. 31. CHÁNH VĂN : * Phật nói kinh Đại thừa Tên là “Vô Lượng Nghĩa” Ở trong hàng đại chúng Mà v́ rộng tỏ bày. Phật nói kinh ấy rồi Liền ở trong pháp ṭa Xếp bằng nhập chánh định Tên “Vô Lượng Nghĩa Xứ” Trời rưới hoa Mạn-đà Trống trời tự nhiên vang Các trời, rồng, quỉ, thần Cúng dường đấng Nhân Tôn Tất cả các cơi Phật Tức thời vang động lớn. GIẢNG : Sau khi Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa cho đại chúng nghe xong, Ngài liền nhập chánh định và được trời, rồng, quỉ, thần cúng dường hoa, nhạc. 32. CHÁNH VĂN : * Phật phóng sáng giữa mày Hiện các việc hi hữu Ánh sáng chiếu phương Đông Muôn tám ngh́n cơi Phật Bày sanh tử nghiệp báo Của tất cả chúng sanh Lại thấy các cơi Phật Dùng các báu trang nghiêm Màu lưu ly, pha lê Đây bởi Phật quang soi * Lại thấy những trời, người Rồng, thần, chúng dạ-xoa Càn-thát, khẩn-na-la Đều cúng dường Phật ḿnh. GIẢNG : Nương hào quang của Phật, Bồ-tát Văn-thù thấy nghiệp báo của các loài chúng sanh, những vật báu trang nghiêm cơi Phật và thấy trời, người, rồng... cúng dường Phật ḿnh ở một muôn tám ngh́n cơi Phật. 33. CHÁNH VĂN : * Lại thấy các Như Lai Tự nhiên thành Phật đạo Màu thân như núi vàng Đoan nghiêm rất đẹp mầu Như trong lưu ly sạch Hiện ra tượng chân kim Thế Tôn trong đại chúng Dạy nói nghĩa thâm diệu. GIẢNG : Bồ-tát Văn-thù thấy các Như Lai tự nhiên thành Phật có thân tướng đoan nghiêm, nói pháp thâm diệu. 34. CHÁNH VĂN : * Mỗi mỗi các cơi Phật Chúng Thanh văn vô số Nhân Phật quang soi sáng Đều thấy đại chúng kia Hoặc có các Tỳ-kheo Ở tại trong núi rừng Tinh tấn giữ tịnh giới Dường như ǵn châu sáng. * Lại thấy các Bồ-tát Bố thí nhẫn nhục thảy Số đông như Hằng sa Đây bởi sáng Phật soi. Lại thấy hàng Bồ-tát Sâu vào các thiền định Thân tâm lặng chẳng động Để cầu đạo Vô thượng. Lại thấy các Bồ-tát Rơ tướng pháp tịch diệt Đều ở tại nước ḿnh Nói pháp cầu Phật đạo. GIẢNG : Bồ-tát Văn-thù thấy ở mỗi cơi Phật có hàng Thanh văn, Tỳ-kheo ở chỗ vắng tu tịnh hạnh, Bồ-tát tu bố thí, thiền định, nói pháp để cầu Phật đạo. 35. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ bốn bộ chúng Thấy Phật Nhựt Nguyệt Đăng Hiện sức thần thông lớn Tâm kia đều vui mừng Mỗi người tự hỏi nhau Việc này nhân duyên ǵ ? GIẢNG : Tứ chúng thấy Phật hiện thần thông, vừa vui mừng vừa nghi vấn. 36. CHÁNH VĂN : * Đấng của trời, người thờ Vừa từ chánh định dậy Khen Diệu Quang Bồ-tát Ông là mắt của đời Mọi người đều tin về Hay vưng giữ tạng pháp Như pháp của ta nói Chỉ ông chứng biết được Đức Phật đă ngợi khen Cho Diệu Quang vui mừng Liền nói kinh Pháp Hoa Trải sáu mươi tiểu kiếp Chẳng rời chỗ ngồi ấy Ngài Diệu Quang pháp sư Trọn đều hay thọ tŕ Pháp thượng diệu của Phật. * Phật nói kinh Pháp Hoa Cho chúng vui mừng rồi Liền chính trong ngày đó Bảo hàng chúng trời, người Các pháp “Nghĩa thật tướng” Đă v́ các ông nói Nay ta giữa đêm này Sẽ vào cơi Niết-bàn Phải một ḷng tinh tấn Rời các sự buông lung Các Phật rất khó gặp Ức kiếp được một lần. GIẢNG : Phật Nhựt Nguyệt Đăng Minh xuất định, khen Bồ-tát Diệu Quang có khả năng thọ tŕ diệu pháp cao thượng, nên Ngài v́ Bồ-tát Diệu Quang mà nói kinh Pháp Hoa. Và sau khi nói kinh xong, Phật cho biết là sẽ nhập Niết-bàn, Ngài khuyên chúng nên tinh tấn tu hành, chớ có buông lung. 37. CHÁNH VĂN : * Các con của Phật thảy Nghe Phật sắp nhập diệt Thảy đều ḷng buồn khổ Phật sao gấp diệt vậy ? Đấng Thánh chúa Pháp vương An ủi vô lượng chúng: Nếu lúc ta diệt độ Các ông chớ lo sợ Đức Tạng Bồ-tát đây Tâm đă được thông thấu Nơi vô lậu thiệt tướng Kế đây sẽ thành Phật Tên hiệu là Tịnh Thân Cũng độ vô lượng chúng. GIẢNG : Tứ chúng nghe Phật sắp Niết-bàn, lấy làm buồn khổ. Phật an ủi là sau khi Phật diệt độ, có Bồ-tát Đức Tạng tâm thấu suốt được thật tướng, sẽ thành Phật tiếp tục giáo hóa chúng sanh. 38. CHÁNH VĂN : * Đêm đó Phật diệt độ Như củi hết, lửa tắt Chia phân các xá-lợi Mà xây vô lượng tháp Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni Số đông như Hằng sa Lại càng thêm tinh tấn Để cầu đạo Vô thượng. GIẢNG : Phật diệt độ, xá-lợi Phật được xây tháp để cúng dường, chúng càng thêm tinh tấn cầu đạo Vô thượng. 39. CHÁNH VĂN : * Diệu Quang pháp sư ấy Vưng giữ Phật pháp tạng Trong tám mươi tiểu kiếp Rộng nói kinh Pháp Hoa. Tám vị vương tử đó Được Diệu Quang dạy bảo Vững bền đạo Vô thượng Sẽ thấy vô số Phật Cúng dường các Phật xong Thuận theo tu đại đạo Nối nhau được thành Phật Chuyển thứ thọ kư nhau Đấng Phật rốt sau cả Hiệu là Phật Nhiên Đăng Đạo sư của thiên tiên Độ thoát vô lượng chúng. GIẢNG : Bồ-tát Diệu Quang vâng giữ Pháp tạng Phật, nói kinh Pháp Hoa độ cho vô số chúng, trong đó có tám vương tử đầy đủ ḷng tin với đạo Vô thượng và sẽ được thành Phật, vị rốt sau hiệu Nhiên Đăng. 40. CHÁNH VĂN : * Diệu Quang pháp sư đó Có một người đệ tử Tâm thường cưu biếng trễ Tham ưa nơi danh lợi Cầu danh lợi không nhàm Thường đến nhà sang giàu Rời bỏ việc tụng học Bỏ quên không thông thuộc V́ bởi nhân duyên ấy Nên gọi là Cầu Danh Cũng tu các nghiệp lành Được thấy vô số Phật Cúng dường các đức Phật Thuận theo tu đại đạo Đủ sáu Ba-la-mật Nay gặp đấng Thích-ca Sau đây sẽ thành Phật Hiệu rằng: Phật Di-lặc Rộng độ hàng chúng sanh Số đông đến vô lượng. GIẢNG : Bồ-tát Văn-thù nhắc lại chuyện xưa, Bồ-tát Diệu Quang có người đệ tử tham ưa danh lợi tên là Cầu Danh, nhờ có duyên lành nên gặp chư Phật, tu pháp Lục độ, nay gặp Phật Thích-ca giáo hóa cũng sẽ thành Phật. 41. CHÁNH VĂN : * Sau Phật kia diệt độ Lười biếng đó là Ngài C̣n Diệu Quang pháp sư Nay thời chính là ta. Ta thấy Phật Đăng Minh Điềm sáng trước như thế Cho nên biết rằng nay Phật muốn nói “Pháp Hoa”. Tướng nay như điềm xưa Là phương tiện của Phật Nay Phật phóng ánh sáng Giúp bày nghĩa thiệt tướng Các người nay nên biết Chấp tay một ḷng chờ Phật sẽ rưới nước pháp Đầy đủ người cầu đạo Các người cầu ba thừa Nếu có chỗ nghi hối Phật sẽ dứt trừ cho Khiến hết không c̣n thừa. GIẢNG : Bồ-tát Di-lặc trong đời này tức là Cầu Danh thuở xưa và Bồ-tát Diệu Quang thuở xưa là Bồ-tát Văn-thù thời nay. Bồ-tát Văn-thù bảo cho hội chúng biết, nay Phật hiện những điềm lành giống như thuở xưa là Phật sắp nói kinh Pháp Hoa, chúng nên chờ để nghe. Đặc biệt là hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát sẽ được dứt trừ nghi mà thành tựu Phật thừa. Chúng ta thấy ở phẩm này nêu lên các vị Bồ-tát tượng trưng. Mở đầu là Bồ-tát Di-lặc nghi vấn những hiện tướng kỳ diệu mà Phật hiện ra trước khi nói kinh Vô Lượng Nghĩa và được Bồ-tát Văn-thù giải đáp. Như vậy để thấy kinh Pháp Hoa chỉ thẳng Tri kiến Phật (Phật tánh) của mỗi người, nếu dùng Thức phân biệt th́ không thể thấy biết mà phải nhờ Trí căn bản mới nhận được. Đoạn sau Bồ-tát Văn-thù giải nghi cho Bồ-tát Di-lặc bằng một câu chuyện tiền kiếp: Cầu Danh ngày xưa chính là Bồ-tát Di-lặc ngày nay và Bồ-tát Diệu Quang ngày xưa dạy cho các Bồ-tát thành Phật mà Ngài không được thọ kư thành Phật chính là Bồ-tát Văn-thù ngày nay. Văn Thù là Trí căn bản thúc đẩy con người phát tâm Bồ-đề, c̣n Cầu Danh là thức, nếu khéo tu đúng theo lời Phật dạy th́ thức cũng chuyển thành trí. Khi mê, vọng thức chạy theo danh tướng; khi tỉnh giác, chánh trí hiện, không chạy theo danh tướng liền trở thành như như. Cho nên ngài Cầu Danh được thọ kư sẽ thành Phật hiệu là Di-lặc sau Phật Thích-ca. Đó là mục tiêu chánh yếu mà chư Phật ra đời để dạy cho chúng ta. Phẩm này Phật chỉ dùng h́nh ảnh biểu trưng để hiển bày lư chân thật tuyệt đối là Tri kiến Phật, chớ không dùng ngôn ngữ để diễn tả. V́ vậy chúng ta chớ kẹt trên ngôn ngữ mà hiểu kinh Pháp Hoa. ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]