DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 15: TÙNG ĐỊA DŨNG XUẤT Tùng Địa Dũng Xuất nghĩa là từ đất vọt mạnh lên. Ư nói chư Bồ-tát từ dưới đất nứt vọt lên rất nhiều. Phẩm An Lạc Hạnh Phật dạy người tŕ kinh Pháp Hoa và truyền bá Pháp Hoa, phải tu bốn hạnh như đă nêu lên ở trước th́ mới được an lạc. V́ Phật khuyến khích chư Bồ-tát và tất cả chúng nên duy tŕ kinh Pháp Hoa, để cho chúng sanh cơi Ta-bà được biết và thọ tŕ, v́ vậy chư Bồ-tát phát nguyện thực hành. 1. CHÁNH VĂN : * Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ-tát ở cơi nước phương khác đông hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng đứng dậy chấp tay làm lễ mà bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Nếu bằng ḷng cho chúng con lúc sau khi Phật diệt độ ở tại cơi Ta-bà này siêng tu tinh tấn, giữ ǵn, đọc tụng, biên chép, cúng dường kinh điển này, thời chúng con sẽ ở trong cơi đây mà rộng nói đó.” Khi đó, Phật bảo các chúng đại Bồ-tát: “Thiện nam tử ! Thôi đi chẳng cần các ông hộ tŕ kinh này. V́ sao ? V́ cơi Ta-bà của ta tự có chúng đại Bồ-tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Mỗi vị Bồ-tát có sáu muôn Hằng hà sa quyến thuộc, những người đó có thể sau khi ta diệt độ hộ tŕ đọc tụng rộng nói kinh này.” GIẢNG : Phật khuyến khích các vị Bồ-tát nên duy tŕ kinh Pháp Hoa ở cơi Ta-bà, th́ chư Bồ-tát ở phương khác phát nguyện xin được ở cơi Ta-bà tinh tấn ǵn giữ, đọc tụng, biên chép, cúng dường kinh điển này, tại sao Phật lại từ chối ? V́ ở cơi Ta-bà số chúng Bồ-tát và quyến thuộc đông không thể tính đếm được, sau khi Phật diệt độ có thể hộ tŕ đọc tụng rộng nói kinh này. Như vậy, có phải Phật dành phần thọ tŕ truyền bá kinh Pháp Hoa cho chư Bồ-tát, đệ tử của Phật không ? 2. CHÁNH VĂN : * Lúc Phật nói lời đó, cơi Ta-bà trong tam thiên đại thiên cơi nước, đất đều rúng nứt, mà ở trong đó có vô lượng ngh́n muôn ức vị đại Bồ-tát đồng thời vọt ra. Các vị Bồ-tát đó thân đều sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt cùng vô lượng ánh sáng, trước đây đều ở dưới cơi Ta-bà này, cơi đó trụ giữa hư không. Các vị Bồ-tát đó nghe tiếng nói của đức Thích-ca Mâu-ni Phật nên từ dưới mà đến. Mỗi vị Bồ-tát đều là bậc đạo thủ trong đại chúng, đều đem theo sáu muôn Hằng hà sa quyến thuộc, huống là những vị đem năm muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một muôn Hằng hà sa quyến thuộc. Huống là nhẫn đến những vị đem một Hằng hà sa, nửa Hằng hà sa, một phần tư Hằng hà sa, nhẫn đến một phần trong ngh́n muôn ức na-do-tha phần Hằng hà sa quyến thuộc. Huống là những vị đem ngh́n muôn ức na-do-tha quyến thuộc, huống là đem ức muôn quyến thuộc, huống là đem ngh́n muôn trăm muôn nhẫn đến một muôn, huống là đem một ngh́n, một trăm nhẫn đến mười quyến thuộc, huống là đem năm, bốn, ba, hai, một người đệ tử. Huống lại là những vị riêng một ḿnh ưa hạnh viễn ly, số đông vô lượng vô biên dường ấy, tính đếm thí dụ chẳng có thể biết được. GIẢNG : Tới đây, lại có thêm những nghi vấn nữa là, tại sao chư Bồ-tát từ trong ḷng đất rúng nứt vọt lên trụ trong hư không. Nếu từ ḷng đất vọt lên th́ các Ngài không phải ở thế giới khác đến. Bồ-tát sao ở dưới đất nhiều vô số vậy ? Phần nhiều lấy số sáu để định lượng, như vậy có hàm súc ư nghĩa ǵ đặc biệt? 3. CHÁNH VĂN : * Các vị Bồ-tát đó từ dưới đất lên, đều đến nơi tháp đẹp bảy báu, chỗ của đức Đa Bảo Như Lai và Thích-ca Mâu-ni Phật, đến nơi rồi hướng về hai vị Thế Tôn mà đầu mặt lạy chân Phật, và đến chỗ các đức Phật ngồi trên ṭa sư tử dưới cội cây báu, cũng đều làm lễ. Đi quanh bên mặt ba ṿng, chấp tay cung kính, dùng các cách ngợi khen của Bồ-tát mà ngợi khen Phật, rồi đứng qua một phía, ưa vui chiêm ngưỡng hai đấng Thế Tôn. Từ lúc các vị đại Bồ-tát do từ dưới đất vọt lên dùng các cách ngợi khen của Bồ-tát mà khen ngợi Phật, thời gian đó trải qua năm mươi tiểu kiếp. Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật nín lặng ngồi yên, cùng hàng tứ chúng cũng đều nín lặng, năm mươi tiểu kiếp, v́ do sức thần của Phật, khiến hàng đại chúng cho là như nửa ngày. Bấy giờ, hàng tứ chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy các Bồ-tát đầy khắp vô lượng ngh́n muôn ức cơi nước hư không. GIẢNG : Đoạn này lại có thêm nghi vấn nữa là, chư vị Bồ-tát từ đất vọt lên đến đảnh lễ hai đức Phật, lễ xong th́ tán thán khen ngợi, tán thán khen ngợi xong mất một khoảng thời gian là năm mươi tiểu kiếp. Chúng ta thấy đức Phật Thích-ca từ khi giáng sinh đến khi Niết- bàn cho đến ngày nay chỉ có trên hai ngàn năm trăm năm (một tiểu kiếp bằng 16.800.000 năm) như vậy lẽ thật ở chỗ nào ? 4. CHÁNH VĂN : * Trong chúng Bồ-tát đó có bốn vị Đạo sư: 1.- Thượng Hạnh. 2.- Vô Biên Hạnh. 3.- Tịnh Hạnh. 4.- An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là bậc thượng thủ xướng Đạo sư trong chúng đó, ở trước đại chúng, bốn vị đồng chấp tay nh́n đức Thích-ca Mâu-ni Phật mà hỏi thăm rằng: “Thưa Thế Tôn có được ít bệnh, ít năo, an vui luôn chăng, những người đáng độ thọ giáo dễ chăng, chẳng làm cho đức Thế Tôn sanh mỏi nhọc chăng ?” Khi đó, bốn vị đại Bồ-tát nói kệ rằng: Thế Tôn được an vui Ít bệnh cùng ít năo, Giáo hóa các chúng sanh Được không mỏi nhọc ư ? Lại các hàng chúng sanh Thọ hóa có dễ chăng ? Chẳng làm cho Thế Tôn Sanh nhọc mệt đó ư ? GIẢNG : Trong chúng Bồ-tát có bốn vị lănh đạo là Thượng Hạnh, Vô Biên Hạnh, Tịnh Hạnh, An Lập Hạnh. Hạnh có nghĩa là hành. Tại sao bốn vị Bồ-tát này đều có tên chung là Hạnh ? Đây là phần ngộ Tri kiến Phật, tức là sống được với Tri kiến Phật. Người mà sống được với Tri kiến Phật, là đă thực hành đầy đủ công hạnh của bậc Bồ-tát, hoặc là hạnh bậc thượng, hoặc là hạnh vô biên, hoặc là hạnh thanh tịnh, hoặc là hạnh an lập. Những hạnh đó giúp cho người ngộ được Tri kiến Phật thoát khỏi phiền năo trần lao, cũng như những Bồ-tát từ đất vọt lên giữa hư không. 5. CHÁNH VĂN : * Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn ở trong đại chúng Bồ-tát mà nói rằng: “Đúng thế ! Đúng thế ! Các thiện nam tử ! Đức Như Lai an vui, ít bệnh, ít năo, các hàng chúng sanh hóa độ được dễ, không có nhọc mệt. V́ sao ? V́ các chúng sanh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thường được ta dạy bảo, mà cũng từng ở nơi các đức Phật quá khứ, cung kính, tôn trọng, trồng các cội lành. Các chúng sanh đó mới vừa thấy thân ta, nghe ta nói pháp, liền đều tin nhận, vào được trong huệ của Như Lai; trừ người trước đă tu tập học hạnh Tiểu thừa; những người như thế ta cũng khiến được nghe kinh này, vào trong huệ của Phật.” Lúc ấy, các vị đại Bồ-tát nói kệ rằng: Hay thay ! Hay thay ! Đức Đại Hùng Thế Tôn Các hàng chúng sanh thảy Đều hóa độ được dễ Hay hỏi các đức Phật Về trí huệ rất sâu Nghe pháp rồi tin làm Chúng con đều tùy hỉ. Khi đó, đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ- tát thượng thủ: “Hay thay ! Hay thay ! Thiện nam tử ! Các ông có thể đối với đức Như Lai mà phát ḷng tùy hỉ.” GIẢNG : Đức Phật nhận rằng Ngài được cảnh thuận lợi nên giáo hóa dễ dàng cùng khắp không bỏ sót một ai. Phẩm này nằm trong phần Thị và Ngộ Tri kiến Phật. Phật chỉ cho chúng sanh nhận ra Tri kiến Phật. Song, Tri kiến Phật th́ không có h́nh tướng, đă không h́nh tướng làm sao chỉ được ? V́ vậy, mà Phật dùng những h́nh ảnh biểu trưng, để người được chỉ nhận ra nơi ḿnh có sẵn Tri kiến Phật. Thế nên, ở đây mượn h́nh ảnh chư Bồ-tát từ ḷng đất vọt lên. H́nh ảnh này nói lên ư nghĩa ǵ ? Trong quyển Góp Nhặt Cát Đá của thiền sư Muju, do Đỗ Đ́nh Đồng dịch có kể câu chuyện tên Giáo Lư Thượng Thừa: Có một anh chàng mù đi thăm người bạn thân, v́ là bạn thân nên khi gặp nhau nói chuyện quên ngày giờ. Nói măi tới khuya, anh mù từ giă ra về. Anh bạn sáng mắt mới đốt cây đèn lồng đưa cho anh mù cầm đi đường. Anh mù cười nói: - Đối với tôi, đêm như ngày, ngày như đêm, đốt đèn làm ǵ ? Anh bạn sáng mắt giải thích: - Anh hăy cầm cây đèn, người ta thấy anh, họ tránh, không đụng anh. Anh bạn mù nghe nói có lư, nên nhận cây đèn lồng cầm đi về. Đi được nửa đường th́ anh bị người đụng, anh la lên: - Anh không thấy tôi sao ? Người đi đường nói: - Thưa, tôi không thấy anh. Anh mù trách: - Tôi cầm cây đèn đây mà anh không thấy à? Người đi đường đáp: - Thưa bạn, cây đèn bạn đă tắt tự bao giờ ! Câu chuyện rất đơn giản thông thường, sao gọi là Giáo Lư Thượng Thừa ? Trong nhà Phật, Trí được chia làm hai loại: Trí hữu sư và Trí vô sư. Trí hữu sư là sự hiểu biết do nghe học ở sách vở, ở các bậc thiện tri thức chỉ dạy, nhờ đó mà được sáng. Trí vô sư là cái biết có sẵn nơi ḿnh, không do học hỏi ở người hay sách vở, mà do tu hành, phiền năo lóng lặng tâm thanh tịnh, trí tuệ phát sáng, thấy biết đúng như thật. Trọng tâm kinh Pháp Hoa là khai thị Tri kiến Phật ở nơi mỗi người, để rồi mỗi người tự ngộ nhập Tri kiến Phật của chính ḿnh. Câu chuyện Giáo Lư Thượng Thừa nói lên ư nghĩa: Trí vô sư là cái có sẵn nơi ḿnh, khi nó phát sáng th́ thấy biết các pháp đúng như thật không lầm, tránh khỏi mọi tai ách khốn khổ và đi đúng đích. Nếu trí tuệ chưa sáng dù người khác có muốn giúp cũng không giúp được, ngay cả Bồ-tát hay Phật cũng không giải cho ḿnh thoát khỏi ách nạn, sanh tử luân hồi. Thế nên, Trí vô sư là trí thiết yếu, mà mỗi người chúng ta cần phải phát minh. Người phát minh được Trí vô sư phải là bậc Thượng thừa mới thực hiện nổi, chớ hạng tầm thường th́ không kham được. Xưa ngài Đức Sơn là người tinh thông Kinh Luật, từng giải kinh Kim Cang, nghe phương Nam Thiền tông thạnh hành, Sư bất b́nh nói: “Kẻ xuất gia ngàn muôn kiếp học oai nghi tế hạnh của Phật mà chẳng được thành Phật. Những kẻ ma ở phương Nam dám nói trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành Phật. Ta phải ruồng tận hang ổ của chúng, diệt hết những giống ấy để đền ơn Phật.” Sư bèn khăn gói lên đường mang theo bộ Thanh Long Sớ Sao. Trên đường đi gặp bà già bán bánh, Sư bèn nghỉ chân bảo bà lấy ít bánh điểm tâm. Bà chỉ gánh kinh của Sư hỏi: - Gói ấy là sách vở ǵ ? Sư bảo: - Thanh Long Sớ Sao. Bà hỏi: - Thầy thường giảng kinh ǵ ? Sư đáp: - Kinh Kim Cang. Bà nói: - Tôi có một câu hỏi, nếu Thầy đáp được, tôi xin cúng dường bánh điểm tâm. Bằng đáp chẳng được, mời Thầy đi nơi khác. Sư nhận lời. Bà hỏi: - Kinh Kim Cang nói: “Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.” Xin hỏi Thượng tọa điểm tâm nào ? Sư không đáp được bèn lên đường đi Long Đàm. Đến pháp đường gặp Long Đàm, Sư nói: - Lâu nay nghe danh Long Đàm, đi đến nơi, đàm chẳng thấy mà long cũng không hiện. Sùng Tín bảo: - Ngươi đă gần đến Long Đàm. Sư không đáp được, liền dừng lại đây. Một đêm Sư đứng hầu, Sùng Tín bảo: - Đêm đă khuya sao chẳng xuống ? Sư kính chào bước ra, lại trở vào, thưa: - Bên ngoài trời tối đen. Sùng Tín thắp đèn đưa Sư, Sư toan tiếp lấy, Sùng Tín liền thổi tắt. Ngay đó Sư đại ngộ, liền lễ bái. Sùng Tín hỏi: - Ngươi thấy cái ǵ ? Sư thưa: - Từ nay về sau chẳng c̣n nghi lời nói chư lăo Ḥa thượng trong thiên hạ. Đức Sơn ngộ cái ǵ ? Sư nói bên ngoài trời tối đen. Câu ấy chỉ trời tối mà cũng ngụ ư nói con đang mù mịt, không biết làm sao ngộ được bản tánh của ḿnh. Đức Sơn than tối, Sùng Tín cho đèn, nhưng Đức Sơn vừa cầm đèn th́ Sùng Tín liền thổi tắt. Tại sao ? V́ người tối dù cho có đèn cũng không thấy cũng không cứu cho được sáng. Khi Sùng Tín thổi tắt đèn, Đức Sơn mới chợt thấy rằng cái sáng phải tự nơi ḿnh phát ra, chứ không phải từ người khác cho mà được, nên ngay đó đại ngộ. Chúng ta thấy lư Thiền cùng với lư kinh Đại thừa rất gần nhau. Câu chuyện sau đây cũng nói lên ư nghĩa này. Tuyết Phong và Nham Đầu là hai huynh đệ cùng học ở Đức Sơn, Nham Đầu đă đạt được lư Thiền, Tuyết Phong th́ c̣n băn khoăn. Một hôm hai vị cùng đi đến Ngao Sơn, gặp trời trở tuyết nên dừng lại, Nham Đầu mỗi ngày cứ ngủ, Tuyết Phong một bề ngồi thiền. Một hôm Sư gọi: - Sư huynh, Sư huynh hăy dậy. Nham Đầu hỏi: - Làm cái ǵ ? Sư nói: - Đời nay chẳng giải quyết xong, lăo Văn Thúy đi hành khước đến nơi chốn, bị y chê cười, từ ngày đến đây sao chỉ lo ngủ ? Nham Đầu nạt: - Ngủ đi ! Mỗi ngày ngồi trên giường giống như thổ địa, ngày sau c̣n làm mê hoặc người. Sư chỉ trong ngực nói: - Tôi trong ấy c̣n chưa ổn, không dám tự dối. - Nếu thật như thế, cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông qua, chỗ phải tôi sẽ chứng minh cho ông, chỗ chẳng phải tôi sẽ v́ ông đuổi dẹp. - Khi tôi mới đến Diêm Quan, nghe nói nghĩa sắc không liền được chỗ vào. - Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến. Lạ chưa, ngộ được lư Sắc Không là quá hay, tại sao kỵ ba mươi năm không cho nói đến ? - V́ ngộ lư Sắc Không chỉ là cửa không ở ngoài, chưa vào nhà. Nếu lấy đó cho là đủ th́ bệnh. Tuyết Phong lại nói: - Tôi nghe bài kệ qua sông của ngài Động Sơn, ngay đó tôi liền tỉnh. Ngài Động Sơn Lương Giới đang đi trên cầu nh́n xuống thấy bóng ḿnh ở dưới sông, ngay đó Ngài làm bài kệ diễn đạt cái ngộ của Ngài. Sau này Tuyết Phong đọc có tỉnh ngộ. Khi thuật lại giai thoại này th́ Nham Đầu nói: - Nếu thế ấy tự cứu cũng chưa xong. Tuyết Phong lại nói thêm: - Sau, hỏi Đức Sơn: Việc Tông thừa tự trước con có phần chăng ? Đức Sơn đánh một gậy hỏi: Nói cái ǵ ? Tôi khi đó giống như thùng lủng đáy. Thùng lủng đáy là ngộ suốt rồi. Vậy mà Nham Đầu nạt: - Ông chẳng nghe nói “từ cửa vào chẳng phải của báu trong nhà” ? Trí vô sư là cái có sẵn nơi ḿnh, không phải từ cửa vào, dù chúng ta hỏi, thiện tri thức tạo duyên cho chúng ta ngộ, ngộ đó là cái duyên bên ngoài chưa phải là của báu trong nhà, nó là của người ta, không phải của ḿnh. Câu chuyện này cho chúng ta thấy rơ Trí hữu sư là cái biết từ ngoài huân vào, giống như của báu ở bên ngoài. C̣n Trí vô sư là của báu ở trong nhà, chỉ cần khai thác là phát sáng, giống như ḥn ngọc quí để trong tủ, chỉ cần mở tủ ra là có của báu, không cần t́m kiếm ở đâu xa. Tuyết Phong mới hỏi: - Về sau làm thế nào mới phải ? Nham Đầu đáp: - Về sau nếu muốn xiển dương đại giáo, mỗi mỗi từ trong hông ngực ḿnh lưu xuất, sau này cùng ta che trời che đất đi ! Từ trong hông ngực ḿnh lưu xuất, tức là từ trong cái thân ngũ uẩn này mà phát ra chớ không phải ở ngoài vào. Qua ba câu chuyện vừa nêu, chúng ta hiểu được ư nghĩa của phẩm này. Bồ-tát nghĩa là tự giác và giác tha, mà giác là biết là trí, Bồ-tát ở tha phương là chỉ cho trí tuệ của người khác mà ḿnh huân tập, là của báu ở bên ngoài, không phải của ḿnh, th́ không thể thọ tŕ kinh Pháp Hoa được nên Phật không nhận, mà chỉ nhận những vị Bồ-tát từ ḷng đất vọt lên. Đấy là h́nh ảnh biểu trưng Trí vô sư tự nơi thân ngũ uẩn phát ra, chính là của ḿnh, nó không sanh không diệt, mới có thể duy tŕ truyền bá kinh Pháp Hoa, tức là thể nhập Trí tuệ Phật. Trở về nguồn, giai đoạn đầu thái tử Sĩ-đạt-ta xuất gia học đạo với Alàràma Kàlàma, tu chứng từ Sơ thiền đến Vô sở hữu xứ định. Qua Uddaka Ràmaputta, tu chứng được Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Tuy đă chứng được tám bậc thiền định ấy mà Ngài chưa thỏa măn. Tại sao ? V́ mục đích Ngài xuất gia là t́m ra manh mối của luân hồi sanh tử, mà con người ai cũng chấp nhận nó như một lẽ đương nhiên, không hề có ư muốn thoát ra cái ṿng luẩn quẩn đó. Chí nguyện chưa đạt được, nên Ngài tới cội cây bồ-đề xếp chân ngồi, phát nguyện: “Nếu không thấy được chân lư, dù cho tan thân mất mạng cũng không đứng dậy.” Thế là suốt bốn mươi chín ngày đêm thiền quán, Ngài chứng ngộ thấy rơ manh mối của luân hồi sanh tử, và biết cách thoát ly ra khỏi sanh tử. Nên nói Ngài thành Phật. Như vậy, Phật thấy biết manh mối luân hồi sanh tử, ai dạy Ngài ? Rơ ràng Trí vô sư có sẵn nơi Ngài hiển hiện tṛn sáng, Ngài thấy biết tất cả. Nên Ngài tuyên bố Ngài học đạo không có thầy. Nếu Ngài thỏa măn với tám tầng thiền của Alàràma Kàlàma và Uddaka Ràmaputta th́ Ngài học đạo có thầy. Nhưng điều Ngài muốn khám phá th́ không ai chỉ dạy, mà do chính Ngài tu thiền định, tâm thanh tịnh trí tuệ sáng ra, thông suốt các pháp không c̣n nghi ngờ. Đó là Trí Vôâ sư không sanh không diệt hiển hiện nơi Ngài, nêân Ngài thoát khỏi luân hồi sanh tử. C̣n Trí hữu sư do huân tập từ bên ngoài mà được, do huân tập nên động, do động nên sinh diệt, c̣n sinh diệt nên chưa thoát khỏi sanh tử luân hồi. Vậy, thọ tŕ kinh Pháp Hoa là thọ tŕ Tri kiến Phật, để được thành Phật. Điều này nói ra th́ khó tin, kỳ thật rơ ràng là vậy, v́ chính bản thân tôi đă nghiệm thấy điều này. Xưa, tôi làm Tri tạng ở Ấn Quang nên đọc hết Đại tạng, đọc tới kinh Đại thừa và ngữ lục của thiền sư, tôi không hiểu ǵ cả, thầm tự nói rằng ḿnh không có phần với Đại thừa với Thiền tông. Nhưng qua một thời gian tu, tâm được yên, một hôm bất chợt đọc qua những câu kinh luận mà ngày xưa không hiểu nay hiểu dễ dàng. Từ đó tôi đem Đại tạng, ngữ lục của thiền sư ra đọc, đọc tới đâu hiểu tới đó, hiểu rơ như ban ngày. Vậy lúc đó tôi học với ai ? Rơ ràng chính khi tâm an định th́ trí tuệ phát sáng, đó là Trí vô sư có sẵn ở mỗi người. Tuy nhiên, chỉ lóe sáng chút thôi, v́ sức định của tôi chưa sâu, nếu định sâu th́ hoàn toàn sáng như Phật. Trí vô sư ai ai cũng có, chỉ v́ vô minh phiền năo phủ che nên không sáng. Phá được vô minh th́ ngay nơi mỗi người trí tuệ hiện sáng. V́ vậy mà nói Thượng thừa hay Phật thừa, cốt làm sao cho trí tuệ từ nơi ḿnh phát sáng, chớ không phải huân tập sự hiểu biết từ bên ngoài vào, đó là điều thiết yếu của người tu. Có nhiều vị tu sĩ học giỏi, nhớ kinh điển nhiều, nói pháp hay, nhưng không bao lâu cởi áo hoàn tục lập gia đ́nh, lắm người thắc mắc: Thầy đó thông minh, rất thông hiểu Phật pháp, nhưng tại sao bỏ tu cởi áo hoàn tục ? Điều này không có ǵ lạ, sự hiểu biết mà vị sư ấy có là do huân tập của người, nó là cái động luôn luôn sinh diệt. Cái vay mượn của người không phải của báu trong nhà, nên không thể cứu được ḿnh. Khi nào Trí vô sư phát sáng th́ mới cứu được ḿnh. V́ vậy nên ở đây các vị Bồ-tát đều có tên là Hạnh tức là phải thực hành, th́ Trí vô sư mới hiện. Ở đây cái không thể chỉ được, mà Phật đă khéo dùng h́nh ảnh biểu trưng, để cho chúng ta nhân h́nh ảnh đó mà nhận ra cái Phật muốn chỉ. Cũng vậy, trong nhà Thiền, các thiền sư cũng áp dụng thuật này, nhờ tu thiền mà chúng ta sáng được lư kinh. Thế nên, ngài Khuê Phong nói “nhân tu thiền mà sáng được kinh, nhờ học kinh mà rơ được thiền”, thiền giáo hỗ tương nhau. Vậy kinh Pháp Hoa có dạy tu thiền không ? Rơ ràng nhắm thẳng Trí vô sư có sẵn nơi mỗi người, mà khai thác bằng phương tiện tu thiền định, để cho sáng tỏ. Tuy nhiên, đối với người chưa phát minh được Trí vô sư th́ phải học. Đầu tiên phải nhờ thầy hướng dẫn phương pháp ban đầu, trước tạm dùng Trí hữu sư, rồi sau đó mới ứng dụng tới chỗ tột đỉnh; cái tột đỉnh đó là của ḿnh không phải là cái của thầy dạy. 6. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ, ngài Di-lặc đại Bồ-tát cùng tám ngh́n Hằng hà sa các chúng Bồ-tát đều nghĩ rằng: “Chúng ta từ xưa nhẫn lại, chẳng thấy, chẳng nghe các chúng đại Bồ-tát như thế, từ dưới đất vọt lên, đứùng trước đức Thế Tôn, chấp tay cúng dường thăm hỏi Như Lai.” Lúc đó, ngài Di-lặc Bồ-tát biết tâm niệm của tám ngh́n Hằng hà sa chúng Bồ-tát, cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của ḿnh, bèn chấp tay hướng về phía Phật, nói kệ hỏi rằng: Vô lượng ngh́n muôn ức Các Bồ-tát đại chúng Từ xưa chưa từng thấy Nguyện đấng Lưỡng Túc nói Là từ chốn nào đến Do nhân duyên ǵ nhóm Thân lớn đại thần thông Trí huệ chẳng nghĩ bàn Chí niệm kia bền vững Có sức nhẫn nhục lớn Chúng sanh chỗ ưa thấy Là từ chốn nào đến ? Mỗi mỗi hàng Bồ-tát Đem theo các quyến thuộc Số đông không thể lường Như số Hằng hà sa Hoặc có đại Bồ-tát Đem sáu muôn Hằng sa Các đại chúng như thế Một ḷng cầu Phật đạo. Những Đại sư đó thảy Sáu muôn Hằng hà sa Đều đến cúng dường Phật Cùng hộ tŕ kinh này. Đem năm muôn Hằng sa Số này hơn số trên Bốn muôn và ba muôn Hai muôn đến một muôn Một ngh́n một trăm thảy, Nhẫn đến một Hằng sa, Nửa và ba bốn phần Một phần trong ức muôn Ngh́n muôn na-do-tha, Muôn ức các đệ tử Nhẫn đến đem nửa ức Số đông lại hơn trên. Trăm muôn đến một muôn Một ngh́n và một trăm Năm mươi cùng một mươi Nhẫn đến ba, hai, một Riêng ḿnh không quyến thuộc Ưa thích ở riêng vắng Đều đi đến chỗ Phật Số đây càng hơn trên. Các đại chúng như thế Nếu người phát thẻ đếm Quá nơi kiếp Hằng sa C̣n chẳng thể biết hết. Các vị oai đức lớn Chúng Bồ-tát tinh tấn Ai v́ đó nói pháp Giáo hóa cho thành tựu Từ ai, đầu phát tâm ? Xưng dương Phật pháp nào ? Thọ tŕ tu kinh ǵ ? Tu tập Phật đạo nào ? Các Bồ-tát như thế Thần thông sức trí lớn Đất bốn phương rúng nứt Đều từ đất vọt lên Thế Tôn ! Con từ xưa Chưa từng thấy việc đó Xin Phật nói danh hiệu, Cơi nước của kia ở. Con thường qua các nước Chưa từng thấy chúng này Con ở trong chúng đây Bèn chẳng biết một người Thoạt vậy từ đất lên Mong nói nhân duyên đó. Nay trong đại hội này Vô lượng trăm ngh́n ức Các chúng Bồ-tát đây Đều muốn biết việc này Hàng Bồ-tát chúng kia Gốc ngọn nhân duyên đó Thế Tôn đức vô lượng Cúi mong quyết ḷng nghi. GIẢNG : Khi thấy vô số Bồ-tát từ đất vọt lên hư không, đứng trước đức Thế Tôn chấp tay cúng dường thăm hỏi Như Lai, th́ Bồ-tát Di-lặc và tám ngàn Bồ-tát ở phương khác khởi nghi, nên thưa thỉnh Phật giải nghi. Như trước đă nói, Di-lặc Bồ-tát biểu trưng cho thức, và tám ngàn vị Bồ-tát ở phương khác biểu trưng cho cái biết phân biệt của tám thức ở bên ngoài. V́ là thức nên không thể nhận ra Tri kiến Phật. Nên mới nghi và thưa hỏi Phật. Tại sao thức cũng gọi là Bồ-tát ? V́ thức nào cũng có tri giác, song v́ c̣n phân biệt cho nên gọi là thức. Nếu hết niệm phân biệt, chỉ c̣n tri giác thanh tịnh th́ gọi là trí, đă là trí th́ không nghi ngờ không thưa hỏi. 7. CHÁNH VĂN : * Khi ấy, các vị Phật của đức Thích-ca Mâu-ni phân thân, từ vô lượng ngh́n muôn ức cơi nước ở phương khác đến, ngồi xếp bằng trên ṭa sư tử, dưới các cội cây báu nơi trong tám phương. Hàng thị giả của Phật đó, đều thấy đại chúng Bồ-tát ở bốn phương cơi tam thiên đại thiên, từ đất vọt lên trụ trên hư không, đều bạch với Phật ḿnh rằng: “Thế Tôn ! Các đại chúng vô lượng vô biên a-tăng-kỳ Bồ-tát đó, từ chốn nào mà đến ?” Lúc ấy các đức Phật đều bảo thị giả: “Các thiện nam tử ! Hăy chờ giây lát, hiện có vị đại Bồ-tát tên là Di-lặc, là vị mà đức Thích-ca Mâu-ni Phật thọ kư kế đây sẽ làm Phật đă hỏi việc đó, đức Phật sẽ đáp, các ông tự đương, nhân đây mà được nghe.” GIẢNG : Tôi lặp lại, Di-lặc biểu trưng cho thức, v́ là thức phân biệt nên không hiểu được Tri kiến Phật. Và Phật hóa thân, Bồ-tát hóa thân th́ không thật, bởi không thật nên không biết được Tri kiến Phật nên mới nghi và thưa hỏi. Trí vô sư biểu trưng qua h́nh ảnh Bồ-tát, không hạn cuộc bởi thời gian và không gian, nói lâu mau hay nói nhỏ lớn đều không khác. V́ vậy mà ở đây nói các vị Bồ-tát vọt lên hư không đông vô số đầy khắp mười phương, tán thán Phật lâu khoảng năm mươi tiểu kiếp... đó là để nói Trí vô sư không h́nh tướng, không bị vô thường sinh diệt chi phối, nên hóa thân Phật, hóa thân Bồ-tát không thể hiểu tới. 8. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ đức Thích-ca Mâu-ni Phật bảo ngài Di-lặc Bồ-tát: “Hay thay ! Hay thay ! A-dật-đa, bèn có thể hỏi Phật việc lớn như thế, các ông phải chung một ḷng, mặc giáp tinh tấn, phát ư bền vững. Nay đức Như Lai muốn hiển phát tuyên bày trí huệ của các đức Phật, sức thần thông tự tại của các đức Phật, sức sư tử mạnh nhanh của các đức Phật, sức oai thế mạnh lớn của các đức Phật.” Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Phải một ḷng tinh tấn Ta muốn nói việc này Chớ nên có nghi hối Trí Phật chẳng nghĩ bàn Ông nay gắng sức tin Trụ nơi trong nhẫn thiện Chỗ pháp xưa chưa nghe Nay đều sẽ được nghe Nay ta an ủi ông Chớ ôm ḷng nghi sợ Phật không lời chẳng thiệt Trí huệ chẳng nghĩ bàn Phật được pháp bậc nhứt Rất sâu khó phân biệt Như thế nay sẽ nói Các ông một ḷng nghe. GIẢNG : Phật nói Bồ-tát Di-lặc nghi ngờ muốn hiểu, đó là điều đáng khen. Nhưng nếu muốn biết việc đó trước phải tinh tấn, phải phát ư bền vững mới có thể nghe hiểu được. V́ Như Lai muốn hiển phát tuyên bày trí tuệ, sức thần thông tự tại, sức sư tử mạnh nhanh, sức oai thế mạnh lớn của Phật. Việc này của Phật chỉ có Trí vô sư khi đă sạch vô minh phiền năo mới có thể hiểu tới. 9. CHÁNH VĂN : * Khi đức Thế Tôn nói kệ đó, bảo ngài Di-lặc Bồ-tát: “Nay ta ở trong đại chúng này, tuyên bảo các ông. A-dật-đa ! Các hàng đại Bồ-tát vô lượng vô số a-tăng-kỳ, từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cơi Ta-bà lúc được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, giáo hóa chỉ dẫn các Bồ-tát đó, điều phục tâm kia khiến phát đạo tâm. Các vị Bồ-tát đó, ở phía dưới cơi Ta-bà, cơi đó trụ giữa hư không, ở trong các kinh điển đọc tụng thông lẹ, suy gẫm rơ hiểu, nghĩ tưởng chân chánh. A-dật-đa ! Các thiện nam tử đó chẳng thích ở trong chúng nhiều nói bàn, thường ưa chỗ vắng, siêng tu tinh tấn, chưa từng thôi dứt. Cũng chẳng nương tựa người trời mà ở, thường ham trí huệ sâu, không có chướng ngại, cũng thường ham nơi pháp của đức Phật, chuyên ḷng tinh tấn, cầu huệ Vô thượng.” Lúc đó, đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: A-dật ông nên biết ! Các Bồ-tát lớn này Từ vô số kiếp lại Tu tập trí huệ Phật, Đều là ta hóa độ Khiến phát đại đạo tâm. Chúng đó là con ta Y chỉ thế giới này Thường tu hạnh đầu-đà Chí thích ở chỗ vắng Bỏ đại chúng ồn náo Chẳng ưa nói bàn nhiều, Các vị đó như thế Học tập đạo pháp ta Ngày đêm thường tinh tấn V́ để cầu Phật đạo Ở phương dưới Ta-bà Trụ giữa khoảng hư không Sức chí niệm bền vững Thường siêng cầu trí huệ Nói các món pháp mầu Tâm kia không sợ sệt. Ta ở thành Già-da Ngồi dưới cội bồ-đề Thành bậc tối Chánh giác Chuyển pháp luân Vô thượng Rồi mới giáo hóa đó Khiến đầu phát đạo tâm Nay đều trụ bất thoái Đều sẽ được thành Phật. Nay ta nói lời thiệt Các ông một ḷng tin Ta từ lâu xa lại Giáo hóa các chúng đó. GIẢNG : Ở đây diễn tả các vị Bồ-tát ở phía dưới cơi Ta-bà trụ giữa hư không, đọc tụng thông lẹ, suy gẫm rơ hiểu, nghĩ tưởng chân chánh, không thích ở trong chúng nói bàn nhiều, ưa chỗ thanh vắng... Rơ ràng là chỉ tâm hạnh của người tu, Trí vô sư có sẵn nơi mỗi người, nó không có tướng mạo, không có dấu vết, khi vô minh phiền năo dấy khởi th́ có tướng mạo có vết tích, khi vô minh phiền năo lặng xuống và hết sạch th́ Trí vô sư sáng ra mà không h́nh tướng không dấu vết. V́ vậy nên nói ở giữa hư không dưới cơi Ta-bà. Đó là biểu trưng Trí vô sư ẩn dưới lớp vô minh phiền năo; nó không h́nh tướng mà không phải không. Và muốn cho Trí vô sư phát sáng th́ phải phá vô minh phiền năo, vô minh phiền năo mà được dứt trừ là phải nhờ an định. Nên nói không ưa chỗ chúng đông nói bàn nhiều, thích ở chỗ thanh vắng, và siêng năng tinh tấn chưa từng thôi dứt. Không nương tựa ở trời người, chỉ mong cầu trí tuệ Vô thượng tức là trí tuệ Phật. Đó là diễn tả tâm hạnh của Bồ-tát. Muốn được trí tuệ Phật là phải thiền định để phá dẹp vô minh phiền năo và hằng sống với trí tuệ Phật của chính ḿnh. Trong luận Đại Thừa Khởi Tín, ngài Mă Minh tŕnh bày về phần tịnh huân giống như trên. Nghĩa là do pháp thân thanh tịnh làm gốc, tịnh huân dần dần cho đến khi viên măn th́ phá sạch vô minh phiền năo, liền phát ra vô số diệu dụng. Đó là h́nh ảnh đức Phật giáo hóa vô số Bồ-tát từ dưới đất vọt lên giữa hư không. Các vị Bồ-tát là chỉ cho cái tịnh huân đă viên măn, th́ lúc đó diệu dụng của trí tuệ không thể nghĩ bàn. 10. CHÁNH VĂN : * Lúc bấy giờ, ngài Di-lặc đại Bồ-tát cùng vô số chúng Bồ-tát, ḷng sanh nghi hoặc, lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ rằng: “Thế nào đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các đại Bồ-tát đó, làm cho trụ nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.” Liền bạch Phật rằng: “Thế Tôn ! Đức Như Lai lúc làm thái tử rời khỏi cung ḍng Thích, ngồi nơi đạo tràng cách thành Già-da chẳng bao xa, được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm, đức Thế Tôn thế nào ở trong thời gian ngắn đó làm nên Phật sự lớn ! Do thế lực của Phật, do công đức của Phật, giáo hóa vô lượng chúng Bồ-tát lớn, như thế sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thế Tôn ! Chúng đại Bồ-tát này giả sử có người trong ngh́n muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng được ngằn mé, chúng đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, trồng các cội lành, thành tựu đạo Bồ-tát, thường tu phạm hạnh. Thế Tôn ! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người sắc đẹp, tóc đen tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó là con của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gă tuổi nhỏ, nói là cha ta, đẻ nuôi ta thảy, việc đó khó tin. Đức Phật cũng như thế. Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thiệt chưa bao lâu, mà các đại chúng Bồ-tát đó, đă ở nơi vô lượng ngh́n muôn ức kiếp, v́ Phật đạo nên siêng tu tinh tấn, khéo nhập xuất trụ nơi vô lượng ngh́n muôn ức tam-muội, được thần thông lớn, tu hạnh thanh tịnh đă lâu, khéo hay thứ đệ tập các pháp lành, giỏi nơi vấn đáp, là báu quí trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có. Ngày nay đức Thế Tôn mới nói, lúc được Phật đạo, bắt đầu khiến kia phát tâm, giáo hóa chỉ dạy d́u dắt, làm cho kia hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu mà có thể làm được việc công đức lớn này. Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từng hư vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt, nhưng các Bồ-tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời này hoặc chẳng tin nhận, sanh nhân duyên tội nghiệp phá chánh pháp. Kính thưa Thế Tôn ! Mong v́ chúng giải nói trừ ḷng nghi của chúng con và các thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi cũng chẳng sanh nghi.” Lúc đó, ngài Di-lặc muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: Phật xưa từ ḍng Thích Xuất gia gần Già-da Ngồi dưới cây bồ-đề Đến nay c̣n chưa xa. Các hàng Phật tử này Số đông không thể lường Lâu đă tu Phật đạo Trụ nơi sức thần thông Khéo học đạo Bồ-tát Chẳng nhiễm pháp thế gian Như hoa sen trong nước Từ đất mà vọt ra Đều sanh ḷng cung kính Đứng nơi trước Thế Tôn, Việc đó khó nghĩ bàn Thế nào mà tin được Phật được đạo rất gần Chỗ thành tựu rất nhiều Mong v́ trừ ḷng nghi Như thiệt phân biệt nói Thí như người trẻ mạnh Tuổi mới hai mươi lăm Chỉ người trăm tuổi già Tóc bạc và mặt nhăn: Bọn này của ta sanh Con cũng nói là cha Cha trẻ mà con già Mọi người đều chẳng tin. Thế Tôn cũng như thế Được đạo đến nay gần Các chúng Bồ-tát này Chí vững không khiếp nhược Từ vô lượng kiếp lại Mà tu đạo Bồ-tát. Giỏi nơi gạn hỏi đáp Tâm kia không sợ sệt Nhẫn nhục ḷng quyết định Đoan chánh có oai đức Mười phương Phật khen ngợi Khéo hay phân biệt nói Chẳng thích ở trong chúng Thường ưa ở thiền định, V́ cầu Phật đạo vậy Trụ hư không phương dưới. Chúng con từ Phật nghe Nơi việc này không nghi Nguyện Phật v́ người sau Diễn nói khiến rơ hiểu, Nếu người ở kinh này Sanh nghi ḷng chẳng tin Liền phải đọa đường dữ Mong nay v́ giải nói: Vô lượng Bồ-tát đó Thế nào thời gian ngắn Giáo hóa khiến phát tâm Mà trụ bậc bất thoái ? GIẢNG : Bồ Tát Di-lặc nghi: Từ khi Phật Thích-ca thành đạo đến giờ, Ngài giáo hóa khoảng hơn bốn mươi năm, thời gian quá ngắn sao Ngài giáo hóa vô số Bồ-tát đă tu nhiều kiếp và làm cho các Bồ-tát thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ? Đây là điều không thể tin. Ngài nêu lên một ví dụ người thanh niên hai mươi lăm tuổi chỉ ông già một trặm tuổi nói: đây là con của ta, và ông già một trăm tuổi nhận thanh niên hai mươi lăm tuổi là cha ḿnh. Điều này căn cứ vào đâu mà tin được ? Từ lâu chúng ta quen nh́n và xét đoán sự việc qua h́nh tướng của tứ đại giả hợp, chớ không khéo nh́n đúng lẽ thật. Ngay nơi thân năm uẩn của Phật Thích-ca, cũng như thân năm uẩn của mỗi người chúng ta là do duyên hợp tạm có. Nhưng ngay nơi thân tạm bợ đó có sẵn Trí vô sư không sanh không diệt, mà ít ai biết rằng ḿnh có. Chúng ta tu tâm thanh tịnh, sạch vô minh phiền năo th́ Trí vô sư hiển lộ. Nên nói các vị Bồ-tát do Phật giáo hóa mà được. V́ Trí vô sư đă có sẵn từ thuở nào, nên nói già lâu. Nếu căn cứ nơi thân tứ đại Phật Thích-ca tám mươi năm thị tịch với Trí vô sư th́ hai cái khác xa. V́ vậy mà không thể tin được, bởi không tin được nên mới nêu ví dụ cha trẻ con già để phủ nhận. Tuy nhiên, điều này không có ǵ lạ. Nếu căn cứ trên giới thân tuệ mạng, th́ có nhiều người tuy thân già mà mới tu, giới đức trí tuệ c̣n non kém, phải theo làm đệ tử với một vài vị tu sĩ thân c̣n trẻ mà đức trí khá sâu dày và gọi bằng Thầy xưng bằng con. Đó là dựa trên trí đức mà đối xử. Để thấy rơ câu chuyện này cốt làm sáng tỏ Bồ-tát từ đâu mà ra, tại sao mà có ? Ở đây Phật trả lời do Ngài giáo hóa, tức là phải đoạn tận vô minh phiền năo th́ Trí vô sư hiển hiện. Câu hỏi của Bồ-tát Di-lặc được Phật trả lời ở phẩm sau. Thường trụ đây nói pháp. Ta thường ở nơi đây ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]