DIỆU PHÁP LIÊN HOA GIẢNG GIẢI
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]
PHẨM 11: HIỆN BẢO THÁP Như tôi đă nói mục đích Phật nói kinh Pháp Hoa là để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri kiến Phật. Phẩm Tựa nói tổng quát trọn bộ kinh. Từ phẩm Phương Tiện đến phẩm Pháp Sư là phần khai Phật tri kiến. Những phẩm này Phật dùng những phương tiện thực tế, cũng như các đệ tử Phật dùng những thí dụ cụ thể nói lên chỗ nhận hiểu của các Ngài, để minh chứng rằng các Ngài đă tin nhận nơi ḿnh có sẵn Tri kiến Phật. Trước tiên là ngài Xá-lợi-phất, kế đến là bốn vị Đại Ca-diếp, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên... sau nữa gồm 500 vị A-la-hán, và cuối cùng th́ có những vị hữu học vô học như ngài A-nan, La-hầu-la... Phật tùy theo cơ duyên mà thọ kư cho, phần này là phần khai, tức là mở ra cái hướng để nh́n và đi vào. Phẩm Hiện Bảo Tháp là phần “thị” Phật tri kiến. “Thị” là chỉ cho người thấy (ngộ), “thị” và “ngộ” không rời nhau. Tri kiến Phật tướng trạng như thế nào mà có thể chỉ được ? Tri kiến Phật là tánh giác có sẵn nơi mỗi người, hằng sáng soi mà không h́nh không tướng, nên khó chỉ khó nhận. Giống như không khí tối cần thiết cho lẽ sống của sinh vật, nhưng không h́nh không tướng nên khó chỉ; khó chỉ không phải là không có. V́ vậy mà phải mượn những h́nh ảnh biểu trưng để chỉ cho chúng ta ngầm nhận ra Tri kiến Phật, nên phẩm Hiện Bảo Tháp, phẩm Đề-bà-đạt-đa... nêu lên những h́nh ảnh biểu trưng cho Tri kiến Phật có sẵn muôn thuở không mất ở nơi mỗi người, khi người tin nhận th́ nó hiện tiền. Ở đây mang tính cách giải bày nêu ra phần khai, thị, ngộ, nhập, kỳ thật toàn bộ kinh đều chỉ cho mọi người nhận ra nơi thân năm uẩn này có sẵn Tri kiến Phật chớ không ở nơi nào khác. 1. CHÁNH VĂN : * Lúc bấy giờ, trước Phật có tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do-tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do-tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không; các món vật báu trau giồi, năm ngh́n bao lơn, ngh́n muôn pḥng nhà, vô số tràng phan để nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn ngh́n linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly cấu, chiên-đàn khắp cùng cả cơi nước. Các phan lọng đều dùng bảy thứ báu: vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mă năo, trân châu và mai khôi hiệp lại thành, cao đến ngang cung trời Tứ thiên vương, trời Đao-lợi rưới hoa mạn-đà-la cúng dường tháp báu. Các trời khác và rồng, dạ-xoa, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-dà, nhân, phi nhân v.v... ngh́n muôn ức chúng đều đem tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, phan, lọng, kỹ nhạc mà cúng dường tháp báu, đồng cung kính tôn trọng ngợi khen. Bấy giờ, trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng: “Hay thay ! Hay thay ! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn ! Có thể dùng huệ lớn b́nh đẳng v́ đại chúng nói kinh Giáo Bồ-tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế ! Đúng thêá ! Đức Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn ! Như lời Phật nói đó, đều là chân thật.” GIẢNG : Tới đây Phật nêu lên h́nh ảnh một tháp bằng bảy báu, từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư không, rồi từ trong tháp đó vang ra tiếng khen Phật Thích-ca nói kinh Pháp Hoa là đúng là chân thật. Tháp bảy báu là tượng trưng cho cái thân h́nh thành bằng thất đại: đất, nước, gió, lửa, không, thức, kiến. Khi “ngộ”, nhận ra Tri kiến Phật th́ nó thanh tịnh trở thành thất bảo, nếu c̣n mê Tri kiến Phật, tâm uế trược th́ nó là thất đại. Tại sao tháp bảy báu này nổi lên trụ ở giữa hư không mà không trụ ở mặt đất ? Ở phẩm Pháp Sư, Phật có nói người giảng kinh Pháp Hoa phải có đủ ba điều kiện là từ bi, nhẫn nhục và trí tuệ rơ biết tất cả pháp không. Trụ trong hư không là ngồi ṭa Như Lai, với trí tuệ Bát-nhă thấy tất cả các pháp tự tánh là không. Thấy được như thế mới chuyển thất đại thành thất bảo. Ngay trong thất đại có sẵn Tri kiến Phật, đoạn sau biểu trưng bằng Phật Đa Bảo, nếu gặp duyên khai mở th́ nó hiện ra rỡ ràng, nên nói ở trong tháp bảy báu vang ra tiếng khen Phật Thích-ca nói kinh Pháp Hoa đúng và chân thật. Kinh Pháp Hoa chính là Tri kiến Phật, chư Phật đời quá khứ cũng ngộ Tri kiến Phật, chư Phật đời hiện tại, đời vị lai cũng ngộ Tri kiến Phật không khác. 2. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ, bốn chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư không, lại nghe trong tháp vang tiếng nói ra, đều được pháp hỉ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chấp tay rồi đứng một bên. Lúc đó, có vị đại Bồ-tát tên Đại Nhạo Thuyết, biết ḷng nghi của tất cả trời, người, a-tu-la v.v... trong thế gian mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn ! Do nhân duyên ǵ mà có tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế ?” Lúc đó, Phật bảo ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát: “Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai, thời quá khứ về trước, cách đây vô lượng ngh́n muôn ức vô số cơi nước ở phương Đông, có nước tên Bảo Tịnh, trong nước đó có Phật hiệu là Đa Bảo, đức Phật đó tu hành đạo Bồ-tát phát lời thệ nguyện lớn rằng: Nếu ta được thành Phật sau khi diệt độ trong cơi nước ở mười phương có chỗ nào nói kinh Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta v́ nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng minh khen rằng: “Hay thay !” Đức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt độ ở trong đại chúng, trời, người, bảo các Tỳ-kheo rằng: “Sau khi ta diệt độ muốn cúng dường toàn thân của ta thời nên dựng một tháp lớn.” Đức Phật đó dùng sức nguyện thần thông nơi nơi chỗ chỗ trong mười phương cơi nước, nếu có nói kinh Pháp Hoa, thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước, toàn thân Phật ở trong tháp khen rằng: “Hay thay ! Hay thay !” Đại Nhạo Thuyết ! Nay tháp của Đa Bảo Như Lai v́ nghe nói kinh Pháp Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen rằng: “Hay thay ! Hay thay !” GIẢNG : Từ trước những người đứng ra thưa hỏi là những vị Thanh văn, La-hán có trong lịch sử. Tới đây là phần “thị” Phật tri kiến dùng h́nh ảnh biểu trưng để chỉ, nên người đứng ra thưa hỏi cũng là vị Bồ-tát biểu trưng tên là Đại Nhạo Thuyết. Ngài đứng ra thưa hỏi nguyên do nào tháp nổi lên trụ giữa hư không và vang ra tiếng như vậy ? Ngài được đức Phật giải thích rằng, trong tháp báu ấy có toàn thân Như Lai. Thời quá khứ xa xưa, về phương Đông có cơi nước tên là Bảo Tịnh, Phật hiệu Đa Bảo tu hạnh Bồ-tát, có lời thệ nguyện là sau khi Ngài diệt độ, nơi nào nói kinh Pháp Hoa th́ tháp Ngài sẽ nổi lên ở trước để nghe kinh và chứng minh. Đây lại nêu lên h́nh ảnh tượng trưng nữa. Phật đă thành Phật mà c̣n nghe pháp là chuyện thừa, v́ đă là bậc vô học rồi đâu c̣n cần nương pháp để học để tu. Tại sao Phật Đa Bảo đă Niết-bàn rồi mà c̣n nguyện nghe pháp và chứng minh pháp hội đó ? Rơ ràng là ư nghĩa biểu trưng ! Đa Bảo là nhiều báu, Bảo Tịnh là của báu trong sạch, nước Phật và hiệu Phật đều là quí báu, những món quí báu đều chỉ cho Tri kiến Phật. Tri kiến Phật thanh tịnh, sáng suốt không bị thời gian không gian chi phối, rất tôn quí nên nói là báu. Ở đây Phật Đa Bảo là chỉ cho Tri kiến Phật, hay Phật pháp thân, mà Phật pháp thân th́ thanh tịnh ở ngay nơi thân thất đại của mỗi người, nên tượng trưng bằng cơi nước Bảo Tịnh. Thí dụ con người chúng ta tâm đang bị phiền năo chi phối, thường tạo những ác nghiệp nên thường lộ ra dáng vẻ tối tăm nặng nề, nếu tâm thường an vui sáng suốt, thường tạo nghiệp lành th́ lộ ra dáng vẻ tươi sáng thanh tịnh. V́ vậy ở đây nói tâm thanh tịnh th́ hiện ra thân cũng thanh tịnh, nên nói là báu. 3. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ, ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát do sức thần của đức Như Lai mà bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn ! Chúng con nguyện muốn thấy thân của đức Phật đó.” Phật bảo ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ-tát Ma-ha-tát: “Phật Đa Bảo đó có nguyện sâu nặng: “Nếu lúc tháp báu của ta v́ nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra nơi trước các đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cơi nước trong mười phương đều phải nhóm cả một chỗ, vậy sau thân của ta mới hiện ra.” Đại Nhạo Thuyết ! Các vị Phật của ta phân thân nói pháp ở các cơi nước trong mười phương nay nên sẽ nhóm lại.” Ngài Đại Nhạo Thuyết bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn ! Chúng con cũng nguyện muốn thấy các vị Phật của Thế Tôn phân thân để lễ lạy cúng dường.” GIẢNG : Đến đây, chúng ta càng thêm sáng tỏ là, đức Phật Đa Bảo có nguyện rằng khi tháp Ngài hiện ra trong hội nghe kinh Pháp Hoa, đức Phật giảng kinh Pháp Hoa trong thời đó, muốn cho tứ chúng thấy được thân của Ngài th́, các hóa thân của Phật đó, đang phân đi giáo hóa ở khắp nơi phải tụ hội về một chỗ, ngồi yên lại, mở tháp ra mới thấy được thân của Ngài. Nếu mà phân thân Phật đi làm phật sự chưa tụ hội về th́ không thể mở tháp được, và cũng không thấy toàn thân của Phật Đa Bảo được. Lời nguyện này có ư nghĩa ǵ ? Phật pháp thân tức là Phật Đa Bảo, Phật báo thân là chỉ cho thân Phật Thích-ca giáng sinh ở Ấn Độ, Phật hóa thân hay Ứng thân là những thân Phật phân ra đi nói pháp ở các cơi trong mười phương. Muốn thấy được Phật Đa Bảo th́ các Hóa thân phải cùng qui hội về nhập Pháp thân là thấy rơ toàn thân Ngài. Đoạn sau sẽ nói rơ ư này. 4. CHÁNH VĂN : * Bấy giờ, Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặng mày, liền thấy năm trăm muôn ức na-do-tha Hằng hà sa cơi nước ở phương Đông. Các cơi nước đó đều dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ trang nghiêm, vô số ngh́n muôn ức Bồ-tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu phủ trên, đức Phật trong nước đó đều dùng tiếng lớn tốt mà nói các pháp, và thấy vô lượng ngh́n muôn ức Bồ-tát khắp đầy trong nước đó v́ chúng sanh mà nói pháp. Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía trên dưới chỗ tướng sáng lông trắng chiếu đến cũng lại như thế. Lúc đó, các Phật ở mười phương đều bảo chúng Bồ-tát rằng: “Thiện nam tử ! Ta nay phải qua thế giới Ta-bà, chỗ của đức Thích-ca Mâu-ni Phật, cùng để cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai.” * Lúc bấy giờ, cơi Ta-bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, vàng ṛng làm dây để giăng ngăn tám đường, không có các tụ lạc làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ng̣i, núi sông cùng rừng. Đốt hương báu lớn, hoa mạn-đà-la trải khắp cơi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, treo những linh báu, chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người để ở cơi khác. Lúc đó, các đức Phật đều đem theo một vị Bồ-tát lớn để làm thị giả qua cơi Ta-bà đều đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do-tuần, nhánh lá bông trái thứ lớp rất trang nghiêm. Dưới các cây báu đều có ṭa sư tử cao năm do-tuần cũng dùng đồ báu tốt mà trau dồi đó. Khi ấy, các đức Phật đều ngồi xếp bằng trên ṭa này, như thế lần lựa đến khắp đầy cả cơi tam thiên đại thiên mà ở nơi thân của đức Thích-ca Mâu-ni Phật phân ra trong một phương vẫn c̣n chưa hết. Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni v́ muốn dung thọ các vị Phật của ḿnh phân thân, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cơi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh cùng a-tu-la, lại cũng dời các hàng trời người để ở cơi khác. Những nước của Phật biến hóa ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do-tuần, nhánh lá bông trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có ṭa báu sư tử cao năm do-tuần, dùng các thứ báu để trau dồi. Những nước đó cũng không có biển cả sông ng̣i và các núi lớn: núi Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di v.v... thông làm một cơi nước Phật, đất báu bằng thẳng, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất. Đức Thích-ca Mâu-ni Phật v́ các Phật sẽ đến ngồi, nên ở nơi tám phương lại đều biến thành hai trăm muôn ức na-do-tha cơi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và a-tu-la, lại dời các hàng trời người để ở cơi khác. Những nước biến hóa ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm, cao năm trăm do-tuần, nhánh, lá, bông, trái thứ tự tốt đẹp, dưới cây đều có ṭa sư tử bằng báu cao năm do-tuần, cũng dùng chất báu tốt mà trau dồi đó. Những nước này cũng không có biển cả sông ng̣i và các núi lớn: núi Mục-chân-lân-đà, núi Đại Mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu-di v.v... thông lại làm một cơi nước Phật đất báu bằng thẳng, các báu đương xen lẫn nhau thành màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu tốt, các thứ hoa trời báu trải khắp trên đất. Bấy giờ, ở phương Đông, các đức Phật trong trăm ngh́n muôn ức na-do-tha Hằng hà sa cơi nước của đức Thích-ca Mâu-ni Phật phân thân ra, thảy đều nói pháp đến nhóm ở cơi này. Tuần tự như thế, các đức Phật trong cơi nước ở mười phương thảy đều đến nhóm ngồi ở tám phương. Bấy giờ, mỗi mỗi phương các đức Như Lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm muôn ức na-do-tha cơi nước. GIẢNG : Đức Phật Thích-ca được đại chúng yêu cầu họp các hóa thân Phật của Ngài về, để chúng chiêm ngưỡng và được thấy đức Phật Đa Bảo ở trong tháp. Bấy giờ Phật Thích-ca từ giữa chặng mày phóng ra một luồng hào quang sáng qua vô số cơi nước ở phương Đông, Nam, Tây, Bắc... Các hóa thân Phật thấy hào quang liền biết Phật muốn ḿnh qui hội về, tuần tự các Ngài rủ nhau về. Khi vô số hóa thân Phật đều qui hội về th́ cơi Ta-bà này được dẹp hết các loài trời, người, a-tu-la, súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, chỉ c̣n một cơi thanh tịnh, hiện ra các ṭa báu để cho hóa thân Phật an trụ. Khi hóa thân Phật an trụ xong th́ Phật mới mở cửa tháp cho đại chúng thấy Phật Đa Bảo. Chúng ta phải hiểu như thế nào về ba đức Phật này ? Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục tổ có nói về ba thân Phật như sau: Pháp thân khởi niệm; Pháp thân là Tự tánh pháp thân, khởi niệm là Hóa thân. Khi khởi niệm mà không dính không kẹt hai bên có không, tà chánh v.v... là Báo thân thanh tịnh. Thân tuy nói là ba nhưng cùng một thể. Pháp thân là chỉ cho Tự tánh thanh tịnh của chính ḿnh, Báo thân là chỉ cho tâm thanh tịnh ĺa chấp hai bên, c̣n niệm tưởng dấy từ tâm gọi là Hóa thân. Như chúng ta mỗi ngày khởi vô số nghĩ tưởng hết chuyện xưa đến chuyện nay, hết chuyện thiện tới chuyện ác, hết chuyện bên Đông tới chuyện bên Tây... Đó là Hóa thân của chúng ta, v́ chúng ta là phàm phu nên Hóa thân không đi giáo hóa chúng sanh, mà là đi phá phách chọc ghẹo chúng sanh, chớ không làm được điều ǵ hay. Ví dụ như đang tu, bỗng dưng khởi lên những niệm rất trần tục đó là phá phách chớ ǵ? Chư Phật đă giác ngộ thấy nơi nào chúng sanh có duyên liền khởi nguyện đến giáo hóa. Phật khởi niệm, khởi trong giác ngộ chớ không khởi trong mê mờ như chúng sanh. Do đó chúng sanh có vô số phiền năo, Phật cũng có vô số Hóa thân để giáo hóa. Bây giờ muốn thấy được Pháp thân Phật th́ Hóa thân phải qui về với Báo thân và phải ngồi yên, nghĩa là những Hóa thân tức là những vọng tưởng chạy Đông chạy Tây khắp cả mười phương phải dừng, phải định th́ Pháp thân Phật mới hiển hiện, nếu c̣n vọng tưởng rối loạn th́ Pháp thân Phật không hiển hiện. Chúng ta tu hành lúc nào cũng vậy, nếu muốn được giác ngộ th́ phải định, tức là sạch hết mọi loạn tưởng rồi mới phát huệ, tức là nhận ra Tri kiến Phật sẵn có nơi ḿnh. Đây là những h́nh ảnh biểu trưng, chúng ta chớ kẹt trên danh tướng mà không thấu được lư kinh, rồi không ứng dụng tu hành được. Đến đây chúng ta thấy có cái ǵ mâu thuẫn: Tại sao cơi Ta-bà của Phật Thích-ca không thanh tịnh, nào là núi sông, g̣ nổng, sỏi cát... lộn xộn đủ thứ, c̣n các cơi phân thân Phật đến giáo hóa th́ thanh tịnh trang nghiêm toàn là bảy báu ? Như vậy phân thân do Phật hóa ra có giá trị hơn chính Báo thân Phật Thích-ca sao ? Như trên đă nói Hóa thân là những vọng tưởng chạy khắp mười phương nghĩ về người, về trời, về thú, về địa ngục... đó là đang đi trong lục đạo. Tất cả những vọng tưởng đó đều bất tịnh. Khi mà dừng hết mọi vọng tưởng bất tịnh chạy Đông chạy Tây đó, th́ tâm thanh tịnh an định, nên cơi nước cũng thanh tịnh, mà khi tâm thanh tịnh th́ Phật hiện tiền. Nhưng muốn dừng hết mọi vọng tưởng không chạy Đông chạy Tây, hay nói theo trong kinh là gom hết Hóa thân Phật về một nơi th́ trước tiên phải có trí tuệ không kẹt hai bên. Người đối với cảnh khởi niệm phân biệt hai bên, tốt xấu, hay dở, phải trái... rồi sanh ưa ghét, niệm khởi rồi diệt, diệt rồi sanh, sanh sanh diệt diệt, vô số vọng niệm chạy khắp sáu đường không dừng nghỉ, nên phiền năo trần lao cũng vô số. Đó là người thấy một bên không có trí tuệ. Nếu người có trí tuệ đối với các pháp thấy đúng như thật, do duyên hợp tạm có, không có tự thể cố định nên không chấp thế này là tốt thế kia là xấu, không khởi niệm ưa chán t́m cầu hay ghét bỏ, nên không bị phiền năo chi phối, tâm được an định. Như vậy là người có trí không kẹt hai bên. Trí không kẹt hai bên ở đây tượng trưng bằng h́nh ảnh hào quang phát ra ở giữa chặng mày. 5. CHÁNH VĂN : * Lúc đó các đức Phật đều ngồi ṭa sư tử dưới cây báu, đều sai vị thị giả qua thăm viếng đức Thích-ca Mâu-ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo thị giả rằng: Thiện nam tử ! Ngươi qua đến núi Kỳ-xà-quật, chỗ của đức Thích-ca Mâu-ni Phật, theo như lời của ta mà thưa cùng Phật thế này: “Như Lai có được ít bịnh ít khổ sức khỏe an vui, và chúng Bồ-tát cùng Thanh văn đều an ổn chăng ?” Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúng dường mà thưa rằng: “Đức Phật kia cùng muốn mở tháp báu này.” Các đức Phật sai người đến cũng như vậy. Bấy giờ, đức Thích-ca Mâu-ni Phật thấy các vị Phật của ḿnh phân thân đều ngồi trên ṭa sư tử, đều nghe các Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả hàng bốn chúng đồng đứng dậy chấp tay một ḷng nh́n Phật. Khi ấy, đức Thích-ca Mâu-ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khóa chốt mở cửa thành lớn. Tức thời, tất cả chúng trong hội đều thấy đức Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu ngồi ṭa sư tử, toàn thân không ră như vào thiền định, lại nghe Phật đó nói: “Hay thay ! Hay thay ! Thích-ca Mâu-ni Phật sướng thích nói kinh Pháp Hoa đó, ta v́ nghe kinh đó mà đến cơi này.” Bấy giơ,ø hàng tứ chúng thấy đức Phật đă diệt độ vô lượng ngh́n muôn ức kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu rải trên đức Phật Đa Bảo và Phật Thích-ca Mâu-ni. Lúc đó, đức Đa Bảo Phật ở trong tháp báu chia nửa ṭa cho Thích-ca Mâu-ni Phật mà nói rằng: “Thích-ca Mâu-ni Phật có thể đến ngồi trên ṭa này.” Tức thời đức Thích-ca Mâu-ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa ṭa đó. Bấy giờ, hàng đại chúng thấy hai đức Như Lai ngồi xếp bằng trên ṭa sư tử trong tháp bảy báu thời đều nghĩ rằng: “Đức Phật ngồi trên cao xa, cúi mong đức Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không.” Tức thời đức Thích-ca Mâu-ni Phật dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không, rồi dùng tiếng lớn mà khắp bảo đó rằng: “Ai có thể ở trong cơi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nay chính phải lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho có người.” GIẢNG : Khi Hóa thân Phật cùng qui hội về, đều ngồi trên ṭa sư tử sai thị giả đem hoa báu đến núi Kỳ-xà-quật vấn an Phật Thích-ca, cùng với đại chúng và cúng dường cung thỉnh Phật Thích-ca mở tháp bảy báu để chiêm ngưỡng Phật Đa Bảo. Sau khi Hóa thân Phật qui hội về ngồi yên rồi, Phật Thích-ca mới mở được cửa tháp cho đại chúng thấy toàn thân Phật Đa Bảo trong tháp, và Phật Đa Bảo mời Phật Thích-ca cùng ngồi nửa ṭa với Ngài. Như vậy để thấy rằng Pháp thân là có sẵn muôn đời nếu dừng hết vọng tưởng điên đảo th́ ngay nơi Báo thân này Pháp thân hiện tiền. Nếu c̣n vọng tưởng duyên theo ngoại cảnh th́ Pháp thân ẩn khuất không hiển hiện. Khi đại chúng thấy hai đức Phật cùng ngồi ṭa sư tử trong tháp bảy báu trên hư không, đều nghĩ rằng Phật ngồi trên hư không cao xa, mong đức Như Lai dùng sức thần thông khiến cho các Ngài đều được ở trên hư không. Phật Thích-ca liền dùng thần thông tiếp đại chúng trên hư không. Tại sao có những hiện tượng như vậy ? Như phẩm Pháp Sư đă nói, người nào muốn thấy được Tri kiến Phật là phải từ bi, nhẫn nhục và thấy tất cả pháp là không. V́ vậy, đức Phật phương tiện giáo hóa để cho người dùng trí Bát-nhă tu, thấy tất cả pháp là không, đó là thần thông, chớ không phải dùng thần lực đưa tất cả đại chúng từ mặt đất lên hư không để thấy Phật. Nếu Ngài biến hóa đại chúng được như vậy th́ Ngài cũng biến hóa cho tất cả chúng sanh thành Phật, để họ khỏi tu, v́ tu khó và lâu lắm mới được thành Phật. Đó là Ngài vận dụng phương tiện giáo hóa cho chúng sanh tỉnh giác, không c̣n lầm lẫn chấp các pháp là thật có. Thấy rơ các pháp duyên hợp giả có, tự tánh là không, tâm không c̣n chấp, không c̣n chạy theo các pháp, tâm an định, Pháp thân hiển hiện. V́ vậy ở đây nói nâng đại chúng lên hư không để thấy Phật và được nghe Phật nói pháp. Và sau khi nâng đại chúng lên hư không rồi, nói rằng: “Ai có thể ở trong cơi Ta-bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nay chính phải lúc. Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết-bàn, Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho có người.” Khi nâng đại chúng lên hư không th́ ngang chừng đó là phải lúc, là xứng đáng nhận lănh lời phó chúc, nên Ngài kết luận là Ngài sắp vào Niết-bàn, ai có thể nói kinh Pháp Hoa th́ Ngài giao phó. Khi đại chúng c̣n ở dưới đất tức là c̣n chấp có, chấp không, thấy hai bên, Ngài không tuyên bố lời này. Khi nâng đại chúng lên hư không, tức là đại chúng đă có trí tuệ thấy rơ tất cả pháp đúng như thật, không c̣n kẹt hai bên, Phật mới tuyên bố như vậy. Qua những h́nh ảnh trên, nếu chúng ta căn cứ trên chữ nghĩa th́ thấy khó hiểu khó tin, thấy như huyễn hoặc mê tín, rồi đâm ra phỉ báng kinh. Lư kinh thật cao siêu tuyệt diệu, nếu chúng ta không hiểu, vô t́nh biến thành cái tầm thường rồi phỉ báng, điều này không nên để xảy ra. 6. CHÁNH VĂN : Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng: * Đấng Thánh chúa Thế Tôn Dầu diệt độ đă lâu Ở trong tháp báu này C̣n v́ pháp mà đến Các ông lại thế nào Há chẳng siêng v́ pháp ? Phật Đa Bảo diệt độ Đă vô lượng số kiếp Nơi nơi đến nghe pháp V́ khó gặp được vậy. Phật kia bổn nguyện rằng: Sau khi ta diệt độ Nơi nơi tháp ta qua Thường v́ nghe Pháp Hoa. Lại vô lượng các Phật Số nhiều như Hằng sa Của ta phân thân ra V́ muốn đến nghe pháp Và cùng để ra mắt Phật diệt độ Đa Bảo Nên đều bỏ cơi đẹp Cùng với chúng đệ tử Trời, người, rồng, thần thảy Và các việc cúng dường Muốn pháp lâu ở đời Cho nên đến cơi này. Ta v́ các Phật ngồi Dùng sức thần thông lớn Dời vô lượng trời, người Làm cho nước thanh tịnh. Các đức Phật mỗi mỗi Đều đến dưới cây báu Như hoa sen trang nghiêm Nơi ao báu trong sạch. Dưới mỗi cây báu đó Có ṭa báu sư tử Phật xếp bằng ngồi trên Sáng suốt rất đẹp đẽ Như giữa đêm tối tăm Đốt đuốc lớn lửa sáng. Thân Phật thoảng hương thơm Bay khắp mười phương nước Chúng sanh được hương xông Vui mừng không kể xiết Thí như luồng gió lớn Thổi lay nhánh cây nhỏ Dùng các phương tiện đó Làm cho pháp ở lâu. GIẢNG : Phật khuyến khích đại chúng rằng Phật Đa Bảo đă Niết-bàn lâu rồi, nay v́ kinh Pháp Hoa mà hiện bảo tháp để nghe, bởi kinh Pháp Hoa khó gặp khó được, đại chúng nên phát tâm thọ tŕ kinh Pháp Hoa. 7. CHÁNH VĂN : * Nói cùng hàng đại chúng Sau khi ta diệt độ Ai có thể hộ tŕ Đọc nói kinh pháp này Thời nay ở trước Phật Nên tự phát lời thệ. Coi Phật Đa Bảo kia Dầu đă diệt từ lâu Do bổn thệ nguyện rộng Mà c̣n rền tiếng lớn. Đức Đa Bảo Như Lai Và cùng với thân ta Nhóm họp các Hóa Phật Phải nên biết ư này. Các hàng Phật tử thảy Ai có thể hộ pháp Nay nên phát nguyện lớn Khiến pháp ở đời lâu. Có ai hay hộ được Kinh Diệu Pháp Hoa này Thời là đă cúng dường Thích-ca cùng Đa Bảo Đức Đa Bảo Phật đây Ở trong tháp báu lớn Thường dạo qua mười phương V́ để nghe kinh này. Cũng là để cúng dường Các Hóa Phật đến nhóm Trang nghiêm rất sáng đẹp Các thế giới vô lượng. Nếu người nói kinh này Thời là đă thấy ta Cùng Đa Bảo Như Lai Và các vị Hóa Phật. GIẢNG : Phật dạy tất cả những người đă phát tâm thọ tŕ kinh Pháp Hoa, sau đó là phải thệ nguyện. Tại sao phải thệ nguyện ? V́ Phật Đa Bảo từ muôn kiếp tới giờ vẫn c̣n ở trong tháp không hư không hoại, đó là nói lên ư nghĩa Pháp thân không hoại diệt v́ nó vô tướng, bởi vô tướng nên thọ tŕ rất là khó. Phàm cái ǵ có h́nh tướng mắt thấy tay sờ mó được th́ nắm bắt ǵn giữ tương đối dễ. Tri kiến Phật tuy không tướng mà hằng hiện hữu, muốn chỉ và muốn nhận rất khó, nên đ̣i hỏi người tu phải bền chí nhẫn nại tâm không lui sụt, mới có thể tiến tới đích được. Tuy biết ḿnh có sẵn Tri kiến Phật, song thời gian tu để nhận ra nó không hạn định. Trong kinh thường diễn tả rất lâu xa, nếu thệ nguyện không vững, khi khỏe vui th́ tu, mệt buồn th́ nghỉ, như vậy không tiến. Do đó Phật dạy người phát tâm thọ tŕ kinh Pháp Hoa phải có chí nguyện bền vững. 8. CHÁNH VĂN : * Các thiện nam tử này Đều nên suy nghĩ kỹ Đây là việc rất khó
Phải phát nguyện rộng lớn Bao nhiêu kinh điển khác Số nhiều như Hằng sa Dầu nói hết kinh đó Cũng chưa đủ làm khó, Hoặc đem núi Diệu Cao Ném để ở phương khác Cách vô số cơi Phật Cũng chưa lấy làm khó Nếu người dùng ngón chân Động cơi nước Đại Thiên Ném xa qua cơi khác Cũng chưa lấy làm khó, Hoặc đứng trên Hữu Đảnh Nói vô lượng kinh khác V́ để dạy bảo người Cũng chưa lấy làm khó, Nếu sau lúc Phật diệt Người ở trong đời ác Có thể nói kinh này Đây thời rất là khó. Giả sử lại có người Dùng tay nắm hư không Để mà khắp dạo đi Cũng chưa lấy làm khó, Sau khi ta diệt độ Nếu người tự thơ tŕ Hoặc bảo người thơ tŕ (Thơ tŕ: biên chép và thọ tŕ) Đây thời là rất khó. Hoặc đem cả cơi đất Để trên móng ngón chân Bay lên đến Phạm thiên Cũng chưa lấy làm khó, Sau khi Phật diệt độ Người ở trong đời ác Tạm đọc kinh pháp này Đây thời mới là khó. Giả sử gặp kiếp thiêu Gánh mang những cỏ khô Vào lửa không bị cháy Cũng chưa lấy làm khó, Sau khi ta diệt độ Nếu người tŕ kinh này V́ một người mà nói Đây thời mới là khó. Hoặc người tŕ tám muôn Bốn ngh́n các tạng pháp Đủ mười hai bộ kinh V́ người mà diễn nói Khiến các người nghe pháp Đều được sáu thần thông Dầu được như thế đó Cũng chưa lấy làm khó, Sau khi ta diệt độ Nghe lănh kinh điển này Hỏi nghĩa thú trong kinh Đây thời mới là khó. Hoặc có người nói pháp Làm cho ngh́n muôn ức Đến vô lượng vô số Hằng hà sa chúng sanh Chứng được quả La-hán Đủ sáu phép thần thông Dầu có lợi ích đó Cũng chưa phải là khó, Sau khi ta diệt độ Nếu người hay phụng tŕ Những kinh điển như đây Đây thời là rất khó. GIẢNG : Phật nói kinh Pháp Hoa rất khó thọ tŕ, khó đem ra giảng dạy. Ngài dùng những ví dụ để so sánh cái khó của kinh Pháp Hoa. Thứ nhứt là dầu cho nói hết kinh điển của Phật nhiều như số cát sông Hằng cũng chưa đủ làm khó. Thứ hai là đem núi Diệu Cao ném ở phương khác, cách vô số cơi Phật cũng chưa phải là khó. Thứ ba là dùng ngón chân động cơi nước Đại Thiên ném xa qua cơi khác cũng chưa phải là khó. Thứ tư là đứng trên cơi trời Sắc Cứu kính nói vô lượng kinh để dạy bảo người cũng chưa phải là khó. Thứ năm là dùng bàn tay nắm hư không để dạo đi khắp cơi nước cũng chưa phải là khó. Thứ sáu là đem tất cả cơi đất để trên móng ngón chân bay lên đến Phạm Thiên cũng chưa phải là khó. Thứ bảy là gặp kiếp thiêu mang những cỏ khô vào lửa không bị cháy cũng chưa phải là khó. Thứ tám là tŕ tám muôn bốn ngh́n tạng pháp đủ mười hai bộ kinh, giảng nói cho người nghe chứng lục thông cũng chưa phải là khó. Thứ chín là nói pháp độ cho vô số chúng sanh chứng lục thông La-hán cũng chưa phải là khó. Cái khó nhất là sau khi Phật diệt độ ở trong đời ác nói được kinh này mới thật là khó. Chín việc khó vừa nêu trên, đối với khả năng chúng ta đă không làm được, thế mà sánh với việc thọ tŕ giảng nói kinh Pháp Hoa trong đời ác trược càng khó hơn nữa. Như vậy là sao ? Đời ác trược là thời mà tâm người đang điên đảo móng vọng t́m cầu, tranh giành, dua nịnh, người mạnh lấn hiếp người yếu, khen ḿnh chê người, lừa dối lẫn nhau. Với tâm người mê mờ cuồng loạn như thế, mà giảng nói Tri kiến Phật th́ họ có tin có nhận được không? Thật khó mà tin nhận được ! V́ muốn nhận ra Tri kiến Phật là phải dừng tất cả mọi vọng niệm. Nếu vọng niệm c̣n chạy ngược chạy xuôi, dù cho thuyết giảng thế nào chăng nữa, người ta cũng không hiểu không tin nên nói là khó. Nên nhớ, kinh này là chỉ cho Tri kiến Phật, chớ không phải bộ kinh văn tự được ghi chép bằng giấy mực và đóng lại thành tập thành bộ. Thế nên muốn giảng giải chỉ cho người nhận ra Tri kiến Phật là phải có đủ từ bi, nhẫn nhục và trí tuệ mới hội đủ điều kiện để thuyết giảng, nên nói là khó. Ngày nay chúng ta thấy giảng kinh Pháp Hoa tuy dễ, nhưng nếu làm đúng th́ chúng ta ít ai làm được. Như hôm nay tôi giảng kinh Pháp Hoa cũng chỉ là gượng gạo nói, chưa trọn vẹn ư nghĩa trên và có lẽ người nghe cũng c̣n dính kẹt đủ thứ trần lao, nên nghe th́ nghe chớ chưa nhận ra Tri kiến Phật. 9. CHÁNH VĂN : * Ta v́ hộ Phật đạo Ở trong vô lượng cơi Từ thuở trước đến nay Rộng nói nhiều các kinh Mà ở trong kinh đó Kinh này là bậc nhứt Nếu có người tŕ được Thời là tŕ thân Phật. Các thiện nam tử này Sau khi ta diệt độ Ai có thể thọ tŕ Và đọc tụng kinh này Thời nay ở trước Phật Nên tự nói lời thệ Kinh pháp đây khó tŕ Nếu người tạm tŕ đó Thời ta rất vui mừng Các đức Phật cũng thế Người nào được như vậy Các đức Phật thường khen Đó là rất dơng mănh Đó là rất tinh tấn Gọi là người tŕ giới Bậc tu hạnh đầu-đà Thời chắc sẽ mau được Quả Vô thượng Phật đạo. Có thể ở đời sau Đọc tŕ kinh pháp này Là chân thật Phật tử Trụ ở bậc thuần thiện. Sau khi Phật diệt độ Có thể hiểu nghĩa này Thời là mắt sáng suốt Của trời người trong đời. Ở trong đời kinh sợ Hay nói trong chốc lát Tất cả hàng trời người Đều nên cúng dường đó. GIẢNG : V́ muốn hộ tŕ Phật đạo thường c̣n mà Phật hằng nói kinh, và trong các kinh, Phật thường nói kinh Pháp Hoa là bậc nhứt. Nên người nào thọ tŕ kinh này là hộ tŕ pháp Phật, thọ tŕ thân Phật được Phật hoan hỉ tán thán khen ngợi là người tŕ giới tinh tấn, dơng mănh tu hạnh đầu đà, chắc chắn sẽ mau được Vô thượng Phật đạo, sẽ là con mắt sáng cho thế gian, xứng đáng cho trời người cúng dường. ] |
[muc luc][loi dau sach][kinh lieu phap lien hoa]
[p1][p2-d1][p2-d2][p3-d1][p3-d2][p4][p5][p6][p7-d1][p7-d2][p8][p9][p10][p11][p12]
[p13][p14][p15][p16][p17][p18][p19][p20][p21][p22][p23][p24][p25][p26][p27][p28][toat yeu toan bo kinh]