DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 2: PHƯƠNG TIỆN Phương tiện là tùy theo sở cầu trong mỗi giai đoạn của người mà tạm thời làm lợi ích. Nói cách khác, phương tiện là từng bậc thang đưa người đi từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ chỗ tạm đến chỗ chân thật rốt ráo. Trí tuệ Phật viên măn nên có vô số phương tiện hướng dẫn chúng sanh từ mê tới giác là chỗ cứu kính chân thật. Chúng ta thấy ở phẩm Tựa, Phật nhập định, hiện tướng lạ, không nói một lời... để thính chúng nương tướng lạ đó mà ngầm nhận ra thâm ư Phật muốn chỉ. Tới phẩm Phương Tiện, Ngài mới bắt đầu dùng ngôn giáo. Tôi đi xa hơn một chút, theo tinh thần phán giáo của ngài Thiên Thai th́ kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm là hai bộ kinh được nói ở đầu và cuối đời đức Phật. Ngài ví dụ: Mặt trời khi mới mọc, ánh sáng chiếu thẳng trên đỉnh núi và khi sắp lặn, ánh sáng cũng chiếu thẳng trên đỉnh núi. Khi Phật mới thành đạo nói kinh Hoa Nghiêm và sắp Niết-bàn nói kinh Pháp Hoa. Hai kinh được nói ở hai thời điểm khác nhau mà chỉ thú không hai. Kinh Hoa Nghiêm ở phẩm Nhập Pháp Giới được coi là tối quan trọng. Trong phẩm này, Thiện Tài đồng tử được Bồ-tát Văn-thù khuyến khích đi tham vấn năm mươi ba vị thiện hữu tri thức. Đầu tiên Thiện Tài đến ngọn Diệu Phong để tham vấn Tỳ-kheo Đức Vân. Nhưng lên tận đỉnh Diệu Phong, Thiện Tài không gặp Tỳ-kheo Đức Vân. Lúc trở xuống th́ gặp Ngài ở ngọn Biệt Phong, chừng đó mới đàm đạo tham vấn. Cũng như kinh Pháp Hoa, mở đầu phẩm Tựa, đức Phật nhập định hiện tướng lạ, không nói. Qua phẩm Phương Tiện Phật xả định, rồi tán thán pháp Phật vi diệu nhiệm mầu, khó nói, khó hiểu, khó tin, chừng đó mới có ngôn ngữ. Như vậy, kinh Hoa Nghiêm cũng như kinh Pháp Hoa đều nói rằng chỗ cứu kính chân thật (Pháp thân hay Tri kiến Phật) th́ bặt ngôn ngữ, bởi nói năng không thể hiển bày được. V́ vậy phẩm này Phật xuất định, dùng ngôn ngữ nói cho hội chúng nghe để d́u dắt chúng sanh từ thấp đến cao nên gọi là Phương tiện. 1. CHÁNH VĂN : *Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trí huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả hàng Thanh văn cùng Bích-chi Phật đều không biết được. V́ sao ? Phật đă từng gần gũi trăm ngh́n muôn ức vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dơng mănh, tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ư thú khó hiểu. Xá-lợi-phất ! Từ ta thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện d́u dắt chúng sanh, làm cho xa ĺa ḷng chấp. V́ sao ? Đức Như Lai đă đầy đủ phương tiện, Tri kiến và Ba-la-mật. Xá-lợi-phất ! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại, lực vô sở úy, thiền định, giải thoát tam-muội, đều sâu vào không ngằn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có. Xá-lợi-phất ! Như Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm dịu vui đẹp ḷng chúng. Xá-lợi-phất ! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên. GIẢNG : Phẩm Tựa, đức Phật hiện điềm lành rồi nhập chánh định “Vô Lượng Nghĩa Xứ”, im lặng không nói. Nay thấy căn cơ của thính chúng đă thuần thục, Phật xuất định giảng nói. Trước hết, Ngài tán thán ca ngợi với tôn giả Xá-lợi-phất là Trí tuệ của chư Phật sâu xa vô lượng nên khó nói, khó hiểu, khó vào. V́ vậy mà hàng Thanh văn, Bích-chi Phật không thể hiểu được. Sở dĩ đức Phật được trí tuệ sâu rộng mà tất cả người khác không thể biết được, là v́ Ngài đă từng gần gũi vô số đức Phật, tu vô lượng pháp, dơng mănh, tinh tấn, tiếng tốt đồn khắp... Nên Ngài mới được pháp sâu rộng chưa từng có và tùy theo thời cơ mà đem chỉ dạy ư thú sâu xa khó hiểu đó cho chúng sanh. Chúng ta thấy rơ Phật nói lên phương tiện Ngài sử dụng. Từ khi thành Phật, Như Lai có đầy đủ phương tiện, thấy biết tận nguồn ngọn tất cả pháp nên Ngài đă dùng nhân duyên, thí dụ, ngôn giáo và vô số phương tiện khác để d́u dắt chúng sanh, khiến cho họ xa ĺa kiến chấp. Phật nói rằng Tri kiến Phật rộng lớn sâu xa, không thể đo lường được nên gọi là đức vô lượng, không có cái ǵ làm chướng ngại được nên gọi là vô ngại, về sức th́ được vô sở úy, tức là không sợ sệt, được thiền định, được giải thoát rất sâu không ngằn mé. Tức là Trí tuệ Phật ở thế gian chưa từng có. V́ tất cả pháp thế gian có đều là tương đối, đă là tương đối th́ sinh diệt. Trí tuệ Phật là cái không sanh không diệt nên nói thế gian chưa từng có. 2. CHÁNH VĂN : *Thôi Xá-lợi-phất ! Chẳng cần nói nữa. V́ sao? V́ pháp khó hiểu ít có thứ nhứt mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy.
GIẢNG : Tại sao đức Phật đang khen ngợi Trí tuệ của chư Phật, tới đây Ngài lại không muốn nói, bảo: “Thôi, Xá-lợi-phất, chẳng cần nói nữa”. V́ lư do ǵ ? V́ pháp khó nói, khó hiểu, khó tin, chỉ Phật với Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp. C̣n hàng Bồ-tát, Duyên giác, La-hán đều không thể thấy như Phật. Bởi tŕnh độ chư Phật ngang nhau mới thấy biết như nhau; c̣n phàm phu chúng ta, mọi thấy biết đều sai lầm. Ví dụ như cái thân năm uẩn này thấy nó là thật ngă, là của ta... Với trí Bát-nhă thấy thân người do năm ấm giả hợp mà thành, không có chủ thể cố định. Bởi không có chủ thể cố định nên nói là vô ngă, là tạm bợ, huyễn hóa. Các pháp ở thế gian, với người mê th́ thấy thế này, c̣n người ngộ lại thấy khác. Nhưng ngộ cũng tùy theo tŕnh độ, như Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát mỗi chỗ ngộ đều khác nhau. Nhưng đến cái ngộ của Phật mới thấy tột cùng, dung hợp tất cả không c̣n sai biệt. V́ thế ở đây nói chỉ có Phật với Phật mới thấy các pháp đúng như thật thể của nó, cho nên nói tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt ráo như vậy. Thế nào là tướng, thế nào là tánh ? Phàm, vạn pháp trên thế gian này được nh́n qua hai mặt tướng và tánh. Ví dụ: Lửa là một pháp, khi cháy ánh lửa hiện ra các màu hoặc đỏ, hoặc xanh, hoặc cam; ta thấy tướng trạng màu sắc của lửa có sai khác, nhưng tánh nóng của lửa không khác, vẫn là nóng; thế nên, tướng lửa có đổi thay mà tánh lửa th́ không biến dịch. Thế nào là thể lực... quả báo ? Phàm tất cả mọi sự vật đều có cái thể chung, chẳng hạn toàn thân con người gọi là “thể”; do thân này hoạt động có tác dụng có sức mạnh gọi là “lực”; do hoạt động tạo “tác” nên có nghiệp; bởi có tạo tác nên mới thành “nhân”; nhân hội đủ “duyên” th́ thành “quả”; mà quả kết tựu đúng như nhân đă tạo gọi là “báo”, rơ ràng “trước sau rốt ráo” như vậy không sai biệt. Đó là đứng trên mặt tướng dụng của các pháp nh́n th́ thấy rơ ràng như vậy. Nếu nh́n toàn thân con người bằng trí tuệ Bát-nhă th́ đầu, ḿnh, tay, chân, mắt, tai... tất cả đều do tứ đại duyên hợp mà có giả tướng ấy, không một bộ phận nào trong thân là tướng chân thật. Nên dù nói tướng, nói tánh, nói thể, nói lực, nói tác, nói nhân, nói duyên, nói quả, nói báo, nói rốt ráo, tất cả đều là ngôn ngữ giả lặp. Đă là ngôn ngữ giả lặp th́ tự tánh nó là không, bởi tự tánh là không nên nói tịch diệt. Nếu nh́n toàn thân con người với tâm nhất như không động, không phân biệt th́ thấy con người là con người. Hoặc mắt thấy sắc, sắc vẫn là sắc; tai nghe âm thanh, âm thanh vẫn là âm thanh; hương, vị, xúc, pháp cũng như vậy, không phân tích chia chẻ. Bởi nh́n tất cả pháp ở thế gian này với tâm như như th́ thấy các pháp là như, không có chút sai biệt. Ví dụ có một thoi vàng trên bàn, mọi người đều thấy thoi vàng là thoi vàng, không thêm một niệm nào khác th́ nó là như. Nếu thấy thoi vàng liền cho thoi vàng quí có giá trị bạc triệu th́ ḷng tham dấy khởi, nhiều niệm bất chánh theo đó mà sanh... Vậy, nếu tâm như th́ mọi cảnh đều như. Trong kinh Pháp Bảo Đàn, lúc Lục tổ đến chùa Ấn Tông với h́nh thức cư sĩ, có hai ông sa-di đứng trước chùa dưới cây phướn căi nhau: - Đố huynh cái ǵ động ? - Gió động. - Phướn động. Người nói gió động, người nói phướn động, hai người căi nhau không ngă lẽ. Lục tổ nói: Tâm nhân giả động ! Sở dĩ chúng ta căi nhau hoài là tại tâm chúng ta không nhất như, không thấy các pháp vốn là như vậy. Cảnh vật đối với tâm người đạt đạo giống như mặt gương sáng, có người th́ hiện ảnh người, có vật th́ hiện ảnh vật, có cái nào hiện cái nấy rơ ràng không tạp loạn. Đó là do tâm như nên mọi cảnh đều như. Nếu tâm dấy niệm phân biệt th́ thấy người thấy vật sai khác, rồi tranh chấp nhau sanh vô số khổ đau phiền lụy. Người thấy tất cả pháp như vậy là người hằng sống với Tri kiến Phật, đó là ư nghĩa Thập như thị. Nếu tâm nhất như th́ cảnh như. Cảnh như do tâm như. Đồng nghĩa với tâm an th́ cảnh cũng an, tâm bất an th́ cảnh cũng bất an, đó là một lẽ thực mà ít người chấp nhận. 3. CHÁNH VĂN : Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: *Đấng Thế Hùng khó lường Các trời cùng người đời Tất cả loài chúng sanh Không ai hiểu được Phật Trí lực, vô sở úy. Giải thoát các tam-muội Các pháp khác của Phật Không ai so lường được. Vốn từ vô số Phật Đầy đủ tu các đạo Pháp nhiệm mầu rất sâu Khó thấy khó rơ được Trong vô lượng ức kiếp Tu các đạo đó rồi Đạo tràng được chứng quả Ta đều đă thấy biết. Quả báo lớn như vậy Các món tánh tướng nghĩa Ta cùng mười phương Phật Mới biết được việc đó. GIẢNG : Phật lặp lại ư trước, chỗ đạt được của Phật, các loài chúng sanh từ trời, người... không ai có thể hiểu và so lường được. Sở dĩ Ngài được pháp như vậy là do Ngài tu đủ các pháp mầu sâu xa trong vô lượng kiếp, rồi chứng quả tại đạo tràng nên mới thấu suốt như vậy. V́ thế tánh, tướng, nghĩa của pháp đó chỉ có Phật với Phật ở mười phương mới biết được. 4. CHÁNH VĂN : * Pháp đó không chỉ được Vắng bặt tướng nói năng Các loài chúng sanh khác Không có ai hiểu được Trừ các chúng Bồ-tát Người sức tin bền chặt Các hàng đệ tử Phật Từng cúng dường các Phật Tất cả lậu đă hết Trụ thân rốt sau này Các hạng người vậy thảy Sức họ không kham được. Giả sử đầy thế gian Đều như Xá-lợi-phất Cùng suy chung so lường Chẳng lường được Phật trí Chánh sử khắp mười phương Đều như Xá-lợi-phất Và các đệ tử khác Cũng đầy mười phương cơi Cùng suy chung so lường Cũng lại chẳng biết được. Bậc Duyên giác trí lanh Vô lậu thân rốt sau Cũng đầy mười phương cơi Số đông như rừng tre, Hạng này chung một ḷng Trong vô lượng ức kiếp Muốn xét Phật thật trí Chẳng biết được chút phần Bồ-tát mới phát tâm Cúng dường vô số Phật Lại hay khéo nói pháp Đông đầy mười phương cơi Như lúa, mè, tre, lau Một ḷng dùng trí mầu Trải số kiếp Hằng sa Thảy đều chung suy lường Chẳng biết được trí Phật Hàng bất thối Bồ-tát Số đông như Hằng sa Một ḷng chung suy cầu Cũng lại chẳng hiểu được. GIẢNG : Pháp mà Phật chứng th́ không ngôn ngữ nào có thể diễn tả được, nên nói “vắng bặt tướng nói năng”. Trong thiền sử Trung Hoa, có thiền sư Đả Địa bên Ngài luôn luôn có cây gậy, nếu có thiền khách đến tham vấn, bất cứ hỏi câu ǵ, Ngài đều cầm gậy đập xuống đất một cái rồi thôi, không nói ǵ hết. Một hôm có vị tăng lén lấy cây gậy đem giấu, rồi mới đến thưa: “Bạch Ḥa thượng thế nào là Đạo?” Ngài đưa tay lấy gậy, gậy không có, Ngài há miệng, không nói câu nào ! Thoáng nghe qua, chúng ta rất ngạc nhiên và thắc mắc sao Ngài dốt cho tới không nói được một câu, hay miệng lưỡi Ngài có tật không nói được. Chính v́ Tri kiến Phật là cái mà ngôn ngữ không thể diễn tả được, nếu diễn tả bằng lời được th́ pháp đó là pháp đối đăi của thế gian. Cho nên, để khai thị pháp tuyệt đối (Tri kiến Phật), Ngài chỉ đập đất hoặc há miệng mà không nói. Qua pháp thoại này, tôi b́nh rằng: “Muốn thấy mặt nước hồ phẳng, trước khi cá ăn móng.” Cũng vậy, muốn thấy được thể thanh tịnh, bặt tướng nói năng th́ trước khi dấy niệm phát ra ngôn ngữ, mới thấy được cái thể ấy. V́ vừa dấy niệm có ngôn ngữ là tâm động loạn không thể thấy được. Thế nên, hàng chúng sanh không ai hiểu nổi Tri kiến Phật, trừ hàng Bồ-tát có ḷng tin vững chắc mới có thể thấu hiểu. Đệ tử Phật như hàng A-la-hán đối với Tri kiến Phật cũng không kham được. Giả sử tất cả người ở thế gian này, mỗi người trí tuệ siêu tuyệt bậc nhất như Xá-lợi-phất, hợp lại để so lường, nghĩ về Tri kiến Phật cũng không thể hiểu được. Hoặc người ở khắp mười phương thế giới, ai cũng có trí tuệ siêu tuyệt như trí tuệ của Xá-lợi-phất, và hàng đệ tử khác ở khắp mười phương, chung họp tất cả trí tuệ đó để suy lường cũng không biết được Tri kiến Phật. Tại sao vậy ? V́ c̣n so lường. Trí tuệ Phật là chỗ tuyệt ngôn tuyệt lự, nếu c̣n đem trí để suy lường, dù trí có nhiều bao nhiêu cũng không hiểu nổi. Hàng Duyên giác trí lanh lợi, đầy mười phương hợp lại nhiều như rừng tre, trải qua thời gian vô lượng kiếp muốn biết trí tuệ Phật cũng không có phần, v́ suy lường nên không biết được. Cho đến hàng Bồ-tát mới phát tâm ở mười phương số nhiều như lúa mè, như tre lau dùng hết trí tuệ của ḿnh, trải hằng sa kiếp để suy lường cũng không biết Trí tuệ Phật. Kế nữa là hàng Bất thối Bồ-tát, nhiều như số cát sông Hằng một ḷng chung suy nghĩ cũng không thể biết Trí tuệ Phật. Chúng ta thấy, đối với Trí tuệ Phật dù cho bất cứ hạng người nào từ A-la-hán đến Duyên giác, đến Bồ-tát mới phát tâm, đến Bồ-tát bất thối chuyển, nếu c̣n dùng trí suy cầu t́m hiểu đều không thể hiểu được. Như vậy, muốn biết Trí tuệ Phật th́ tâm phải nhất như, khi tâm như rồi th́ cảnh cũng như mới hợp với Trí tuệ Phật. 5. CHÁNH VĂN : *Lại bảo Xá-lợi-phất Pháp nhiệm mầu rất sâu Vô lậu khó nghĩ bàn Nay ta đă được đủ Chỉ ta biết tướng đó Mười phương Phật cũng vậy Xá-lợi-phất phải biết Lời Phật nói không khác Với pháp của Phật nói Nên sanh sức tin chắc Pháp của Phật lâu sau Cần phải nói chân thật Bảo các chúng Thanh văn Cùng người cầu Duyên giác Ta khiến cho thoát khổ Đến chứng được Niết-bàn Phật dùng sức phương tiện Chúng sanh nơi nơi chấp Dắt đó khiến ra khỏi. GIẢNG : Phật nói Pháp sâu xa nhiệm mầu mà Phật đă được, chỉ có Phật biết và mười phương chư Phật cùng biết thôi. Phật khẳng định lời Ngài nói và lời chư Phật nói đều giống nhau. Những lời Phật nói ra là lời chân thật, không giả dối, v́ vậy nên tin chắc lời đó. Sở dĩ Ngài nói ba thừa giáo là v́ muốn cho những chúng sanh cầu Thanh văn, Duyên giác thoát khỏi khổ đau được Niết-bàn. Ngài nói ba thừa để dẫn dắt họ phá mê chấp, đưa họ đến Niết-bàn an lạc, đó là phương tiện chớ không phải cứu kính. 6. CHÁNH VĂN : *Khi đó trong đại chúng có hàng Thanh văn lậu tận A-la-hán, ngài A-nhă Kiều-trần-như v.v... một ngh́n hai trăm người và các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam cùng cận sự nữ, hạng người phát tâm Thanh văn, Duyên giác đều nghĩ rằng: “Hôm nay đức Phật cớ chi lại ân cần ngợi khen phương tiện mà nói thế này “Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cùng Duyên giác không thể đến được.” Đức Phật nói một nghĩa giải thoát, chúng ta cũng chứng được pháp đó đến nơi Niết-bàn, mà nay chẳng rơ nghĩa đó về đâu ?” GIẢNG : Bấy giờ toàn chúng khởi nghi: Tại sao hôm nay đức Phật lại tán thán pháp của Ngài được một cách nhiệt thành và tha thiết ? Khi xưa, Phật dạy hàng Thanh văn tu pháp Tứ đế để được giải thoát, hàng Duyên giác tu Mười hai nhân duyên để được Niết-bàn; sao hôm nay Phật nói pháp của Ngài cao siêu bậc nhất, không thể dùng trí tuệ của hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát suy lường mà hiểu đến được ? 7. CHÁNH VĂN : *Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất biết ḷng nghi của bốn chúng, chính ḿnh cũng chưa rơ, liền bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Nhân ǵ duyên ǵ mà Phật ân cần khen ngợi pháp phương tiện thứ nhứt nhiệm mầu rất sâu khó hiểu của các đức Phật ? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có ḷng nghi. Cúi xin đức Thế Tôn bày nói việc đó. Cớ ǵ mà đức Thế Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm mầu rất sâu khó hiểu ?” Khi đó ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: GIẢNG : Ngài Xá-lợi-phất là người trí tuệ bậc nhất trong hàng đệ tử Phật, nghe Phật nói như vậy Ngài không hiểu, khởi nghi ngờ. Ngài biết đại chúng cũng nghi ngờ, nên thưa hỏi lư do ǵ mà Phật cứ ân cần tán thán phương tiện sâu xa nhiệm mầu khó hiểu như vậy ? Xin Phật giảng nói.
8. CHÁNH VĂN : *Đấng Huệ Nhựt Đại Thánh Lâu mới nói pháp này, Tự nói pháp ḿnh chứng Lực, vô úy, tam-muội, Thiền định, giải thoát thảy Đều chẳng nghĩ bàn được. Pháp chứng nơi đạo tràng Không ai hỏi đến được Ư con khó lường được Cũng không ai hay hỏi, Không hỏi mà tự nói Khen ngợi đạo ḿnh làm Các đức Phật chứng được Trí huệ rất nhiệm mầu. Hàng vô lậu La-hán Cùng người cầu Niết-bàn Nay đều sa lưới nghi Phật cớ chi nói thế ? Hạng người cầu Duyên giác Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni Các trời, rồng, quỉ, thần Và càn-thát-bà thảy Ngó nhau cưu ḷng nghi Nh́n trông đấng Túc Tôn, Việc đó là thế nào ? Xin Phật v́ dạy cho Trong các chúng Thanh văn Phật nói con hạng nhứt Nay con nơi trí ḿnh Nghi lầm không rơ được V́ là pháp rốt ráo V́ là đạo Phật làm Con từ miệng Phật sanh Chắp tay nh́n trông chờ. Xin ban tiếng nhiệm mầu Liền v́ nói như thiệt Các trời, rồng, thần thảy Số đông như Hằng sa Bồ-tát cầu thành Phật Số nhiều có tám muôn Lại những muôn ức nước Vua Chuyển Luân Vương đến. Đều ḷng kính chấp tay Muốn nghe đạo đầy đủ. GIẢNG : Sở dĩ ngài Xá-lợi-phất nói “Con từ miệng Phật sanh”, là v́ Phật nói pháp, hàng đệ tử Thanh văn, Duyên giác nhân nghe tiếng pháp của Phật nói, tu mà ngộ đạo phát sanh trí tuệ. Trí tuệ đó do lời dạy của Phật mà có. Thông thường người thế gian nhận thân tứ đại là mạng sống, người tu lấy trí tuệ làm mạng sống, v́ vậy nên nói từ miệng Phật sanh ra mạng sống của ḿnh. Đoạn này lặp lại ư trước, ngài Xá-lợi-phất và đại chúng nghi ngờ pháp mà Phật vừa ca ngợi tán thán, xin Phật giảng nói v́ tất cả đại chúng đều muốn nghe. 9. CHÁNH VĂN : *Khi đó đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Thôi thôi ! Chẳng nên nói nữa, nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi ngờ.” GIẢNG : Đọc qua đoạn này, chúng ta thấy có cái ǵ mâu thuẫn. Tại sao Phật tự khen ngợi tán thán Trí tuệ Phật đáo để, đến khi ngài Xá-lợi-phất yêu cầu Phật giảng nói, Phật lại nói: Thôi thôi, nói ra e các ông nghi ngờ kinh sợ. Nếu biết nói ra đệ tử nghi ngờ th́ Ngài đừng nói, tại sao trước nói rồi ngang đây bảo thôi thôi ! Có lạ không ? 10.CHÁNH VĂN : *Ngài Xá-lợi-phất lại bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. V́ sao ? Trong hội đây có vô số trăm ngh́n muôn ức a- tăng-kỳ chúng sanh đă từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí tuệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin.” Lúc ấy, ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng: Đấng Pháp vương Vô thượng Xin nói, nguyện đừng lo Vô lượng chúng hội đây Có người hay kính tin. GIẢNG : Ngài Xá-lợi-phất một lần nữa tha thiết cầu xin Phật v́ đại chúng nói pháp ấy, trong hội cũng có người căn trí mạnh lẹ có thể kính tin. 11. CHÁNH VĂN : *Đức Phật lại ngăn Xá-lợi-phất: “Nếu nói việc đó th́ tất cả trong đời, trời, người, a-tu-la đều kinh nghi. Tỳ-kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa vào hầm lớn.” Khi đó đức Thế Tôn lại nói kệ rằng: Thôi thôi ! Chẳng nên nói Pháp ta diệu khó nghĩ Những kẻ tăng thượng mạn Nghe ắt không kính tin. GIẢNG : Lần cầu thỉnh thứ hai của ngài Xá-lợi-phất, cũng bị Phật từ chối với lư do pháp Phật sâu xa rất khó hiểu, nếu nói ra th́ kẻ tăng thượng mạn sẽ không tin rồi sa đọa. 12. CHÁNH VĂN : *Lúc ấy ngài Xá-lợi-phất bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm ngh́n muôn ức. Đời đời đă từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài an ổn nhiều điều lợi ích.” Khi đó ngài Xá-lợi-phất muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Đấng Vô thượng lưỡng túc Xin nói pháp đệ nhất Con là trưởng tử Phật Xin thượng phân biệt nói. Vô lượng chúng hội đây Hay kính tin pháp này Đời đời Phật đă từng Giáo hóa chúng như thế Đều một ḷng chấp tay Muốn nghe lănh lời Phật. Chúng con ngh́n hai trăm Cùng hạng cầu Phật nọ Nguyện Phật v́ chúng này Cúi xin phân biệt nói Chúng đây nghe pháp ấy Thời sanh ḷng vui mừng. GIẢNG : Đức Phật được tán thán là Lưỡng Túc Tôn, có nghĩa Phật là bậc có đầy đủ hai món phước đức và trí tuệ. Lần thứ ba, ngài Xá-lợi-phất cầu xin Phật giảng nói, v́ trong hội chúng có 1250 vị, và tất cả đều phát tâm muốn nghe pháp Phật nói. Sau khi nghe sẽ vui mừng kính tin chớ không nghi ngờ. 13. CHÁNH VĂN : *Bấy giờ, đức Thế Tôn bảo ngài Xá-lợi-phất : “Ông đă ân cần ba phen thưa thỉnh đâu được chẳng nói, ông nay lóng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ v́ ông phân biệt giải nói.” GIẢNG : Đây là thuật khéo léo của đức Phật đối với pháp nhiệm mầu khó nói khó tin. Từ lâu Ngài đă không nói, nay biết đến thời phải nói, nên Ngài hết ḷng tán thán ca ngợi, gợi sự lưu ư cho thính chúng. Nhưng c̣n ngại thính chúng sinh ḷng khinh mạn coi thường, đợi ngài Xá-lợi-phất thiết tha thưa thỉnh đến ba lần Ngài mới hứa khả nói. Phật làm như thế để chi ? Để cho ḷng thiết tha mong mỏi của người nghe lên cao tột rồi, khi nói họ mới lưu ư nghe để lănh hội. Nếu dễ, hỏi tới đâu nói tới đó, họ xem thường sanh tâm ngạo mạn khó tiến. Hiểu như vậy mới thấy Phật không mâu thuẫn, không phải bày ra rồi làm khó, mà v́ muốn người nghe không khinh thường, được thể hội. Thật ḷng từ vô hạn ! Về sau các thiền sư áp dụng thủ thuật này triệt để. Các Ngài c̣n bạo hơn, thiền sinh đến tham vấn, các Ngài hét hoặc đánh chớ không nói. Thậm chí đánh nhiều lần dồn người hỏi vào chỗ bế tắc, để khi họ nhận ra chỗ các Ngài muốn chỉ th́ đời đời không quên. Điển h́nh nhất là Sư Thần Quang đến cầu đạo với tổ Đạt-ma, Ngài vẫn ngồi xây mặt vào vách mặc cho Thần Quang đứng ngoài tuyết lạnh tới sáng. Tuyết đă ngập tới gối, mà Tổ c̣n cho đó là khổ hạnh cỏn con. Đến khi Sư Thần Quang chặt một cánh tay dâng lên để tỏ ư chí thiết tha cầu đạo, chừng đó Tổ mới gật đầu. Điều đó cho thấy hệ thống truyền dạy từ đức Phật cho tới đồ đệ không khác, chớ không phải người sau ưng làm thế nào th́ làm. Chúng ta ngày nay hiểu được chút chút, gặp người chưa kịp thưa hỏi th́ đă tự nói trước, nói thôi là nói. V́ chưa phải là pháp quí, nên gặp đâu cho đó, thành ra người nghe xem thường, không nhớ, không tu tập được. 14. CHÁNH VĂN : *Khi đức Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, cả thảy năm ngh́n người, liền từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. V́ sao ? V́ bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng thượng mạn, chưa được mà nói đă được, chưa chứng mà cho đă chứng, có lỗi dường ấy, cho nên không ở lại. Đức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản. GIẢNG : Đến đây, chúng ta lại có thêm một điều nghi vấn nữa. Đức Phật là một bậc đại từ đại, bi sắp nói pháp nhiệm mầu cao quí, đối với những chúng sanh chưa được phước duyên nghe, đáng lư khuyên họ ở lại nghe. Nhưng tại sao trong hội chúng của Phật có năm ngàn người đứng dậy lui ra không nghe, mà Phật im lặng để cho họ đi, không khuyên không ngăn lại ? Như đă nói ở trên, chính v́ đức Phật muốn cho người tự thấy ḿnh chưa đủ, có tâm tha thiết cần cầu nghe, nên Phật mới v́ những người đó nói. C̣n đối với người tự măn, họ không muốn nghe, họ đi th́ mặc họ, v́ nếu có giữ họ ở lại chỉ tăng thêm ḷng kiêu mạn, tự họ không được lợi ích. Ở đây, Phật xử sự tương đối nhẹ nhàng. Về sau, các Thiền sư dùng nhiều thuật rất ngặt nghèo. Như trường hợp ngài Thiện Chiêu, hội chúng của Ngài có năm trăm người, Ngài biết trong số này có nhiều người nghe danh Ngài mà đến, chớ chưa đủ ḷng tin đối với Ngài. Nhân ngày giỗ mẹ, Ngài cho mua một ít rượu thịt về làm một bữa tiệc. Cúng mẹ xong, Ngài mời Tăng chúng dự tiệc cho vui. Nói xong, Ngài thản nhiên ngồi vào bàn cầm đũa, toàn chúng không ai dám dự. Sau bữa tiệc đó, chúng bỏ đi hết, chỉ c̣n có mười sáu người ở lại. Ngài nói những người c̣n ở lại là những người có đủ ḷng tin đối với Ngài. Tại sao Ngài dùng thủ thuật quá gắt gao như vậy ? Nếu người đă hiểu và tin Ngài th́ dù Ngài có những hành động bất thường như thế nào, họ cũng thừa hiểu thừa biết, không phản ứng. C̣n đối với người không tin không hiểu Ngài, nếu thấy Ngài có chút ǵ hơi dở là họ bất măn chê chán, họ có ở lại chỉ dạy cũng không được. V́ vậy, Phật Tổ đối với những người không đủ ḷng tin với pháp mà các Ngài giảng dạy, ai muốn đi các Ngài để cho đi không cầm giữ lại. 15. CHÁNH VĂN : *Bấy giờ, đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Trong chúng ta đây không c̣n cành lá, rặt có hột chắc. Xá-lợi-phất ! Những gă tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt. Ông nay nên khéo nghe, ta sẽ v́ ông mà nói.” Ngài Xá-lợi-phất bạch rằng: “Vâng, thưa Thế Tôn con nguyện ưa muốn nghe.” GIẢNG : Khi những kẻ tăng thượng mạn đứng dậy ra về, đức Phật nói đó là điều tốt, số chúng c̣n lại có đủ ḷng tin thiết tha muốn nghe, đó là hột chắc. Phật v́ những người này mà nói và khuyên họ khéo lắng nghe. 16. CHÁNH VĂN : *Đức Phật bảo ngài Xá-lợi-phất: “Pháp mầu như thế, các đức Phật Như Lai đến khi đúng thời mới nói, như bông linh thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá-lợi-phất ! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng. GIẢNG : Phật tán thán pháp chư Phật khó gặp khó được, giống như hoa linh thoại khi nào có điềm lành, như Phật hay Chuyển Luân Thánh Vương ra đời, mới xuất hiện. Vậy đại chúng khéo nghe và tin thọ, v́ lời Phật nói không bao giờ hư dối. 17. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Các đức Phật theo thời nghi nói pháp ư thú khó hiểu. V́ sao ? Ta dùng vô số phương tiện các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp. Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được đó. V́ sao ? Các đức Phật Thế Tôn, chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời. Xá-lợi-phất ! Sao nói rằng các đức Phật Thế Tôn chỉ do một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời ? Các đức Phật Thế Tôn v́ muốn cho chúng sanh khai Tri kiến Phật để được thanh tịnh mà hiện ra nơi đời; v́ muốn chỉ Tri kiến Phật cho chúng sanh mà hiện ra nơi đời; v́ muốn cho chúng sanh tỏ ngộ Tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời; v́ muốn cho chúng sanh chứng vào đạo Tri kiến Phật mà hiện ra nơi đời. Xá-lợi-phất ! Đó là các đức Phật do v́ một sự nhân duyên lớn mà hiện ra nơi đời.” GIẢNG : Tới đây, đức Phật hiển bày cái khó nói, khó hiểu, khó tin. Hàng có trí tuệ như Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát không thể suy lường mà có thể hiểu, chỉ có Phật với Phật mới biết được, bởi tâm các Ngài thanh tịnh không phân biệt suy lường. “V́ một nhân duyên lớn mà hiện ra đời”, đó là tông chỉ không riêng một đức Phật Thích-ca mà là của tất cả mười phương chư Phật. Các Ngài ra đời để khai Tri kiến Phật cho chúng sanh, chỉ (thị) Tri kiến Phật cho chúng sanh, khiến cho chúng sanh ngộ Tri kiến Phật, và hướng dẫn cho chúng sanh nhập Tri kiến Phật. Tri kiến Phật là cái thấy biết Phật, hay chính là cái trí tuệ Phật mà chư Phật đă tự chứng. V́ cái thấy biết Phật là cái có sẵn nơi mỗi người, nhưng không ai biết, nên bản hoài của chư Phật ra đời là, muốn chỉ bày cái mà Phật đă ngộ đă chứng cho chúng sanh cũng ngộ cũng chứng như Phật. Thế nào là khai thị ngộ nhập Tri kiến Phật? Ví dụ: Có một viên ngọc xá-lợi đựng trong cái hộp bằng vàng, thờ trên bàn, trong ngôi chùa cửa đóng kín. Nhiều người nghe nói trong chùa có ngọc xá-lợi rất quí, họ khao khát muốn được chiêm bái. Để hướng dẫn cho họ chiêm bái, trước tiên thầy trụ tŕ phải đưa họ tới chùa, mở cửa chùa (khai) cho họ nh́n vô. Tuy cửa chùa đă mở, họ nh́n vào mà vẫn chưa thấy ngọc xá-lợi. Kế đó thầy đưa tay chỉ viên xá-lợi được đựng trong cái hộp bằng vàng thờ trên bàn. Khi tay thầy trụ tŕ chỉ, mắt họ nh́n theo liền thấy cái hộp đựng ngọc xá-lợi, đó là thị và ngộ. Đứng tại cửa chùa thấy ngọc xá-lợi đựng trong cái hộp chưa đủ, mà phải đưa họ vào chùa, đi tới bàn thờ ngọc xá-lợi, mở hộp ra, chính mắt họ nhận ra viên ngọc xá-lợi sáng lấp lánh, đó là “nhập”. Như vậy, “khai” là bước đầu th́ dễ, đến phần “thị” và “ngộ” cũng không khó. Đến phần “nhập” là phải qua hai ba giai đoạn mới là phần quan trọng. Tri kiến Phật (trí tuệ Phật) không phải chỉ Phật mới có, mà tất cả chúng sanh mọi người ai cũng có sẵn, nhưng v́ mê (vô minh) nên bây giờ Phật mới dùng phương tiện khai, rồi từ phương tiện đó Phật mới chỉ cho nhận ra Tri kiến Phật và sau đó cố gắng tiến tu để nhập Tri kiến Phật của ḿnh. Khai là chỉ cho chúng sanh thấy vô minh vọng tưởng là cái không thật, chợt hiện chợt mất. Từ cái không thật đó, đức Phật mới chỉ (thị) “cái chân thật” (Tri kiến Phật) sáng suốt thanh tịnh bất sanh bất diệt. Nhân đó, mới nhận ra (ngộ) “cái chân thật” có sẵn nơi ḿnh. Tuy đă nhận ra nó, nhưng v́ tập khí nhiều đời nhiều kiếp sâu dày, nên vọng tưởng vẫn c̣n dấy khởi, Tri kiến Phật lúc ẩn lúc hiện. Nên phải có thời gian tu tập, công phu viên măn th́ vô minh vọng tưởng sạch hết, chừng đó Tri kiến Phật hiển hiện tṛn sáng gọi là thành Phật. Vậy tất cả chúng sanh đều có sẵn Phật tánh, nhưng v́ quên (mê) nên Phật mới dùng phương tiện khai thị ngộ nhập, khiến cho chúng sanh nhận ra Phật tánh của chính ḿnh để thành Phật như Ngài. Đó là bản hoài của chư Phật nên nói là v́ một đại sự nhân duyên mà các Ngài ra đời. Kinh Pháp Hoa thuyết minh về Phật thừa cốt chỉ “Tức tâm tức Phật”. Tri kiến là Tâm, là Giác, là Phật. Nhưng Tri kiến nào tức Phật, c̣n Tri kiến nào là chúng sanh ? Tri kiến theo Cầu Danh là Tri kiến chúng sanh. Tri kiến theo Bồ-tát Văn-thù là Tri kiến Phật. Kinh Lăng Nghiêm, Phật nói rất rơ: Tri kiến lặp tri tức vô minh bổn Tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn. “Tri kiến lặp tri tức vô minh bổn” tức là trên thấy biết mà lặp thấy biết là gốc vô minh. Ví dụ vừa thấy cái đồng hồ liền phân biệt đẹp, xấu, đắt, rẻ... rồi sanh tâm thích hay chê. Nếu thích th́ t́m cách mua sắm, hoặc xin xỏ, hoặc đánh cắp cho được cái đồng hồ, như thế là đă tạo nghiệp đi trong luân hồi. Đó là Tri kiến lặp tri là gốc của vô minh. “Tri kiến vô kiến tư tức Niết-bàn” là sao ? Thấy biết mà không thấy biết tức là Niết-bàn. Ví dụ: Thấy tất cả Tăng Ni đang ngồi nghe giảng, tôi thấy biết rơ ràng, không dấy niệm phân biệt, tâm an nhiên lặng lẽ. Đó là thấy biết mà không thấy biết (Tri kiến vô kiến) giống như mặt gương sáng, người đến th́ hiện bóng người, vật đến th́ hiện bóng vật, người vật qua rồi th́ mặt gương không bóng, vẫn trong sáng như trước. Cũng vậy, đối với ngoại cảnh, chúng ta vẫn thấy biết mà tâm không lưu lại h́nh bóng để phân biệt. Đó là Niết-bàn, đó là tŕ kinh Pháp Hoa. Không phải tŕ kinh Pháp Hoa là để tính bộ mà không hiểu thâm ư của kinh. Học đạo mà không thấy đạo, kẹt trên h́nh tướng không giải thoát chút nào cả. Tŕ kinh như thế chưa phải là tŕ kinh Pháp Hoa. Như vậy, ai cũng có Tri kiến Phật, chỉ v́ người lặp và không lặp cái thấy biết phân biệt, nên kẻ là chúng sanh, người là Phật. 18. CHÁNH VĂN : *Đức Phật bảo Xá-lợi-phất: “Các đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, những điều làm ra thường v́ một việc: Chỉ đem Tri kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi.” Xá-lợi-phất ! Đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà v́ chúng sanh nói pháp, không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác. GIẢNG : Mục đích duy nhất của đức Phật Thích-ca cũng như của chư Phật đời quá khứ ra đời là làm sao cho chúng sanh tỏ ngộ được Tri kiến Phật, tức là Phật thừa chứ không có thừa thứ hai hay thứ ba. 19. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế. Xá-lợi-phất ! Thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện, các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp. V́ pháp đó đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng “Nhứt thế chủng trí”. Xá-lợi-phất ! Thuở vị lai, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện, các món nhân duyên lời lẽ thí dụ mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp, v́ pháp ấy đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng “Nhứt thế chủng trí”. Xá-lợi-phất ! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm ngh́n muôn ức cơi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhân duyên lời lẽ thí dụ, mà v́ chúng sanh diễn nói các pháp, v́ pháp đó đều là một Phật thừa, các chúng sanh ấy theo Phật nghe pháp rốt ráo đều được chứng “Nhứt thế chủng trí”. Xá-lợi-phất ! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa Bồ-tát, v́ muốn đem Tri kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, v́ muốn đem Tri kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, v́ muốn làm cho chúng sanh chứng vào Tri kiến Phật vậy. Xá-lợi-phất ! Nay ta cũng lại như thế, rơ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bổn tánh kia dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà v́ đó nói pháp. Xá-lợi-phất ! Như thế đều v́ để chứng được một Phật thừa “Nhứt thế chủng trí”. GIẢNG : Nhứt thế chủng trí là trí Phật, biết tột cùng khắp tất cả pháp trên thế gian này. Nhất thiết trí là trí của Thanh văn, Duyên giác. Chư Phật quá khứ, chư Phật vị lai, và Phật hiện tại là đức Thích-ca đều nhắm vào chỗ cứu kính duy nhất là, chỉ bày Tri kiến Phật cho chúng sanh được tỏ ngộ và chứng nhập để được “Nhứt thế chủng trí”. Như vậy, chư Phật quá khứ dạy cũng như thế, chư Phật vị lai dạy cũng như thế, kể cả đức Phật Thích-ca đời hiện tại dạy cũng như thế. Không có con đường thứ hai thứ ba nào khác. Chỉ có con đường duy nhất là làm sao cho mọi người nhận ra Tri kiến Phật, và hằng sống được với Tri kiến Phật nơi ḿnh. Tại sao đức Phật chỉ nhắm có điều đó ? V́ Phật biết mỗi chúng sanh ai cũng có Tri kiến Phật, nhưng v́ mê mới tạo nghiệp đi trong luân hồi lục đạo, thành ra Tri kiến chúng sanh. Bây giờ nhờ Phật chỉ bày, chúng ta khéo nhận khéo sống th́ Tri kiến chúng sanh trở thành Tri kiến Phật, đó là tu. 20. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Trong cơi nước ở mười phương c̣n không có hai thừa hà huống có ba ! Xá-lợi-phất ! Các đức Phật hiện ra trong đời ác năm trược, nghĩa là: kiếp trược, phiền năo trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược. Như thế, Xá-lợi-phất, lúc kiếp loạn trược chúng sanh nhơ nặng, bỏn xẻn, tham lam, ghét ganh, trọn nên các căn chẳng lành, cho nên các đức Phật dùng sức phương tiện, nơi một Phật thừa, phân biệt nói thành ba. GIẢNG : Đoạn này đức Phật xác nhận rơ ràng ư nghĩa không có ba thừa mà chỉ có một Phật thừa. Sở dĩ Phật nói ba thừa là v́ chúng sanh ở trong đời ngũ trược: kiếp trược, phiền năo trược, chúng sanh trược, kiến trược, mạng trược, sanh ḷng bỏn xẻn, tham lam, ganh ghét... V́ vậy mà Phật tạm dùng phương tiện nói ba thừa để dẹp bỏ những tâm cấu uế đó. - Kiếp trược: Thời mà tuổi thọ của loài người dưới hai ngàn tuổi, chỉ cho cơi ta-bà đức Thích-ca đang giáo hóa. - Phiền năo trược: Ḷng mọi người chứa chấp nhiều tham lam, sân hận... - Chúng sanh trược: Con người bám chấp vào sinh mạng ḿnh cho là thật, rồi sanh cống cao ngă mạn. - Kiến trược: Kiến chấp một bên, thấy biết lệch lạc tà vạy mà cho là đúng. - Mạng trược: Chúng sanh v́ sự sống mà tạo rất nhiều nghiệp ác. 21. CHÁNH VĂN : *Xá-lợi-phất ! Nếu đệ tử ta tự cho ḿnh là A-la-hán cùng Duyên giác, mà không nghe không biết việc của các đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa Bồ-tát, người này chẳng phải đệ tử Phật, chẳng phải A-la-hán, chẳng phải Duyên giác. Lại nữa Xá-lợi-phất ! Các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni đó tự cho ḿnh đă được A-la-hán, là thân rốt sau rốt ráo Niết-bàn, bèn chẳng lại chí quyết cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nên biết bọn đó là kẻ tăng thượng mạn. V́ sao ? Nếu có Tỳ-kheo thiệt chứng quả A-la-hán mà không tin pháp này, quyết không có lẽ ấy, trừ sau khi Phật diệt độ, hiện tiền không Phật. V́ sao ? Sau khi Phật diệt độ, những kinh như thế, người hay thọ tŕ, đọc tụng, hiểu nghĩa rất khó có được, nếu gặp đức Phật khác, ở trong pháp này bèn được hiểu rơ. Xá-lợi-phất ! Các ông nên một ḷng tin hiểu thọ tŕ lời Phật dạy. Lời các đức Phật Như Lai nói không hư vọng, không có thừa nào khác, chỉ có một Phật thừa thôi. GIẢNG : Phật xác nhận một cách quyết liệt, dù là A-la-hán, Duyên giác ngang đó mà tự măn cho là đủ th́ người đó không phải là đệ tử của Phật. Người tu chúng ta hiện tại, đa số mắc phải chứng bệnh tự măn, tu một thời gian tự thấy rằng ḿnh đă đủ, nên mặc nhiên an hưởng tứ sự cúng dường một cách sung măn, mà không lo nghĩ đến sự tu tiến. Nên tôi thường nói khẳng định rằng: Nếu chưa thành Phật th́ không lúc nào chúng ta ngừng nghỉ tu hành, nếu ngừng nghỉ không tu là rơi vào lỗi tự măn, đó là tăng thượng mạn. Dù là Bồ-tát cũng vẫn cố gắng tu hành, đến khi thành Phật mới thôi. Ai được chút ít cho là đủ, người đó chỉ là hạt lép, là lá vàng úa, gió thổi qua rơi rụng hết. Nếu là hạt chắc, là thứ thiệt th́ tu cho đến khi thành Phật mới rồi trách nhiệm của ḿnh, chưa thành Phật th́ lúc nào cũng phải cố gắng nỗ lực tu chớ không tự măn. Nhưng mà nh́n lại th́ người tu bây giờ tự măn không phải ít. Họ nghĩ rằng đời này tu gieo giống lành, kiếp sau tu nữa, hoặc già yếu rồi nghỉ ngơi cho thảnh thơi đôi chút, chẳng lẽ suốt đời cặm cụi tu hoài... Nghĩ như vậy là trái với tinh thần của Phật dạy, nên chưa phải là đệ tử Phật. Đức Phật đối với những chúng sanh tu mà không muốn thành Phật, chỉ muốn đời sau sanh ra làm người tốt, có đủ duyên phước th́ Phật dạy giữ Năm giới, đó là Nhân thừa. Lại có người tu không muốn thành Phật, muốn được sung sướng hưởng phước báo đầy đủ, Phật dạy tu Thập thiện, đó là Thiên thừa. Người không muốn sanh lên cơi trời cũng không muốn trở lại làm người, Phật dạy tu Tứ đế để chứng Niết-bàn không c̣n tái sanh lại nữa, đó là Thanh văn thửa Đến hàng Duyên giác th́ Phật nói Mười hai nhân duyên, hàng Bồ-tát th́ nói Sáu pháp Ba-la-mật, hướng dẫn từ thấp dần dần lên. Tới đây Phật mới nói bản hoài của chư Phật ra đời là dạy người tu để thành Phật chớ không dạy điều ǵ khác. Cũng vậy, hiện tại tôi hướng dẫn Tăng Ni và Phật tử tu, là phải biết rơ nơi ḿnh có “cái chân thật” mà tôi tạm gọi là “ông chủ” hay “bản lai diện mục”, c̣n ư niệm nghĩ suy là vọng tưởng không thật. Biết được như vậy rồi th́ đi đứng nằm ngồi, hằng sống với ông chủ, không chạy theo vọng tưởng hư giả. Đó là bản hoài mà tôi nhắm. Nhưng người tới học đạo có nhiều tŕnh độ. Người già đến th́ tôi dạy niệm Phật cho tâm bớt loạn, để khi nhắm mắt theo Phật về cơi Phật. Nếu là người trẻ mới vào đạo chưa rơ ǵ về Thiền tông, mà tâm quá loạn động th́ tôi dạy đếm hơi thở, nhờ đếm hơi thở mà tâm bớt loạn... Đó là những phương tiện tôi đă dùng làm lợi ích cho người tùy theo tŕnh độ căn cơ của họ. Chưa nói được mục đích mà tôi nhắm th́ phải nói phương tiện, làm sao cho người đến học đều được lợi ích. ? |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]