DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 25: QUÁN THẾ ÂM BỒ-TÁT PHỔ MÔN “Quán” là xem xét, “Thế Âm” là âm thanh của thế gian. Quán Thế Âm là xem xét âm thanh thế gian, tiêu biểu cho ḷng từ bi của Bồ-tát. Ngài lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh, khởi ḷng thương xót đến cứu độ cho hết khổ. “Phổ Môn” là cái cửa thông suốt khắp tất cả. Bồ-tát Quán Thế Âm tu hạnh từ bi, hay lắng nghe tiếng kêu than của chúng sanh mà hiện thân để hóa độ. Phương tiện hóa độ của Ngài là cửa pháp thông suốt khắp tất cả, ai ai cũng có thể vào tu, không giới hạn. Mục đích của phẩm này là phá tưởng ấm vào Ngũ địa và Lục địa Bồ-tát. 1. CHÁNH VĂN : * Lúc bấy giờ, ngài Vô Tận Ư Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chấp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Thế Tôn ! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhân duyên ǵ mà tên là Quán Thế Âm ?” Phật bảo ngài Vô Tận Ư Bồ-tát: “Thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm ngh́n muôn ức chúng sanh chịu các khổ năo, nghe Quán Thế Âm Bồ-tát này một ḷng xưng danh, Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều được giải thoát. Nếu có người tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được v́ do sức oai thần của Bồ-tát này được như vậy. Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát này liền được chỗ cạn. Nếu có trăm ngh́n muôn ức chúng sanh v́ t́m vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, san hô, hổ phách, chân châu các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió đen thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước quỉ la-sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời các người đó đều được thoát khỏi nạn quỉ la-sát. Do nhân duyên đó mà tên là Quán Thế Âm. GIẢNG : Phẩm này, người đương cơ đứng ra thưa hỏi là Bồ-tát Vô Tận Ư. Vô Tận Ư là ư tưởng không cùng, không dứt. Tại sao Bồ-tát mà ư nhiều như vậy? Như đă nói, phẩm này là phá tưởng ấm. Ư tưởng của chúng sanh có trăm ngàn muôn ức thứ, cái ǵ cũng nghĩ tưởng được, nên nói là Vô Tận Ư. Nhưng nếu niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát th́ mọi nghĩ tưởng dừng lặng th́ hết khổ. Chỗ này nếu chúng ta không hiểu rơ sẽ lầm. Trong kinh Nhật Tụng phẩm Phổ Môn được liệt vào kinh cầu an, ai đau bệnh tụng phẩm này cầu cho an ổn. Vậy phẩm Phổ Môn có phải để cầu an không ? Trong phẩm này Phật nói lên bổn sự của Bồ-tát. Bồ-tát Quán Thế Âm ở đời quá khứ, Ngài khởi tâm từ bi tu hạnh quán xét tiếng kêu than của chúng sanh ở thế gian, mà hiện thân đến cứu độ cho mọi loài hết đau khổ. Nếu chúng ta cứ dựa trên chữ nghĩa h́nh tướng th́ ngang đây bị kẹt lớn. Như câu: “Có người tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, v́ do sức oai thần của Bồ-tát này được như vậy.” Quí vị học phẩm này có tin lời Phật nói không ? Đệ tử Phật mà không tin Phật th́ tin ai ? Vậy nếu có người nhóm một đống củi đốt lửa cháy hừng hực, bảo quí vị niệm Quán Thế Âm Bồ-tát và đi vào đống lửa đó, xem thân quí vị có cháy không ? Nếu thân quí vị bị cháy nám th́ lời Phật nói không đúng. Quí vị nghĩ sao đây ? Lại một đoạn nữa: “Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm liền được chỗ cạn.” Như vậy những người đi biển, thuyền ch́m niệm danh hiệu Bồ-tát, tất cả đều gặp chỗ cạn, hay cũng có người chết ch́m ? Những sự việc này nếu hiểu theo sự tướng th́ thấy chống trái, c̣n hiểu theo lư tánh, như theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật nói Bồ-tát Quán Âm tu hạnh Phản văn văn tự tánh, tức là xoay lại nghe tánh nghe của ḿnh. Tánh nghe là cái thể chân thật của mỗi người, không có tướng mạo, không có h́nh dáng. Đă không có h́nh dáng tướng mạo th́ lửa nào thiêu được, nước nào nhận ch́m được ? Nên nói niệm Quán Âm tức là lắng nghe tánh nghe của chính ḿnh, th́ mọi chướng nạn của lửa nước đều qua khỏi. Lại một đoạn nữa: “Có trăm ngh́n muôn ức chúng sanh v́ t́m vàng bạc, lưu ly... vào biển lớn, giả sử gió đen thổi ghe thuyền họ trôi tấp nơi nước quỉ la-sát, nếu có một người trong đó xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời các người đó đều thoát khỏi nạn quỉ la-sát.” Chuyện này phải hiểu như thế nào ? Xưa có một vị tướng công, tới hỏi đạo một thiền sư, ông nêu câu chuyện trên và hỏi rằng: “Thế nào là hắc phong ?” Thiền sư b́nh tĩnh nói rằng: Ông là một vị tướng công mà đi hỏi vớ vẩn như vậy sao ? Vị tướng công nghe chê ḿnh nên nổi tức, mặt đỏ gay. Thiền sư chỉ: Đó, hắc phong đó. Vậy hắc phong là ǵ ? Thiền sư không nói hắc phong là gió ào ào mây đen kéo mù mịt, mà nói hắc phong là cơn sân giận của con người. Sân giận nổi lên tự ḿnh chịu khổ họa, lại c̣n gây khổ lụy cho người khác. Ví dụ ông A vô cớ kêu tên ông B chưởi. Ông B nổi sân, xông tới đánh đập ông A. Ông A bị đánh đau liền đánh lại ông B. Đó là ông B bị hắc phong thổi phiêu bạt tới cơi nước La-sát, bị quỉ la-sát hại rồi. Nếu ông B vừa nổi sân, biết ḿnh đang sân, liền niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, cơn sân giận lắng dịu lần rồi hết, đâu có đánh ông A và bị ông A đánh lại đau khổ. Như vậy, không phải Bồ-tát Quán Âm cứu ông B thoát nạn quỉ la-sát là ǵ ? Hiểu như thế mới thực tế. Chớ trong lục địa cũng như hải đảo ngoài biển khơi, đảo nào ở đâu, có người ở hay không có người ở, có quỉ hay không có quỉ, mọi người đều biết hết. Vậy nước La-sát nằm ở vị trí nào trên quả địa cầu này ? Như vậy, hắc phong và nước quỉ la-sát biểu trưng cho ḷng sân giận của con người dấy khởi, rồi con người theo đó mà tạo nghiệp ác thọ quả báo khổ đau. C̣n Quán Thế Âm Bồ-tát là biểu trưng ḷng từ bi, ḷng từ bi khởi lên th́ sân giận tiêu tan, nên nói bị hắc phong thổi phiêu bạt đến cơi nước La-sát, niệm danh hiệu Quán Thế Âm th́ không bị hại là vậy. 2. CHÁNH VĂN : * Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời dao gậy của người cầm liền găy từng khúc, người ấy được thoát khỏi. Nếu quỉ dạ-xoa cùng la-sát đầy trong cơi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thời các quỉ dữ đó c̣n không có thể dùng mắt dữ mà nh́n người, huống lại làm hại được. Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, thảy đều đứt ră, liền được thoát khỏi. Nếu kẻ oán tặc đầy trong cơi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu, trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các thiện nam tử ! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một ḷng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, vị Bồ-tát đó hay đem pháp Vô úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ được thoát khỏi oán tặc này.” Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam-mô Quán Thế Âm Bồ-tát !”, v́ xưng danh hiệu Bồ-tát nên liền được thoát khỏi. Vô Tận Ư ! Quán Thế Âm Bồ-tát sức oai thần cao lớn như thế. GIẢNG : Đoạn này nói người bị nạn niệm danh hiệu Quán Thế Âm sẽ được thoát nạn. Như người sắp bị hại bằng dao gậy, niệm Quán Thế Âm Bồ-tát thời dao gậy găy ra từng khúc. Nếu người bị vô số quỉ la-sát đến hại, niệm Quán Thế Âm Bồ-tát thời quỉ không dám dùng mắt để nh́n huống là hại. Hoặc người bị xiềng xích trói thân, niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, xiềng xích liền đứt ră. Hoặc những người đi buôn gặp oán tặc, niệm Bồ-tát Quán Thế Âm, sẽ được Bồ-tát ban cho pháp vô úy, thoát khỏi oán tặc. Đó là công hiệu của người niệm Bồ-tát Quán Thế Âm. Đây nói Bồ-tát Quán Thế Âm hay bố thí pháp vô úy, vô úy là không sợ. Phần nhiều mọi khổ đau đều phát nguồn từ ḷng sợ hăi, sợ đói, sợ khát, sợ bệnh, sợ chết... Lúc sợ th́ bồn chồn, lo âu, kinh hăi, ăn ngủ không được, khổ năo hiện ra ngay lúc sợ. Sợ là do tưởng mới có nên người bất thần đạn lạc bay tới trúng th́ không sợ, nhưng có người chĩa họng súng trước ḿnh th́ sợ run lên. Như vậy, sợ là do tưởng tượng mà ra, và khổ do sợ mà có. Tưởng tượng nhiều là sợ nhiều, sợ nhiều là khổ nhiều, Bồ-tát Quán Thế Âm cứu khổ là làm cho chúng sanh hết sợ, gọi là thí pháp vô úy. Ví dụ chúng ta mộng thấy ma nhát, chúng ta sợ hăi, lúc đó liền nhớ niệm danh hiệu Quán Thế Âm, th́ ma biến mất. Do chúng ta có tưởng điên đảo, nên phóng hiện ra ma quái rồi sợ. Khi sợ, chợt tỉnh niệm Quán Thế Âm th́ những niệm điên đảo tiêu tan, hết sợ hăi nên an ổn. Đó là Bồ-tát Quán Thế Âm thí pháp vô úy. Cao hơn một bậc, niệm danh hiệu Quán Thế Âm là trở về Tri kiến Phật là cái thể không h́nh tướng, không có h́nh tướng làm sao hại được mà sợ. Do đó mọi hiểm nguy đều hóa giải. 3. CHÁNH VĂN : * Nếu có chúng sanh nào nhiều ḷng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, liền được ly dục. Nếu người nhiều giận hờn, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, liền được ĺa ḷng giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ-tát, liền được ĺa ngu si. Vô Tận Ư ! Quán Thế Âm Bồ-tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một ḷng tưởng nhớ. Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, v́ trước đă trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến. Vô Tận Ư ! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức thần như thế. GIẢNG : Chúng ta thấy, nếu chúng sanh nào khởi niệm tham dục, liền niệm danh hiệu Quán Thế Âm, th́ tham dục lặng xuống không c̣n. Nếu nổi giận, niệm Quán Thế Âm, cơn giận lần lần lắng dịu và hết. Nếu ngu si nghĩ tưởng điên đảo, niệm danh hiệu Quán Thế Âm, tâm an định tỉnh sáng, ĺa được ngu si. Sở dĩ được như vậy là do biết xoay lại sống với Tri kiến Phật thanh tịnh sáng suốt nên ĺa được tham, sân, si. Sau đây nói người nữ muốn sanh con trai, con gái, cúng dường lễ lạy Bồ-tát Quán Thế Âm th́ được thành tựu như ư muốn. Điều này lâu nay chúng ta hiểu trên chữ nghĩa nên bị kẹt, nhứt là tu sĩ phái nữ, thấy các nữ Phật tử mang thai, hay khuyên các cô niệm Bồ-tát Quán Thế Âm. Có một nữ Phật tử ở gần chùa tín ngưỡng rất sâu đậm, cô có thai, ngỏ ư mong được sanh con trai. Nên cô ni ở chùa dạy cho cô Phật tử niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm để được sanh con trai. Cô Phật tử nghe lời niệm rất chí thành, nhưng tới ngày sanh th́ sanh con gái. Cô Phật tử đi kiện, cô ni không biết giải quyết thế nào, cứ lánh mặt hoài. Thật là cái họa của người không hiểu lư kinh. Ở đây Phật nói: Muốn cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái, là nói lên công đức không thể nghĩ bàn của người niệm Bồ-tát Quán Thế Âm. Do công đức thù thắng không thể nghĩ bàn, nên mọi việc được như ư không trái không nghịch. Nếu nói xa hơn, niệm Bồ-tát Quán Thế Âm là xoay lại với tánh nghe của ḿnh, tức là trở về với Tri kiến Phật th́ mọi sự việc đều được như ư. Tri kiến Phật c̣n gọi là Châu như ư. 4. CHÁNH VĂN : * Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ-tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát. Vô Tận Ư ! Nếu có người thọ tŕ danh tự của sáu mươi hai ức Hằng hà sa Bồ-tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ư ông nghĩ sao ? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhân đó có nhiều chăng ? Vô Tận Ư thưa: “Bạch Thế Tôn ! Rất nhiều.” Phật nói: “Nếu lại có người thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm ngh́n muôn ức kiếp không thể cùng tận. Vô Tận Ư ! Thọ tŕ danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát được vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.” GIẢNG : Phật so sánh công đức người niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm với người niệm và cúng dường vô số Bồ-tát khác, th́ công đức hai người ngang nhau và nhiều vô tận. Tại sao thế ? V́ niệm vô số danh hiệu của Bồ-tát khác cốt là trở về với Tri kiến Phật, c̣n niệm một danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm cũng trở về với Tri kiến Phật. Như vậy, đứng trên danh từ th́ có sai khác, nhưng đứng trên lư tánh th́ niệm một danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm, hay niệm vô số danh hiệu Bồ-tát khác đều b́nh đẳng không sai biệt. V́ niệm là nhớ sống với Tri kiến Phật, chớ không phải niệm suông ngoài miệng để rồi chấp câu chấp lời. 5. CHÁNH VĂN : * Ngài Vô Tận Ư Bồ-tát bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Quán Thế Âm Bồ-tát dạo đi trong cơi Ta-bà như thế nào ? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào ? Sức phương tiện việc đó như thế nào ?” Phật bảo Vô Tận Ư Bồ-tát: Thiện nam tử ! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật được độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ-tát liền hiện thân Phật mà v́ đó nói pháp . Người đáng dùng thân Duyên giác được độ thoát, liền hiện thân Duyên giác mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Thanh văn được độ thoát, liền hiện thân Thanh văn mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Phạm vương được độ thoát, liền hiện thân Phạm vương mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đế-thích được độ thoát, liền hiện thân Đế-thích mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tự Tại thiên được độ thoát, liền hiện thân Tự Tại thiên mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Đại Tự Tại thiên được độ thoát, liền hiện thân Đại Tự Tại thiên mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Thiên đại tướng quân được độ thoát, liền hiện thân Thiên đại tướng quân mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ Sa-môn được độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa-môn mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân tiểu vương được độ thoát, liền hiện thân tiểu vương mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân trưởng giả được độ thoát, liền hiện thân trưởng giả mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân cư sĩ được độ thoát, liền hiện thân cư sĩ mà v́ đó nói pháp . Người đáng dùng thân tể quan được độ thoát, liền hiện thân tể quan mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân Bà-la-môn mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di được độ thoát, liền hiện thân Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân phụ nữ của trưởng giả, cư sĩ, tể quan, Bà-la-môn được độ thoát, liền hiện thân phụ nữ mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ được độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân cùng phi nhân được độ thoát, liền đều hiện ra mà v́ đó nói pháp. Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang thần được độ thoát, liền hiện Chấp Kim Cang thần mà v́ đó nói pháp. Vô Tận Ư ! Quán Thế Âm Bồ-tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân h́nh, dạo đi trong các cơi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một ḷng cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát. Quán Thế Âm Bồ-tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự Vô úy, cho nên cơi Ta-bà này đều gọi Ngài là vị “Thí Vô Úy”. GIẢNG : Đây nói về Ứng thân của Bồ-tát, khi Bồ-tát phá được sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, th́ có được cái dụng ứng hóa thân để độ sanh không thể nghĩ bàn. Nếu chúng sanh có duyên phước, cảm thông được ḷng từ bi của Bồ-tát, th́ Ngài tùy theo ước nguyện của chủng loại chúng sanh mà thị hiện để hóa độ cho hết khổ, đó là trên mặt sự. Xưa khi tôi c̣n đi giảng, có ông phó quận Lộc Ninh tên Triền đứng ra tổ chức, mời tôi và thượng tọa Huyền Vi lên đó giảng, Ông hỏi tôi: - Thưa Thầy, ḿnh thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Âm, Ngài có ứng hiện không ? Tôi hỏi: - Theo đạo hữu th́ thấy sao ? - Tôi tin chắc, Ngài có ứng hiện. Rồi ông kể cho tôi nghe, ông có một đứa con khoảng mười ba, mười bốn tuổi bệnh nặng, đưa đi bệnh viện Đồn Đất chữa trị khoảng nửa tháng. Bệnh không giảm, bác sĩ bó tay, bảo ông đem nó về nhà, nếu không sẽ chết trong bệnh viện. Ông chở về nhà tuyệt vọng, không biết phải chạy chữa như thế nào, chỉ thành tâm cầu nguyện Bồ-tát Quán Thế Âm. Đêm đó ông ngủ thấy Bồ-tát Quán Thế Âm hiện, Ngài đứng trên hoa sen trước mặt ông bảo: - Ngươi nên sai người đi về hướng Bắc rước thầy thuốc về trị, con ngươi sẽ lành bệnh. Khi thức giấc ông nhớ rơ ràng h́nh dáng Bồ-tát Quán Thế Âm ứng hiện. Sáng ra cho người đi về hướng Bắc t́m gặp thầy thuốc, mời về nhà xem mạch hốt thuốc, con ông uống chỉ có ba thang là hết bệnh. Từ đó, ông lập bàn thờ Bồ-tát Quán Thế Âm, tin Tam bảo và rước chúng tôi giảng đạo. Trên sự tướng, chúng ta thấy có thành tâm cầu nguyện th́ có cảm ứng. Song cảm ứng c̣n tùy duyên phước của mỗi người, chớ không phải ai ai cũng như vậy. Cũng như mặt trăng trên không, chỉ hiện bóng khi trời trong và chỗ có nước, nếu trời nhiều mây, không nước th́ mặt trăng không hiện, chẳng phải Bồ-tát đến với người này mà không đến với người kia. Trên mặt lư, th́ khi không c̣n chạy theo vọng niệm điên đảo, xoay lại sống với Tri kiến Phật là cái thanh tịnh sáng suốt, th́ có việc ǵ mà chướng ngại trái ngăn không như ư. Vậy lư sự phải viên dung. 6. CHÁNH VĂN : * Vô Tận Ư Bồ-tát bạch Phật: “Thế Tôn ! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ-tát.” Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm ngh́n lượng vàng, đem trao cho ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: “Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này.” Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ-tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ư lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ-tát rằng: “Xin Ngài v́ thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này.” Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ-tát: “Oâng nên thương Vô Tận Ư Bồ-tát này và hàng tứ chúùng cùng trời, rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân và phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó.” Tức thời Quán Thế Âm Bồ-tát thương hàng tứ chúng và trời, rồng, nhân và phi nhân v.v... mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng đức Thích-ca Mâu-ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa Bảo. - Vô Tận Ư ! Quán Thế Âm Bồ-tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cơi Ta-bà. Lúc đó, ngài Vô Tận Ư Bồ-tát nói kệ hỏi Phật rằng: * Thế Tôn đủ tướng tốt ! Con nay lại hỏi kia Phật tử nhân duyên ǵ Tên là Quán Thế Âm ! Đấng đầy đủ tướng tốt Kệ đáp Vô Tận Ư: Ông nghe hạnh Quán Âm Khéo ứng các nơi chỗ Thệ rộng sâu như biển Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn Hầu nhiều ngh́n ức Phật Phát nguyện thanh tịnh lớn. Ta v́ ông lược nói Nghe tên cùng thấy thân Tâm niệm chẳng luống qua Hay diệt khổ các cơi. Giả sử sanh ḷng hại Xô rớt hầm lửa lớn Do sức niệm Quán Âm Hầm lửa biến thành ao. Hoặc trôi giạt biển lớn Các nạn quỉ, cá, rồng Do sức niệm Quán Âm Sóng ṃi chẳng ch́m được. Hoặc ở chót Tu-di Bị người xô rớt xuống Do sức niệm Quán Âm Như mặt nhựt treo không. Hoặc bị người dữ rượt Rớt xuống núi Kim Cang Do sức niệm Quán Âm Chẳng tổn đến mảy lông. Hoặc gặp oán tặc vây Đều cầm dao làm hại Do sức niệm Quán Âm Đều liền sanh ḷng lành. Hoặc bị khổ nạn vua Khi hành h́nh sắp chết Do sức niệm Quán Âm Dao liền găy từng đoạn. Hoặc tù cấm xiềng xích Tay chưn bị gông cùm Do sức niệm Quán Âm Tháo ră được giải thoát Nguyền rủa các thuốc độc Muốn hại đến thân đó Do sức niệm Quán Âm Trở hại nơi bổn nhân. Hoặc gặp la-sát dữ Rồng độc các loài quỉ Do sức niệm Quán Âm Liền đều không dám hại. Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vuốt nhọn đáng sợ Do sức niệm Quán Âm Vội vàng bỏ chạy thẳng. Rắn độc cùng ḅ cạp Hơi độc khói lửa đốt Do sức niệm Quán Âm Theo tiếng tự bỏ đi. Mây sấm nổ sét đánh Tuôn giá, xối mưa lớn Do sức niệm Quán Âm Liền được tiêu tan cả. Chúng sanh bị khổ ách Vô lượng khổ bức thân Quán Âm sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian Đầy đủ sức thần thông Rộng tu trí phương tiện Các cơi nước mười phương Không cơi nào chẳng hiện. Các loài trong đường dữ: Địa ngục, quỉ, súc sanh Sanh, già, bệnh, chết khổ Lần đều khiến dứt hết. Chân quán, thanh tịnh quán Trí huệ quán rộng lớn Bi quán và từ quán, Thường nguyện thường chiêm ngưỡng Sáng thanh tịnh không nhơ Huệ nhựt phá các tối Hay tiêu tai khói lửa Khắp soi sáng thế gian. Ḷng bi răn như sấm Ư từ diệu dường mây Xối mưa pháp cam lồ Dứt trừ lửa phiền năo Căi kiện qua chỗ quan Trong quân trận sợ sệt Do sức niệm Quán Âm Cừu oán đều lui tan. Diệu Âm, Quán Thế Âm Phạm âm, Hải triều âm Tiếng hơn thế gian kia, Cho nên thường phải niệm Niệm niệm chớ sanh nghi Quán Âm bậc tịnh Thánh Nơi khổ năo nạn chết Hay v́ làm nương cậy. Đủ tất cả công đức Mắt lành trông chúng sanh Biển phước lớn không lường Cho nên phải đảnh lễ. GIẢNG : Khi Bồ-tát Vô Tận Ư biết được công hạnh của Bồ-tát Quán Thế Âm, Ngài liền phát tâm cúng dường chuỗi ngọc. Bồ-tát Quán Thế Âm không nhận, Phật bảo Ngài nên v́ tứ chúng mà nhận chuỗi ngọc. Ngài vâng lời Phật nhận chuỗi ngọc chia hai, một phần cúng dường Phật Thích-ca, một phần cúng dường Phật Đa Bảo. Qua h́nh ảnh này khiến chúng ta nghi vấn: Các Bồ-tát th́ thân h́nh mập mạp to lớn, trang sức bằng ngọc ngà châu báu, trong khi đó, những vị A-la-hán th́ thân h́nh khô gầy. Đồng thời là đệ tử Phật, học tu theo pháp Phật, tại sao người th́ trang nghiêm đẹp đẽ, người th́ khổ hạnh ốm gầy ? Như chúng ta đă biết, Bồ-tát th́ tu theo hạnh tự lợi lợi tha, nên phải vui vẻ cởi mở để cho chúng sanh dễ dàng kết duyên. Các Ngài do hạnh lợi tha nên có muôn đức trang nghiêm, v́ vậy mà thân đẹp đẽ. C̣n các vị A-la-hán với hạnh nguyện tu cốt cho hết phiền năo, để được giải thoát cho ḿnh, nên có dáng khắc khổ đăm chiêu, thiếu phần lợi tha nên chưa đủ muôn hạnh để trang nghiêm thân cho tươi đẹp. Bồ-tát Quán Thế Âm với hạnh từ bi, ban cho chúng sanh mọi điều lợi ích, chớ không nhận của người, v́ nhận là vị kỷ chớ không phải vị tha. Lúc đầu, Ngài không nhận chuỗi anh lạc của Bồ-tát Vô Tận Ư, sau Ngài nhận là v́ ḷng từ bi chớ không phải do ḷng ích kỷ. Khi nhận xong, lại cúng dường cho Phật Thích-ca và Phật Đa Bảo việc làm này của Bồ-tát Quán Thế Âm cho thấy Bồ-tát làm mọi công tác Phật sự đều hướng về Phật mà làm, và được thành quả cũng hướng về Phật mà dâng, chớ không phải v́ tư kỷ mà làm. Phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát Phổ Môn dạy cho chúng sanh phá tưởng ấm. Khi nhập được Tri kiến Phật th́ hết tưởng ấm, mà hết tưởng là hết khổ th́ tự tại vô ngại. V́ vậy Bồ-tát Vô Tận Ư khuyên chúng ta nên niệm và đảnh lễ Bồ-tát Quán Thế Âm. 7. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ, ngài Tŕ Địa Bồ-tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng:“Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít.” Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn ngh́n chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. GIẢNG : Từ trước chúng ta không nghe tên Bồ-tát Tŕ Địa, bây giờ ngẫu nhiên Ngài xuất hiện nói rằng: “Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ-tát đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức của người đó chẳng ít.” Bồ-tát Tŕ Địa là vị Bồ-tát ǵn giữ quả đất, tức là cơi Ta-bà này, Ngài nói: Nếu mọi người ở cơi Ta-bà này thuận theo pháp tu của Bồ-tát Quán Thế Âm th́ sẽ được kết quả là thần thông tự tại, công đức rất lớn. Sở dĩ được như thế là do công hạnh tu Phản văn văn tự tánh, là xoay lại nghe tánh nghe của ḿnh, nghĩa là khi nghe âm thanh bên ngoài, không để tâm phân biệt chạy theo tiếng hay tiếng dở. Trái lại khi nghe âm thanh liền nhớ ḿnh có tánh nghe luôn luôn hiện hữu, không đuổi theo tiếng hay tiếng dở, tâm được thanh tịnh th́ trí tuệ hằng sáng soi, công đức đầy đủ, từ đó mà khởi phát diệu dụng. Đây là pháp tu chung ở cơi Ta-bà này nên nói là Phổ Môn. ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]